Hôm nay, xin kính mời quí ông bà và anh chị em cùng
tôi nghe lại một chứng từ. Có lẽ anh chị em đã nghe nhiều về những truyện giống
như thế này. Nhưng đối với tôi, câu chuyện mà tôi gọi là chứng từ lòng tin đã
có ảnh huởng thật sâu đậm trong tôi. Vị linh mục trong câu chuyện là một trong
các vị bề trên của chúng tôi. Cho dù, ngài đã hoàn tất chương trình của Thiên
Chúa, và trong nhà Cha trên trời; tôi tin tưởng ngài tiếp tục phù hộ, giúp
chúng ta sống tốt như gương sáng của ngài. Còn cô gái là ai thì tôi không hề biết,
nhưng việc làm của cô cũng rất đáng ngưỡng mộ và noi theo.
Truyện kể như sau: Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, miền
Nam Việt Nam đã phải đối diện với một sự thay đổi thật bất ngờ; các nhà lãnh
đạo cố gắng tìm kiếm đường lối để cai trị. Còn dân chúng, muôn người như một
đều băn khoăn và lo lắng cho tương lai của mình. Điều tai hại hơn cả là vì quá sợ
hãi nên con người đã mất niềm tin và từ đó họ thiếu niềm tin nơi nhau nữa. Đứng
trước sự chuyển biến của đất nước và hoàn cảnh thực tế mà dân chúng đang phải
đối diện. Một linh mục trong phần thuyết giảng đã khuyên các tín hữu, hãy tin
vào Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện trong các biến cố của đời sống nói riêng và
của con dân đất Việt đang phải đối diện nói chung. Ngài nhấn mạnh rằng tin vào
Thiên Chúa thôi chưa đủ, mà còn phải tin vào sự soi sáng của Thiên Chúa cho
những người lãnh đạo đất nước.
Sau thánh lễ, có người xin phép được găp ngài. Trước mặt
ngài là một thiếu nữ mà cha chưa hề quen biết. Sau những lời chào hỏi, cô cho
biết là Chúa soi sáng cho cô qua lời giảng dậy của cha hôm nay. Vị linh mục nhìn
cô mỉm cười; ngài chưa kịp nói gì thì cô đã tiếp tục: Thưa cha, con từ miền Tây
lên Thành phố để kiếm việc; nhưng việc thì không có mà còn bị người ta lừa. Đến
lúc này con đã hết tiền. Thật là không may, mới hôm qua con được tin mẹ con bị đau
nặng, chẳng biết xoay sở thế nào, nên vào đây mượn cha ít tiền để về lại quê mà
lo cho mẹ, con hứa sẽ hoàn trả.
Ông cha nhà ta nghĩ thầm: Thật là oái ăm; trong bài
giảng mình vừa khuyên họ phải tin vào Thiên Chúa, và còn khuyên họ tin vào con
người nữa. Hơn thế nữa, chẳng thà con bé này cứ nói thật rồi xin ít tiền cho
xong chuyện, còn bầy vẽ chuyện vay với mượn. Nghĩ thì nghĩ như thế, nhưng nhìn
con bé thât đáng thương, vì thế ngài mới nói: “Con ngồi đây, để cha tính.” Nói
xong, cha trở vào trong tu viện.
Phần cô gái đáng thương tiếp tục ngồi chờ đợi ở phòng
khách, trong lúc chờ đợi, cô tự nghĩ và nói thầm rằng: “Lại gặp một ông cha chỉ
biết nói. Chắc lại tìm cách thoái thác để trốn mình đây?” Cho dù có ý nghĩ như
thế; nhưng cô ta cũng chẳng còn biết làm thế nào; đành ngồi đó đợi thêm chút
nữa. Đang miệt mài trong các ý tưởng hoài nghi như thế. Thì kìa, cánh cửa phòng
khách của tu viện lại được mở ra, trên tay cầm mấy phong thư, vị linh mục vừa
trao cho cô vừa nói: “Đây là số tiền mà cha gom góp được con cầm về để lo cho mẹ
con.” Thật quá xúc động nên cô đã không thốt nên lời, tần ngần nhận quà và lí
nhí hai tiếng cảm ơn. Còn ông cha trở về với công việc và ngài cũng chẳng còn
nhớ đến cuộc gặp gỡ này nữa.
Vài năm sau, vào một buổi chiều, có một người con gái
đến xin gặp cha. Trước mặt cha là một thiếu nữ hoàn toàn xa lạ mà ngài chưa từng
gặp bao giờ. Sau những lời chào hỏi, cô ta kể lại câu chuyện đã trôi qua vài ba
năm trước mà cha không còn nhớ. Nói xong cô ta hoàn trả lại số tiền mà ngài đã cho
cô mượn, rồi nói thêm; Cảm ơn cha đã tin con. Chính việc cha giúp con đã làm
con thay đổi. Cha đã dậy con một bài học thật quan trọng là đừng bao giờ mất
niềm tin vào Thiên Chúa, và cần thể hiện niềm tin bằng những việc làm cho nhau;
đặc biệt cho những ai đang sống trong các cảnh khốn cùng. Món quà ‘niềm tin’ này còn có giá trị hơn số tiền mà cha đã cho con
mượn. Theo tôi thì việc làm của cô gái rất đáng được ca tụng; bởi vì những con
người như cô càng ngày càng hiếm thấy trong xã hội hôm nay.
Thưa anh chị em,
Có một chi tiết trong bài Tin mừng gây không ít ngạc
nhiên là trong câu trả lời của cả hai nhóm, chiên cũng như dê, những người thực
hiện lòng thương xót và những ai không làm, đều không biết đến sự hiện diện của
Chúa ở nơi những con người khốn khổ và bé mọn. Họ nói: “Lạy Chúa, có bao giờ
chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, Chúa khát mà cho uống, Chúa trần truồng
mà cho áo mặc, Chúa đau yếu hay bị giam trong các nhà tù mà đến thăm rồi phục
vụ Chúa đâu?” Như vậy đâu là động lực khiến họ khác nhau? Phải chăng nhóm thuộc
về phe chiên là những ai sống theo lương tâm và nhịp đập của con tim, biết rung cảm trước các nỗi khốn cùng của nhau; còn nhóm
dê thì không. Như vậy, trước khi để cho Lời Chúa tác động, con người cần sống
với chất liệu và nhịp rung cảm của trái tim, để thực hiện lòng thương xót và
quan tâm cho nhau trước. Thật ra, chính con tim nhậy cảm mà Chúa đã đặt vào
trong thân xác tôi đã dậy cho tôi biết rằng: tha nhân và Chúa không hề tách
biệt nhau. Ngoài con tim nhậy cảm, chúng ta còn được Lời Chúa hướng dẫn nữa. Cụ
thể, Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã tỏ cho tôi biết rằng Chúa đã nên
đồng hình đồng dạng với con người, đặc biệt những ai bé mọn: “Ta bảo thật các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Còn lời khẳng định nào rõ
ràng hơn. Đức Giêsu đã xác định thật rõ ràng về sự liên hệ mật thiết giữa những
người bé nhỏ, hèn mọn này với Người. Vì
thế, những việc chúng ta làm cho nhau vì Chúa, hay vì được khen thưởng rồi cũng bị phơi bày ra hết.
Như vậy, qua dụ ngôn này, Chúa nhắc nhở và hối thúc chúng
ta cần xông xáo ra đi khỏi mình để chia sẻ và xoa dịu những nỗi đau của nhau.
Đặc biệt thực hiện lòng thương xót nơi những con nguời thiếu ăn, thiếu mặc,
không cửa không nhà, đang bị tù đầy, v.v… Thiếu ăn, thiếu mặc không hẳn là đói
khát hay bị lạnh về phần xác, nhưng còn bao nhiêu người thiếu nụ cuời, không
đựợc ủi an, tôn trọng. Không chốn nương thân không hẳn là không có nhà để ở,
nhưng vì con người ngày nay ích kỷ hơn, không dám mở lòng ra đón nhận nhau và
đôi khi còn tạo ra những rào cản để nhốt và giam giữ nhau… Một vài nét tiêu
biểu như thế. Còn biết bao nhiêu điều cần làm, kể sao cho hết. Nhưng với ai có
con tim nhậy cảm trước nỗi đau của tha nhân thì tự họ sẽ tìm ra các phương
thuốc để giúp nhau. Và, đối với các kẻ tin, một lần nữa, với lời xác quyết rõ
ràng của Chúa, chúng ta không còn vịn vào bất cứ một lý do nào để từ chối những
người mà chúng ta gặp trong cuộc sống. Tất
cả đều được quan tâm, không ai bị lọai trừ khỏi lòng mến của Thiên Chúa qua sự
hiện diện của Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Người không chỉ hiện
diện trong nhà thờ, hay tại những cuộc biểu dương tôn giáo; nhưng mãnh liệt và
xác thực hơn cả là Người đang hiện diện trong đời sống của những người bé mọn
và khốn cùng.
Dụ ngôn này được công bố vào Chủ nhật cuối của năm phụng
vụ và nói đến việc thẩm định của Chúa trong ngày sau cùng. Nhưng không phải là
chấm dứt. Cùng với Hội Thánh trên cuộc lữ hành trần thế, chúng ta sống với niềm
hy vọng về cùng đích của đời mình là được Đức Kitô đón về nhà Cha để tham dự
bữa tiệc hồng phúc, bữa tiệc cánh chung. Với niềm hy vọng đó, chúng ta bắt đầu
lại con đường sống đạo bằng một khởi điểm mới phù hợp với những thách đố của
Tin Mừng, đó là trong Đức Ki-tô, chúng ta quyết tâm làm chứng cho nhân lọai
nhận ra tình thương của Thiên Chúa bằng chính cuộc sống yêu thương và phục vụ
lẫn nhau. Amen