Thursday, 23 November 2017

CHÚA ƠI, NGƯỜI Ở ĐÂU?




Hôm nay, xin kính mời quí ông bà và anh chị em cùng tôi nghe lại một chứng từ. Có lẽ anh chị em đã nghe nhiều về những truyện giống như thế này. Nhưng đối với tôi, câu chuyện mà tôi gọi là chứng từ lòng tin đã có ảnh huởng thật sâu đậm trong tôi. Vị linh mục trong câu chuyện là một trong các vị bề trên của chúng tôi. Cho dù, ngài đã hoàn tất chương trình của Thiên Chúa, và trong nhà Cha trên trời; tôi tin tưởng ngài tiếp tục phù hộ, giúp chúng ta sống tốt như gương sáng của ngài. Còn cô gái là ai thì tôi không hề biết, nhưng việc làm của cô cũng rất đáng ngưỡng mộ và noi theo.

Truyện kể như sau: Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam đã phải đối diện với một sự thay đổi thật bất ngờ; các nhà lãnh đạo cố gắng tìm kiếm đường lối để cai trị. Còn dân chúng, muôn người như một đều băn khoăn và lo lắng cho tương lai của mình. Điều tai hại hơn cả là vì quá sợ hãi nên con người đã mất niềm tin và từ đó họ thiếu niềm tin nơi nhau nữa. Đứng trước sự chuyển biến của đất nước và hoàn cảnh thực tế mà dân chúng đang phải đối diện. Một linh mục trong phần thuyết giảng đã khuyên các tín hữu, hãy tin vào Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện trong các biến cố của đời sống nói riêng và của con dân đất Việt đang phải đối diện nói chung. Ngài nhấn mạnh rằng tin vào Thiên Chúa thôi chưa đủ, mà còn phải tin vào sự soi sáng của Thiên Chúa cho những người lãnh đạo đất nước.

Sau thánh lễ, có người xin phép được găp ngài. Trước mặt ngài là một thiếu nữ mà cha chưa hề quen biết. Sau những lời chào hỏi, cô cho biết là Chúa soi sáng cho cô qua lời giảng dậy của cha hôm nay. Vị linh mục nhìn cô mỉm cười; ngài chưa kịp nói gì thì cô đã tiếp tục: Thưa cha, con từ miền Tây lên Thành phố để kiếm việc; nhưng việc thì không có mà còn bị người ta lừa. Đến lúc này con đã hết tiền. Thật là không may, mới hôm qua con được tin mẹ con bị đau nặng, chẳng biết xoay sở thế nào, nên vào đây mượn cha ít tiền để về lại quê mà lo cho mẹ, con hứa sẽ hoàn trả.

Ông cha nhà ta nghĩ thầm: Thật là oái ăm; trong bài giảng mình vừa khuyên họ phải tin vào Thiên Chúa, và còn khuyên họ tin vào con người nữa. Hơn thế nữa, chẳng thà con bé này cứ nói thật rồi xin ít tiền cho xong chuyện, còn bầy vẽ chuyện vay với mượn. Nghĩ thì nghĩ như thế, nhưng nhìn con bé thât đáng thương, vì thế ngài mới nói: “Con ngồi đây, để cha tính.” Nói xong, cha trở vào trong tu viện.

Phần cô gái đáng thương tiếp tục ngồi chờ đợi ở phòng khách, trong lúc chờ đợi, cô tự nghĩ và nói thầm rằng: “Lại gặp một ông cha chỉ biết nói. Chắc lại tìm cách thoái thác để trốn mình đây?” Cho dù có ý nghĩ như thế; nhưng cô ta cũng chẳng còn biết làm thế nào; đành ngồi đó đợi thêm chút nữa. Đang miệt mài trong các ý tưởng hoài nghi như thế. Thì kìa, cánh cửa phòng khách của tu viện lại được mở ra, trên tay cầm mấy phong thư, vị linh mục vừa trao cho cô vừa nói: “Đây là số tiền mà cha gom góp được con cầm về để lo cho mẹ con.” Thật quá xúc động nên cô đã không thốt nên lời, tần ngần nhận quà và lí nhí hai tiếng cảm ơn. Còn ông cha trở về với công việc và ngài cũng chẳng còn nhớ đến cuộc gặp gỡ này nữa.


Vài năm sau, vào một buổi chiều, có một người con gái đến xin gặp cha. Trước mặt cha là một thiếu nữ hoàn toàn xa lạ mà ngài chưa từng gặp bao giờ. Sau những lời chào hỏi, cô ta kể lại câu chuyện đã trôi qua vài ba năm trước mà cha không còn nhớ. Nói xong cô ta hoàn trả lại số tiền mà ngài đã cho cô mượn, rồi nói thêm; Cảm ơn cha đã tin con. Chính việc cha giúp con đã làm con thay đổi. Cha đã dậy con một bài học thật quan trọng là đừng bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa, và cần thể hiện niềm tin bằng những việc làm cho nhau; đặc biệt cho những ai đang sống trong các cảnh khốn cùng. Món quà ‘niềm tin’ này còn có giá trị hơn số tiền mà cha đã cho con mượn. Theo tôi thì việc làm của cô gái rất đáng được ca tụng; bởi vì những con người như cô càng ngày càng hiếm thấy trong xã hội hôm nay.

Thưa anh chị em,

Câu chuyện nói trên biểu lộ phần nào ý chính của dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe. Những diễn biến của ngày chung thẩm, ngày phán xét chung được diễn tả trong dụ ngôn quá đầy đủ. Trong ngày đó, Chúa sẽ không chất vấn về lòng sùng đạo qua việc đọc bao nhiêu kinh? Cầu nguyện bao nhiêu lần? Xưng bao nhiêu lần và xưng các tội nào? Rước lễ có theo ý ngay lành hay không? Đã tham gia bao nhiêu chuyến hành hương hay có một lòng một ý khi tham dự các nghi thức phụng vụ như Thánh Lễ hay không? Nhưng, trong ngày đó, Ngài sẽ hỏi chúng ta đã làm gì cho nhau? Muốn có câu trả lời cho ngày đó, thì ngay bây giờ, trong mọi giây phút của cuộc sống; chúng ta cần để cho Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay chất vấn và chỉ có một việc duy nhất mà chúng ta cần thực hiện là nỗ lực làm cho trần gian này trở thành nơi chan chứa tình huynh đệ, nơi không còn chia rẽ, nơi mà những giọt lệ của đau thương sẽ nhường chỗ cho niềm vui và an bình, nơi mà người tốt và xấu có thể sống chung hòa bình. Quả thật, chúng ta không cần chờ đến ngày tận thế mới thấy Chúa. Và nếu chúng ta chờ cho đến ngày đó mới thấy Chúa thì đã quá trễ rồi! Nhất là làm sao chúng ta có thể nhận ra ai là Chúa, một khi trong cuộc sống chúng ta chưa hề gặp gỡ hay có một kinh nghiêm nào về Ngài! Trong khi đó, ngay bây giờ và trong lúc này, Chúa đang ở giữa chúng ta, đặc biệt nơi những người khốn khổ nhất.

Có một chi tiết trong bài Tin mừng gây không ít ngạc nhiên là trong câu trả lời của cả hai nhóm, chiên cũng như dê, những người thực hiện lòng thương xót và những ai không làm, đều không biết đến sự hiện diện của Chúa ở nơi những con người khốn khổ và bé mọn. Họ nói: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, Chúa khát mà cho uống, Chúa trần truồng mà cho áo mặc, Chúa đau yếu hay bị giam trong các nhà tù mà đến thăm rồi phục vụ Chúa đâu?” Như vậy đâu là động lực khiến họ khác nhau? Phải chăng nhóm thuộc về phe chiên là những ai sống theo lương tâm và nhịp đập của con tim, biết rung cảm trước các nỗi khốn cùng của nhau; còn nhóm dê thì không. Như vậy, trước khi để cho Lời Chúa tác động, con người cần sống với chất liệu và nhịp rung cảm của trái tim, để thực hiện lòng thương xót và quan tâm cho nhau trước. Thật ra, chính con tim nhậy cảm mà Chúa đã đặt vào trong thân xác tôi đã dậy cho tôi biết rằng: tha nhân và Chúa không hề tách biệt nhau. Ngoài con tim nhậy cảm, chúng ta còn được Lời Chúa hướng dẫn nữa. Cụ thể, Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã tỏ cho tôi biết rằng Chúa đã nên đồng hình đồng dạng với con người, đặc biệt những ai bé mọn: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Còn lời khẳng định nào rõ ràng hơn. Đức Giêsu đã xác định thật rõ ràng về sự liên hệ mật thiết giữa những người bé nhỏ, hèn mọn này với Người. Vì thế, những việc chúng ta làm cho nhau vì Chúa, hay vì được khen thưởng rồi cũng bị phơi bày ra hết.


Như vậy, qua dụ ngôn này, Chúa nhắc nhở và hối thúc chúng ta cần xông xáo ra đi khỏi mình để chia sẻ và xoa dịu những nỗi đau của nhau. Đặc biệt thực hiện lòng thương xót nơi những con nguời thiếu ăn, thiếu mặc, không cửa không nhà, đang bị tù đầy, v.v… Thiếu ăn, thiếu mặc không hẳn là đói khát hay bị lạnh về phần xác, nhưng còn bao nhiêu người thiếu nụ cuời, không đựợc ủi an, tôn trọng. Không chốn nương thân không hẳn là không có nhà để ở, nhưng vì con người ngày nay ích kỷ hơn, không dám mở lòng ra đón nhận nhau và đôi khi còn tạo ra những rào cản để nhốt và giam giữ nhau… Một vài nét tiêu biểu như thế. Còn biết bao nhiêu điều cần làm, kể sao cho hết. Nhưng với ai có con tim nhậy cảm trước nỗi đau của tha nhân thì tự họ sẽ tìm ra các phương thuốc để giúp nhau. Và, đối với các kẻ tin, một lần nữa, với lời xác quyết rõ ràng của Chúa, chúng ta không còn vịn vào bất cứ một lý do nào để từ chối những người mà chúng ta gặp trong cuộc sống. Tất cả đều được quan tâm, không ai bị lọai trừ khỏi lòng mến của Thiên Chúa qua sự hiện diện của Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Người không chỉ hiện diện trong nhà thờ, hay tại những cuộc biểu dương tôn giáo; nhưng mãnh liệt và xác thực hơn cả là Người đang hiện diện trong đời sống của những người bé mọn và khốn cùng.

Dụ ngôn này được công bố vào Chủ nhật cuối của năm phụng vụ và nói đến việc thẩm định của Chúa trong ngày sau cùng. Nhưng không phải là chấm dứt. Cùng với Hội Thánh trên cuộc lữ hành trần thế, chúng ta sống với niềm hy vọng về cùng đích của đời mình là được Đức Kitô đón về nhà Cha để tham dự bữa tiệc hồng phúc, bữa tiệc cánh chung. Với niềm hy vọng đó, chúng ta bắt đầu lại con đường sống đạo bằng một khởi điểm mới phù hợp với những thách đố của Tin Mừng, đó là trong Đức Ki-tô, chúng ta quyết tâm làm chứng cho nhân lọai nhận ra tình thương của Thiên Chúa bằng chính cuộc sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau. Amen



Friday, 17 November 2017

TÀI NĂNG ĐỂ LÀM GÌ?




Qua dụ ngôn các nén bạc hôm nay, Chúa muốn nhắc chúng ta nhớ rằng: mỗi người sinh ra trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt và khác nhau. Không ai giống ai. Mỗi người là một cá thể thật quan trọng và đều có một chỗ đứng riêng biệt trong trái tim yêu thương và chương trình của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là nhận ra vị trí của mình để ý thức hơn trong việc quản lý những gì mà Chúa trao ban cho con người. Trí khôn, khả năng đặc biệt mà chúng ta hay gọi là thiên phú, vật chất, của cải đều là những tài nguyên của Thiên Chúa ban chung cho nhân loại, chứ không cho riêng ai. Do vậy, tất cả đều được mời gọi làm giàu và sinh lợi cho Chúa những hồng ân mà mình đã nhận.

Người nhận được một nén ít hơn người được năm nén, đó là điều rõ ràng; nhưng đối với Chúa thì một nén là tất cả những gì mà ông ta cần. Điều quan trọng không nằm ở chỗ nhận nhiều hay nhận ít, nhưng ở chỗ là biết dùng tài năng đó như thế nào. Bổn phận của chúng ta là sinh lợi không cho mình mà là cho chủ. Nhưng, người có một nén đã chọn việc đem chôn giấu đi, rồi sau đó lý luận và đổ thừa cho chủ. Trong câu chuyện không hề có một chi tiết nào nói ông chủ là người hà khắc; thế mà ông ‘1 nén’ này đã không nhận ra sự sai lầm của mình. Ông tưởng là ông đã biết ý của chủ; tình thực ông đã sai, khi chỉ biết nghĩ đến sự an toàn cho chính bản thân rồi làm theo ý mình; còn gán cho chủ nhận định sai lầm của ông: “…, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.”

Đây là một trong những sai lầm mà chúng ta thường vấp phải. Thay vì phát huy ân huệ đã được trao ban, chúng ta lại dùng những gì đã lãnh nhận để đầu tư vào ‘cái tôi’ và làm cho nó ‘trương phình’ lên, phình đến độ chúng ta thay quyền Chúa làm chủ đời mình. Phải chăng ‘cái tôi’ và tham vọng đã làm thay đổi vị trí của Chúa trong cuộc sống chúng ta. Thay vì làm vinh danh Chúa được cả sáng thì bằng mọi cách và dưới mọi phương tiện, chúng ta làm để mình được tôn vinh. Như vậy, có nghĩa là Chúa đã bị chôn vùi trong chính cái tôi của mình.

Dựa vào kinh nghiệm khi làm việc, chúng ta có thể nhìn thấy một số hiện tượng không mấy tốt đẹp vẫn thường xẩy ra cho một số người; đó là khi được trọng dụng và kính phục thì họ rất hăng say trong các công tác. Việc nào cũng có mặt, công tác nào cũng tham gia. Họ không chỉ cống hiến tài năng và tiền của mà còn khuyến khích và kêu gọi các thành viên trong gia đình cùng tham gia. Nhưng khi gặp chuyện bất bình, bị chạm vào ‘cái tôi’, họ không chấp nhận sự góp ý của người khác, bèn lập bè tạo phái, rồi tìm những sơ hở của người khác và buông ra những lời chỉ trích thật nặng nề và thiếu tình bác ái. Thậm chí, họ còn có ý nghĩ là chỉ mình họ mới có đủ khả năng để hoàn tất tốt đẹp những công tác mà hiện nay chính họ không muốn đụng ngón tay vào nữa.

Trong dụ ngôn hôm nay, khi trao những nén bạc cho các gia nhân ông chủ đã không ban cho họ một lịnh truyền hay lời chỉ dẫn nào rõ ràng. Điều này có nghĩa là ông tôn trọng tự do của họ. Dù được tự do; nhưng người nhận 2 nén và 5 nén đã không lạm dụng tự do để làm giầu cho bản thân, bởi vì họ biết rằng sẽ có một ngày ông chủ sẽ đến tra vấn về những gì mà họ đã nhận.

Đối với chúng ta là những tín hữu, chúng ta cũng được mời gọi hành xử tự do với vốn liếng đã được trao ban. Sự tự do này khiến chúng ta liều lĩnh chấp nhận mọi thua thiệt để trung tín với những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng. Liều lĩnh trong niềm tin vào Thiên Chúa là một trong những đức tính cần thiết mà chúng ta cần có. Liều lĩnh để làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa là một ơn gọi vô cùng cao quí mà Chúa đã mời gọi. Đây còn là một đòi hỏi vô cùng cần thiết cho thế giới bị tục hoá mà chúng ta đang sống hôm nay.

Hành vi của lòng tin được đánh giá bởi lòng mến và các việc bác ái như thánh Gia-cô-bê viết: “Giả như có anh chị em nào không có áo che thân, không có của ăn hằng ngày, mà anh chị em lại nói với họ: “hãy đi bằng an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ họ đang cần, thì nào có ích gì? Cũng vậy, đức tin không có việc làm thì quả là đức tin chết.” (2: 15-17) Và đức tin mà không dựa trên lòng mến thì nào có ích gì.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc đời của thánh An-Phong-Sô, đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, Cha của chúng tôi, chỉ tha thiết một điều và chỉ có một điều này mà ngài đã đeo đuổi trong suốt cuộc đời là: “Hãy yêu mến Chúa Giê-su”. Hôm nay chúng ta mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, cha ông chúng mình. Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận gương can đảm, chấp nhận mọi khổ hình mà cha ông chúng mình đã trải qua. Sử sách đã ghi lại bao nhiêu loại cực hình khác nhau đã được dùng để tra tấn các ngài như: nhẹ thì gông cùm, giam tù, bỏ đói; nặng hơn một chút là cho voi dầy, phơi nắng và ném xuống sông; quyết liệt hơn thì bị chặt đầu, bị thắt cổ hay bị đốt cháy; man rợ và hiểm độc nhất là bị phân thây ra từng mảnh hay là tùng sẻo… Chỉ cần tưởng tượng những cực hình nói trên cũng khiến cho con người ngày nay run sợ hãi hùng.

Tất cả các cực hình đó không nhắm đến các nỗi thống khổ về phần xác; nhưng tất cả được áp dụng để thử lòng trung tín với Chúa của các ngài. Vì thế, thật là thiếu sót, nếu chúng ta chỉ nhấn mạnh đến những nét hào hùng, những tấm gương can đảm, những cực hình mà cha ông chúng ta đã phải gánh chịu mà quên đi động lực chính đã giúp tổ tiên mình đi đến cùng; đó chính là lòng yêu mến Chúa Giê-su của các ngài. Vì yêu mến mà cha ông chúng ta đã từ khước tất cả và chấp nhận chết cho tất cả.

Thật vậy, sự hiểu biết giáo lý hay những tín điều về Thiên Chúa của các ngài thật nông cạn. Các ngài cũng không có những suy tư cao siêu về thần học. Nhưng khi trở thành tín hữu ‘một nén’, các ngài đã yêu Chúa bằng tất cả con người của các ngài. Đỉnh cao của tình yêu nơi các ngài được thể hiện qua việc chấp nhận cái chết không vì phần thưởng đã dành sẵn cho những ai trung tín với Chúa mà thôi; nhưng qua hành vi tự hiến các ngài đã noi gương Chúa Giê-su, Đấng đã hiến thân để bày tỏ lòng mến tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại. Tiến ra pháp trường bằng niềm tin và lòng mến cho nên tâm hồn cha ông của chúng ta rất thư thái và bình an, miệng các ngài vang lên những lời tha thứ và trên môi là nụ cười hân hoan của niềm vui sắp được đoàn tụ với Chúa Giêsu, Đấng mà các ngài cả đời yêu mến và trông đợi.

Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi sống trọn vẹn và sống cho đến giây phút cuối cùng bằng lòng mến. Đó chính là tâm huyết của cuộc sống. Và đó cũng là phương thức làm giàu các ân huệ và khả năng mà Chúa đã trao ban để sinh lợi cho Chúa, không cho sự an toàn của bản thân mình. Rồi, cũng giống như cha ông mình, các bậc tiền bối đã sống trọn vẹn lòng mến vì danh Chúa Kitô, mỗi người chúng ta đến lúc đó, sẽ nhận được Lời Chúa phán rằng: “Hỡi con yêu dấu, con đã trung tín trong việc nhỏ mà ta đã trao phó, thì giờ đây ta sẽ đặt con trông nom việc lớn hơn. Hãy vào mà hưởng niềm vui với Ta.”


Ước gì ai ai cũng được như vậy. Amen. 

Thursday, 9 November 2017

AI KHÔN, AI DẠI?




Hôm nay, Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn để giảng dậy. Người đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Người để nhắn gửi sứ điệp “Hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào hay giờ nào.” Đối với Chúa, chúng ta không tỉnh thức, ngồi đó mà chờ đợi; nhưng thái độ tỉnh thức của chúng ta mang tính tích cực và chủ động. Không ai trong chúng ta biết khi nào Chúa đến. Có một điều chúng ta biết rõ là chúng ta không tự mình đến và hiện diện trên mặt đất này. Chúa là Đấng đem chúng ta đến trần gian để chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao phó; vì thế, rồi cũng có một ngày Chúa sẽ đến cất chúng ta về.

Trong hiện taị, như các cô gái trong dụ ngôn, chúng ta nên chuẩn bị sẵn sàng, bằng cách trang bị cuộc sống cho đủ số lượng dầu để khi Ngài đến, chúng ta có thể thắp đèn đón tiếp Ngài.

            Ngay trong phần đầu của dụ ngôn, Đức Giê-su nói rõ là trong mười cô đã có 5 cô dại khờ và 5 cô khôn ngoan. Sự khác biệt của họ là 5 cô dại khờ, mang đèn mà không mang theo dầu; còn 5 cô kia đuợc xếp vào lớp người khôn ngoan vì các cô đã biết chuẩn bị cho lượng ‘dầu’ mà các cô cần mang theo để đón chú rể. Vì thế, trong lúc chờ đợi; tuy đã ngủ thiếp đi, nhưng các cô cũng ngủ trong tư thế sẵn sàng; vì đã dự trữ đủ lượng dầu cần thiết cho cuộc rước.

Có một số người giải thích dầu ở đây nghĩa là đức tin, cầu nguyện, việc tham dự các thánh lễ, những việc thờ phựơng khác, và tất cả những việc khác giống như vậy. Thật ra dầu chỉ là hiệu quả của việc chọn lựa; còn ‘đức khôn ngoan’ mới là động lực của cuộc sống, giúp họ luôn sẵn sàng để đón đợi chú rể đến, bất cứ lúc nào.

Vậy họ là ai? Đó là những người đã tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa không bằng môi miệng mà còn bằng chính cuộc sống của họ. Họ là những người khôn xây nhà trên đá. Họ là những đầy tớ trung tín và khôn ngoan, chọn các điều làm lợi cho chủ. Họ là thành phần tìm kiếm ý định của Thiên Chúa để sống. Và, giống như 5 cô thiếu nữ khôn ngoan trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ là những người bằng lòng chấp nhận lối sống phù hợp với yêu cầu của Tin Mừng. Trong đó các tiêu chuẩn của Nước Trời, những phúc thật của bài giảng trên núi, như: nghèo khó, hèn mọn, đau khổ không hẳn là những điều bất hạnh xẩy đến cho họ. Trái lại giầu có, danh vọng, uy quyền lại có thể trở thành những chướng ngại cản đường tiến lên hạnh phúc đích thật của chúng ta.

Hôm nay ngoài đức khôn ngoan được thể hiện qua việc mang theo lượng dầu để dùng trong việc đón tiếp chàng rể; chúng ta nên để ý đến một chi tiết khác trong bài Tin Mừng; khi cánh cửa phòng tiệc cưới khép lại, các cô khờ dại không được vào dự tiệc cưới; và tiếng của chàng rể vọng ra: “Tôi bảo thật các cô, tôi không hề biết các cô!” (Mt 25:12).

Qua đó, chúng ta nhận ra việc Chúa biết ta là điều cần thiết trong cuộc sống. Còn chúng ta, hãy tạo điều kiện để Chúa biết ta. Nghe thật lạ đời, phải không? Thưa anh chị em. Bởi vì chúng ta thường được dậy bảo là hãy ra đi tìm kiếm để biết Chúa. Tuy nhiên, kiểu chúng ta biết Chúa, ra lịnh cho Chúa làm theo ý mình, yêu cầu Chúa đến lúc mình muốn cũng là những hiện tượng rất phổ thông trong cuộc sống.
 
Trên đời này cũng có nhiều kiểu biết Chúa. Những kiểu ‘biết Chúa’ của chúng ta cũng lạ đời lắm! Có ai ngờ cả nhóm, cả gia đình, cả xứ đạo đều biết Chúa; thế mà Chúa của ông này chống Chúa bà kia! Chúa của chồng thì khác Chúa của vợ. Có nhiều lúc, cả ông lẫn bà đều mang Chúa ra thề, thề sống thề chết để bảo vệ phần thắng về mình; và không ai chịu thua, cuối cùng Chúa là Đấng thua, rồi cả ông và bà đều thắng, rồi nguội lạnh với nhau. Đấy ‘biết Chúa theo ý mình’ đem đến hiệu quả là mất bình an, chia rẽ và thiếu quảng đại trong yêu thuơng và không chấp nhận để tha thứ cho nhau. Vì thế, dù ta có biết Chúa đến độ nào, thì việc biết ấy vẫn là biết có ngần có hạn. Còn Chúa biết, là biết hết, biết rõ những gì sâu thẳm nhất trong đời sống của từng người.

Như vậy, Chúa biết ta cần thiết hơn là ta biết Chúa.

            Muốn được Chúa biết, ta cần làm những việc giống như Chúa làm; sống tiêu chuẩn giống như Chúa sống; biết thông cảm và luôn tha thứ như Chúa thường thứ tha. Trên hết mọi sự là mời Chúa hiện diện trong mọi cách hành xử của chúng ta. Nếu chúng ta làm đúng như thế thì Chúa sẽ vui mừng; giả như chúng ta hành động chưa tốt lắm, thì cũng không nên lo lắng quá. Bởi vì Chúa biết và còn biết rất rõ về con người chúng ta, biết hoàn cảnh mà chúng ta được dựng nên, biết rõ những giới hạn khiến những viêc làm của chúng ta chưa được tốt như lòng mong ước. Tất cả đều phát sinh từ sự yếu đuối. Chúng ta nên nhớ rằng: khi nhận ra sự yếu đuối của chính mình có thể là lúc chúng ta tạo điều kiện để cho sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong đời sống.
 

Tóm lại, niềm tin và các việc đạo đức khác như: cầu nguyện, tham dự các nghi lễ chưa hẳn là chìa khóa mở cửa phòng tiệc cưới. Muốn tham dự tiệc cưới, người tín hữu cần có lối sống phù hợp với những điều Chúa dậy trong bài giảng trên núi. Nói cách khác, qua cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta đều phải là họa ảnh lối sống của Chúa. Đó là cách chuẩn bị tốt nhất mà chúng ta cần thực hiện. Và khi nào Chúa đến không phải là việc của mình. Vì bất cứ ngày nào hay giờ nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng đón tiếp và dùng bữa với Chúa. Amen! 


Friday, 3 November 2017

QUYỀN BÍNH: PHỤC VỤ HAY THỐNG TRỊ?





Đọc thoáng qua trình thuật Tin mừng hôm nay khiến chúng ta có thể nhận định rằng Đức Giêsu quá cứng rắn khi tấn công lối sống giả hình, nói một đàng làm một nẻo của các ông kinh sư và những người thuộc nhóm Biệt Phái thời bấy giờ. Thật ra, không hẳn là như thế. Người muốn dùng lối sống không phù hợp với tinh thần của Tin Mừng của họ để mời gọi và giáo huấn các môn đệ xem xét lại lối sống của mình: Đâu là tiêu chuẩn của đời sống trong cộng đoàn, uy quyền được trao ban cho chúng ta nhằm vào việc phục vụ hay thống trị nhau đây?

Đức Giêsu không hề chủ trương dậy chúng ta chống lại với quyền bính. Trái lại, Người yêu cầu chúng ta hãy tôn trọng và vâng phục quyền bính; bởi vì lúc đó họ ‘ngồi trên tòa Maisen’ để thi hành tác vụ giảng dậy mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng công khai lên án những ai lợi dụng chức quyền để làm lợi cho bản thân và phe nhóm; và thay vì làm sáng danh Chúa lại làm cho danh mình cả sáng. Người không chấp nhận một thỏa hiệp nào về lối sống lợi dụng chức quyền của họ.

Qua cuộc sống, Đức Giêsu đã tỏ bầy cho chúng ta biết rằng quyền bính được trao ban để phục vụ chứ không phải để thống trị. Tất cả đều nhằm mục đích phục vụ và phục vụ dân Thiên Chúa một cách có hiệu quả hơn. Nhưng thưc tế lại trái ngược, thay vì phục vụ lại có những kẻ lợi dụng chức vụ và uy quyền để làm những điều ngược lại với luật Maisen và những lời giảng dậy của các ngôn sứ. Một mặt họ làm bộ đạo đức thánh thiện, đọc kinh nhiều giờ; nhưng mặt khác họ ức hiếp, chà đạp và cướp đoạt tài sản của các bà goá. Lối sống giả hình của họ được thể hiện qua dáng vẻ bên ngoài từ cách đeo hộp kinh thật lớn, mang tua áo thật dài và thường xuất hiện công cộng để được tán dương. Thật ra việc đeo hộp kinh và mang tua áo không có gì là xấu bởi lề luật quy định như thế. Thế nhưng cái sai lầm và đáng trách là họ đeo thẻ kinh cho to và kéo tua áo dài ra để cho người khác nhìn thấy mà tán dương, còn tâm hồn họ thì rỗng tuếch.


Trong thế giới của chúng ta hiện nay, cho dù không còn thẻ kinh để nới rộng hay làm dài tua áo để khoe nhưng chúng ta lại có tràng hạt để trang điểm và có sách thần vụ để được khen là nguời đạo đức; chưa kể đến mơ uớc được trọng vọng và tìm chỗ nhất để ngồi trong các bữa tiệc và rất lấy làm khoan khoái khi được coi trọng nơi công cộng… Tất cả các hành vi đó, tự bản chất chưa hẳn là các việc làm giả hình. Nó bộc lộ bản chất con người của chúng mình. Ai lại không mơ ước được coi trọng và được người ta chào hỏi trước!

Nhưng trong Vương Quốc của Đức Giêsu thì khác. Giáo huấn và đời sống của Người không như vậy. Trong khi những người lãnh đạo chất những bó nặng đè trên vai dân chúng. Trái lại, Đức Giêsu đã mời gọi dân chúng chất những gánh nặng trên đôi vai của Người; chính Người sẽ bồi dưỡng và làm cho tâm hồn họ được lại sức. Đức Giêsu muốn các môn đệ hãy tìm ra bài học về con đường mới, lối sống mới mà chính Người là chứng nhân. Chúa phán: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ.” Điều Chúa nói quá rõ ràng ai muốn làm lớn phải làm người phục vụ trước. Phục vụ là chìa khóa, là nguyên tắc lãnh đạo. Quyền bính có được trao ban cũng là do Thiên Chúa. Địa vị, quyền cao chức trọng cốt để phục vụ mọi người, chứ không phải để xa lìa con người; như Chúa phán: “Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ”. Chính Chúa mới là ông chủ; còn tất cả chúng ta chỉ là những tá điền. Thế mà ông chủ lại hạ mình xuống để rửa chân cho các môn đệ, còn những kẻ thừa hành lại bắt người ta rửa chân cho mình. Gương Chúa Giêsu còn đó. Lời nói và việc làm của Người là một. Người không bao giờ dậy một đàng rồi đi làm một nẻo.

Chính sự hiểu biết và thực hành này của Chúa Giêsu đã đặt ra khuôn mẫu cho cách thức thực hiện quyền lãnh đạo trong cộng đoàn của Nước Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều bình đẳng và là anh chị em trong gia đình của Thiên Chúa, mà chỉ có mình Ngài là người Cha duy nhất. Và, quyền giảng dậy tối thượng đều trực thuộc và tuôn chảy từ một bậc Thầy duy nhất; đó chính là Đức Kitô Phục Sinh. Không có danh xưng nào, như các danh xưng mà chúng ta đang dùng để gọi các vị lãnh đạo tinh thần là ‘cha hay cố đạo’, lại có thể thay thế cho danh xưng của Người Cha và bậc Thầy chân thật và duy nhất đó. Mô hình lãnh đạo mà Chúa đặt ra hôm nay mãi mãi là một mô hình dựa trên cuộc sống của một người đầy tớ, một “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28). Vì thế, ai lớn nhất phải là người đầy tớ.

Bài học của Chúa thật rõ ràng. Ai trong chúng ta cũng được mời gọi để chia sẻ năng quyền này. Và ai đã được Chúa mời gọi để chia sẻ quyền lãnh đạo với Ngài hãy cân nhắc cẩn thận để lời nói và hành động được hợp nhất. Ai được mời gọi sống bậc tu trì thì có trách nhiệm và bổn phận đối với cộng đoàn. Ai được mời gọi sống bậc đôi bạn thì có trách nhiệm với nhau và gia đình. Người nào có bổn phận của người ấy. Tất cả đều là môn đệ, đều được gọi để phục vụ. Lối sống phục vụ, theo gương Đức Giêsu, vẫn có hiệu quả hơn những lời giảng dậy bằng đầu môi chót lưỡi. Nếu chúng ta không hành động đúng với những gì mình giảng dạy trong nhà thờ, nơi gia đình, tại những cuộc hội họp thì lời rao giảng của chúng ta sẽ không mang lại hiệu quả mà còn ảnh huởng đến niềm tin của kẻ khác. Vậy việc phục vụ phải đi đôi với việc giảng dậy. Việc phục vụ phải được xuất phát từ tình yêu thương nhau.

Tuần trước, chúng ta đã được nghe Chúa dậy là phải yêu mến Chúa và thương yêu nhau bằng tất cả con người của mình. Cũng vậy, sứ điệp phục vụ mà Chúa mời gọi qua bài Tin Mừng hôm nay cũng là việc cho đi tận cùng, cho đi tất cả, trả lại mọi sự cho Chúa qua việc phục vụ và rửa chân cho nhau. Quả vậy, để có thể làm được việc này cũng là do ân huệ của Thiên Chúa, chứ không phải do công sức hay việc làm của mình để rồi hãnh diện. Vì, chúng ta là tác phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa, được dựng nên trong Đức Giê-su Kitô, để sống mà thực hiện công trình của Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.

Ước mong, chúng ta hãy để cho Thiên Chúa thành toàn mọi dự án của Ngài qua việc phục vụ và yêu thương nhau của chúng ta. Amen!




Wednesday, 1 November 2017

TÌNH YÊU NỐI KẾT SỐNG VÀ CHẾT



Khi còn sống tại quê nhà, mỗi độ Xuân về tết đến, chúng ta đặc biệt dành ngày mùng 2 để kính nhớ ông bà tổ tiên. Con cháu có dịp thăm viếng, sửa lại phần mộ và cầu nguyện để tưởng nhớ các ngài. Ngày nay, sống trên đất Úc, cũng vào mùa Xuân, chúng ta không chỉ có 1 ngày, nhưng là cả tháng để tưởng nhớ các linh hồn đã ra đi trước chúng ta về nhà Cha. Việc cầu nguyện và tưởng nhớ này thường bắt đầu bằng lễ Các Thánh. Đây không phải là việc sắp xếp vô tình. Bởi vì qua việc mừng lễ các Thánh, chúng ta diễn tả niềm hy vọng rằng tổ tiên và toàn thể những người quá cố đã được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa trên quê hương đích thực. Tuy sống trong niềm hy vọng như thế; nhưng chúng ta cũng không thể chối bỏ những mỏng dòn và yếu đuối của thân phận làm người; vì thế việc tinh luyện để cho hoàn hảo như sự thiện hảo của Thiên Chúa là việc cần thiết.

Chúng ta tin rằng, dù sống hay chết chúng ta luôn thuộc về Chúa; cùng chia sẻ một nguồn sống chung xuất phát từ sự sống lại của Chúa.  Vì thế, chúng ta không cần chờ cho đến lúc chết đi rồi mới nhớ đến và cầu nguyện cho nhau; nhưng việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho nhau và với nhau cần được thực hiện trong hành trình sống của con người, dù còn sinh thời hay sau khi chết. Một khi đã quên nhau thì quả thật cho dù họ còn sống, nhưng với chúng ta thì họ đã chết.

Khi còn sống chúng ta cầu nguyện cho nhau. Và lời cầu nguyện, sự hiệp thông giữa các tín hữu không dừng lại ở sự chết. Sự hiệp thông và tưởng nhớ đến nhau còn mãnh liệt hơn sau khi chết đi. Mỗi khi nhớ và cầu nguyện cho họ là lúc chúng ta dâng lên Chúa những tâm tình tạ ơn vì lượng ân sủng mà Người đã ban cho khi họ còn sống. Đồng thời, đó cũng là dịp chúng ta nhìn lại hành trình sống đạo mà chuẩn bị lối sống chờ ngày Đức Kitô đến đón đi về nhà Cha. Chính vì thế, tôi nghĩ rằng xin lễ để cầu nguyện cho các người quá cố là một cách diễn tả sự nhớ thương, biểu lộ mối hiệp thông giữa chúng ta và họ. Hơn thế nữa, qua việc xin lễ chúng ta làm chứng cho thế giới biết rằng sự chết không hề ngăn cản hay làm cho các mối dây tương quan mà chúng ta trao gửi cho nhau khi còn sinh thời bị biến mất. Nó vẫn còn hiện diện, dù thân xác và các mối tương quan nhân loại không còn nữa.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người trong chúng ta cho rằng những người đã chết không còn cơ hội tạo công nghiệp để đền bù các thiếu sót và những lỗi phạm khi còn sống. Vì thế họ rất cần lời cầu nguyện, nhất là bằng việc xin lễ của chúng ta. Tôi cảm thấy quan niệm này hình như không mấy tích cực. Bởi vì ngay khi chúng ta còn là tội nhân (chưa tạo được chút công nghiệp nào) mà Thiên Chúa còn sai Con của Ngài đến để ban ơn cứu độ; phương chi bây giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa, thì Ngài còn yêu thương ta dường nào. Nói cách khác, ơn cứu độ và sự thánh thiện hoàn toàn phát sinh từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là đón nhận, và các việc đạo đức của chúng ta chỉ là họa ảnh của sự thánh thiện nơi Thiên Chúa.

Chúng ta không nên có cái nhìn bi quan về số phận của những kẻ đã chết. Số phận của họ chỉ mình Chúa biết, và chỉ có một mình Ngài là Đấng duy nhất biết rõ lòng tin của họ; còn chúng ta là ai mà có thể định đoạt về cuộc sống của người khác. Vì thế tôi rất lạc quan và tin tưởng về số phận của những người đã chết, họ đang sống gần Chúa hơn chúng ta, họ đang nghỉ yên để thụ hưởng tình yêu và sự hiệp thông - cho dù chưa trọn vẹn - của Chúa. Chúng ta hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ các Thánh. Tôi xác tín rằng ‘Thiên Chúa của chúng ta là Đấng giầu lòng xót thương, chậm bất bình và không kể tội của con mình’.

Và như vậy thật là sai lầm khi chúng ta nghĩ về Thiên Chúa là Đấng bắt con mình nhận lỗi trước khi ban ơn tha thứ; và đôi khi còn dùng hình phạt để bắt con mình nhớ các lỗi lầm mà chừa bỏ! Thật ra, sự tha thứ của Thiên Chúa còn là ơn thánh hóa và thăng hoa: Như trường hợp của ông Gia-kêu và đứa con thứ, khi trở về nhà Cha chẳng người nào bị hạch tội hay phải nhắc lại quá khứ của mình. Trái lại còn được trọng thưởng và mở tiệc mừng ăn khao.

Số phận của các người quá cố thật rõ ràng là họ sẽ được ở với Chúa, như lời Thánh Phao-lô: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền ... như những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su... Như thế chúng ta sẽ được ở trong Chúa luôn mãi.” (1 Thêxalonica 4:13-17)

Quả thật, nếu chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã săn sóc chúng ta khi còn sống, thì chắc chắn Ngài còn săn sóc và thương yêu chúng ta nhiều hơn nữa khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa sự chết để về nhà Cha. Tuy nhiên con người cũng không thể chối bỏ được thân phận yếu đuối và những lỗi phạm của kiếp nhân sinh; nhất là không ai trong chúng ta có thể yêu Chúa và anh em một cách trọn hảo như Chúa đã yêu. Vì vậy, tình yêu cần được thanh luyện, cần được lớn lên.

Việc thanh luyện này diễn tả tình trạng sống của con người - khi còn sống cũng như sau khi chết – hơn là ám chỉ đến nơi chốn như cụm từ ‘luyện ngục’ mà chúng ta thường được nghe. Vì chúng ta tin rằng sự chết dẫn con người bước vào hành trình mới, rộng lớn và bao la hơn hành trình trên dương thế. Qua sự chết, con người chuyển sang vũ trụ khác, ở nơi đó không còn đau khổ, không còn hận thù ...; nhưng chỉ có bình an, hoan lạc và niềm vui, tất cả đều ở trong tình trạng vĩnh cửu; và cũng chính lúc đó con người được thu hút vào vũ trụ tràn đầy tình thương của Thiên Chúa, như Thánh Phao-lô từng nói: “Bây giờ (khi còn sống) chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau (qua sự chết) sẽ được giáp mặt. Bây giờ tôi chỉ biết có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. (1 Cor. 13:12-13)

Như vậy, mối tương quan của chúng ta với người quá cố, và với Chúa được đặt trên nền tảng của sự yêu thương. Và trong thân phận làm con Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi sống và xây dựng tương quan tình yêu đó với nhau. Chính vì sức mạnh của tình yêu giúp chúng ta xác tín rằng cho dù thân nhân của chúng ta đã lìa cõi thế về mặt thể lý; nhưng sự hiện diện của họ luôn tồn tại vĩnh viễn trong lòng yêu thương và sự tưởng nhớ của chúng ta, không chỉ trong tháng 11 mà thôi; nhưng trong mọi ngày của cuộc sống.

Vì vậy, cho dù sống hay chết! Tình yêu vẫn tiếp tục nối kết chúng ta thuộc về Chúa. Amen