Thursday, 28 March 2024

PHỤC SINH, NGUỒN HY VỌNG VÀ VINH QUANG

 

Anh chị em thân mến,

Khi nói đến niềm hy vọng hay đức cậy, chúng ta nghĩ ngay đến Lời của Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô như sau: “Vậy nay còn lại Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Đức Mến lớn hơn cả!” (1 Cor 13:13).

Vẫn biết là đời sống của chúng ta được xây dựng trên nền tảng của Lòng Mến, và  chúng ta bị đòi buộc sống để đáp trả cho Lòng Mến mà chúng ta đã lĩnh nhận. Tuy thế, nếu không có đức cậy thì làm sao chúng ta có niềm hy vọng vào thế giới xem ra muốn đẩy Thiên Chúa ra bên ngoài cuộc sống của họ.

Sau đây là một vài sự kiện tiêu biểu:

Thế Kỷ 21 được bắt đầu bằng cuộc tấn công của quân khủng bố đã kéo sập hai tòa nhà tại trung tâm thương mại thế giới tại Nữu Ước (World Trade Center) và giết bao nhiêu người dân vô tội. Tình hình khủng bố cho đến nay vẫn gia tăng, những cuộc tàn sát thật man rợ vẫn còn tiếp diễn. Nhiều tín hữu bị giết!

Chúng ta nghe nhiều về những cuộc rối loạn bên Haiti, một quốc gia ở vùng biển Caribian. Trong thời gian vừa qua, cuộc sống của những người dân vô tội ở Haiti bị đe dọa bởi các băng đảng. Hiện tai con số đã lên trên 300 băng đảng đang nắm quyền kiểm soát hầu hết đất nước, trong đó có 80% tại thủ đô Port-au-Prince.

Những nhóm này, vốn đã gây chiến với nhau trong nhiều năm. Thời gian vừa qua,  họ cướp bóc nhà cửa, hãm hiếp phụ nữ và trẻ em gái, đồng thời chiếm đoạt nguồn cung cấp thực phẩm và nước uống để kiểm soát dân số. Một nửa đất nước không có đủ lương thực và 15.000 người Haiti phải chạy loạn.

Chiến tranh vẫn còn tiếp diễn.  

Thêm vào đó, nhân loại vẫn còn bị đe dọa bởi các tai ương như động đất, sóng thần, thiên tai, dịch bệnh, v.v …

Đó là chuyện của thế giới. Chẳng có tin gì vui! Chúng ta hy vọng gì cho một thế giới như thế.

Còn bản thân mình thì sao?

Có bao giờ anh chị em đã phải trải qua những kinh nghiệm của cuộc đời: như nếm cảnh cô đơn, bị ruồng rẫy, phản bội, lợi dụng, bị phụ tình, là nạn nhân của ghen tuông, bị nhạo báng, sỉ nhục, sống trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, không? Tức: muốn nói ra mà không biết phải nói làm sao. Bởi, sự im lặng, câm nín không lối thoát vẫn cứ bao vây đời mình. Và lúc đó chúng ta thấy cuộc đời chỉ là đêm đen, bóng tối luôn bao phủ và hầu như không có lối thoát.

Chính trong cảnh ngộ đó, nhiều người đã tìm giải pháp để xa lìa và tránh thoát tất cả. Còn chúng ta, là tín hữu, tìm giải pháp ở đâu - hy vọng vào ai cứu ta ra khỏi tình trạng ‘bí lối và bó tay’ này?

Thưa anh chị em,

Ai là những người đã từng trải một vài kinh nghiệm nói ở trên, hãy cùng nhìn lại các việc mà chúng ta đã làm, không phải để tưởng niệm một biến cố xẩy ra ở quá khứ; cho bằng hiện tại hóa biến cố đó bằng chính những đóng góp của bản thân mình.

Sự thinh lặng trong Ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Nhưng, chính vào lúc đó Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng chúng ta.

Đức Giê-su đã sống lại ngay trong lúc ta bị bí lối. Quả thật, có cảm nhận được điều đó mới biết Phục sinh là ánh sáng soi đường cho ta và mọi người. Có cảm-nghiệm như thế, ta mới biết là sự sống vẫn rất cần và quan trọng đến thế nào.

Ánh sáng Phục Sinh đã bùng lên trong đêm tối của cuộc đời mình và đưa chúng ta hy vọng rằng chỉ có Ánh sáng Phục Sinh mới đem đến cho cuộc đời mình một ý nghĩa mới, mục đích mới.

Chúa Phục Sinh đem đến cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng và xác tín rằng ngay vào lúc đen tối nhất, Thiên Chúa không bỏ rơi con Ngài thì Người cũng không bỏ rơi ta. Can đảm, mạnh dạn mà tiến bước với niềm hy vọng là thái độ sống mà chúng ta từng học được qua Phục sinh.

Với tâm tình và niềm xác tín vào nguồn của mọi hy vọng nơi Chúa. Chúng ta sẽ có một lối nhìn tích cực hơn vào cuộc sống này. Cũng chính vì những gì đang xẩy ra trong thế giới này, mỗi người trong chúng ta càng xác tín hơn về vai trò và bổn phận của mình.

Vì thế:

Đừng bao giờ nói với Chúa tại sao lại để con rơi vào cảnh khốn khổ thế này.

Nhưng hãy:

Tạ ơn Ngài đã cho con sinh ra và sai con vào thế giới.

Tạ ơn Ngài đã gọi và cho phép chúng ta đốt lên ngọn lửa hy vọng soi chiếu và dẫn đường người khác ra khỏi vùng tối tăm.

Tạ ơn Ngài đã gửi con vào môi trường.

Tạ ơn Ngài đã tín thác để con lãnh đạo bằng chính việc phục vụ và dấn thân không ngần ngại của con.

Và chúng ta tin rằng Chúa cũng làm như thế trong hoàn cảnh tương tự mà con đã và đang trải qua.

Như vậy, ý thức được nhiệm vụ cao cả của người tín hữu, chúng ta được sai đến trong thế gian; nhưng ý thức rằng mình không bao giờ thuộc về nó. Vì thế đừng đùa giỡn với những trò chơi của thế gian.Trái lại, phải dấn thân sống tinh thần Tin Mừng trong các nhiệm vụ của cuộc sống thường ngày.

Tất cả đều được mời gọi để nên trọn hảo và việc nên trọn lành không dược thưc hiện một sáng một chiều. Vì thế bước đi bằng niềm Hy vọng là thế. Chúng ta biết rằng, cuộc sống không được đan kết bởi những gì mà ta đã thực hiện cho bằng do cách thức sống kết hiệp của chúng ta với Đức Chúa của mình để Ngài hoàn thành chương trình của Ngài trong sự yếu hèn của chúng ta.

Sau cùng, hy vọng trong niềm vui của Chúa Phục Sinh,  chúng ta được thúc đẩy bước đi giữa thế giới đầy biến động để đốt lên ánh sáng hy vọng cho nhau và cho thế giới đầy hỗn loạn và tang thương này.

Nào chúng ta cùng cất tiếng tung hô và ngợi khen: Chúa nay thực đã Phục Sinh, Alleluia, Alleluia. Amen!

Wednesday, 20 March 2024

YÊU MẾN LÀ CHẾT ĐI

 Anh chị em thân mến,

Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh bằng việc cử hành cuộc đón tiếp Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem. Với những nhành lá vạn tuế kèm theo những lời tán tụng, chúng ta đón tiếp Chúa như một vị quân vương. Nhưng vài ngày sau, cụ thể trong bài Thương Khó mà chúng ta vừa nghe, nói về con đường khổ nạn và sự chết của Người. Chỉ mình Chúa trong cuộc hành trình thứ hai này. Mẹ của Người và các người thân tín cũng chỉ dám đi xa xa để trông chừng. Chúa Giêsu hoàn toàn cô đơn, trống vắng. Không còn những lời tung hô; thay vào đó là những lời lên án và cũng chẳng còn những nhành lá biểu lộ sự vui mừng, mà là cây thập giá, sau cùng là sự chết. Một cái chết cô đơn, tủi nhục như một phạm nhân trên thập giá.

Vào thời của Người, bị chết treo trên thập giá là một án tử hình dành cho các tội nhân. Và án này được chính quyền Roma đặt ra để áp dụng cho người Do thái. Hàng năm có rất nhiều người bị treo trên thập giá. Nhiều đến nỗi người ta có thể chồng chất sọ của các nạn nhân lên nhau và người ta gọi địa điểm đó là núi sọ.

Trong lúc đã có quá nhiều người bị treo trên thập giá như thế, thì vì sao chỉ có mình sự kiện Chúa bi treo và chết trên thập giá lai được lưu truyền cho đến ngày nay? Sự chết của Đức Giêsu đã có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của anh em tín hữu tiên khởi?  Để rồi, qua bao thế hệ, hàng hàng lớp lớp vẫn vui vẻ dấn thân đi theo con đuờng Thập giá, hy sinh bản thân, sẵn lòng chịu chết vì lợi ích và sinh hoa kết quả cho người khác.

Chúng ta cần tìm ra những giá trị đích thực của việc Chúa chết để tìm ra sức mạnh yêu thương mà biến cố Phục Sinh biến đổi và đem lại cho cuộc sống của chúng ta?

Anh chị em thân mến,

Lẽ ra, trong cuộc đời và nhất là Tuần Thánh này, chúng ta cố gắng sống và trao ban cho nhau trọn vẹn lòng yêu mến của Đấng đã trao cho chúng ta quà tặng tình yêu. Nhưng, thực tế chúng ta lại mang lấy tâm trạng của những kẻ nhút nhát và phản bội như các môn đệ: ông này chối Chúa, ông kia bán Người; lại có ông bỏ rơi Người trong giây phút Nguời cần sự đồng cảm và hỗ trợ của các ông… Rồi chúng ta cũng có thể lại đồng ý với dã tâm và lòng thâm độc của các nhà lãnh đạo tôn giáo, đã bày mưu giết Người; rồi một cách nào đó, chúng ta cũng đồng ý với các hành động tàn nhẫn của quân lính khi hành hình Chúa tôi!

Những cực hình về mặt thể xác và tinh thần mà Đức Giê-su đón nhận một cách hiên ngang và tự nguyện vì yêu thuơng sẽ đem lại sự hỗ trợ và là nguồn sức mạnh giúp chúng ta suy gẫm những việc Đức Giê-su đã chịu và không làm cho cảnh vật xẩy ra trong những ngày này trở lên buồn thảm hơn.

Vào tối thứ Năm, đôi bàn tay của Chúa đã rửa và lau sạch mọi thứ bụi trần còn dính vào đôi chân của những kẻ theo Người. Việc làm này không chỉ nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ như một người tôi tớ; nhưng qua nghĩa cử yêu thuơng hạ mình thâm sâu đó, Người muốn phá tan mọi hàng rào ngăn cách giữa thầy và trò, chủ và tôi tớ, người với người.

Rồi sang ngày thứ Sáu, Đức Giê-su đã dâng hiến tinh thần, thân xác và sứ vụ của Người như lễ vật hy sinh vào tay Chúa Cha. Người mở tay ra để trao phó, còn đôi bàn tay của Thiên Chúa, Cha Người cũng mở ra để đón nhận. Một giao uớc được ký kết, giao ước của Tình Yêu nói lên đích điểm của việc trao ban và đón nhận. Giao Uớc này thay thế cho mọi giao ước trước. Vì thế, ngày thứ Sáu sẽ không còn là ngày buồn thảm và tang thương như một số người chủ truơng. Nhưng đó là “Good Friday – Ngày Thứ Sáu Tốt-Đẹp.” Trong ‘ngày và giờ’ đó tình yêu của Chúa được thể hiện một cách thật trọn vẹn qua con đuờng Người đã đi.

Sự thinh lặng trong ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Nhưng, chính vào lúc con người bị bó tay như thế đó mà Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng chúng ta.

Vì thế, các nghi thức phụng vụ mà chúng ta cử hành trong những ngày này, cách xử thế trong cuộc đời và lối sống đạo của chúng ta rất cần đuợc dẫn dắt bởi mối tình cao cả mà Con Thiên Chúa đã thực hiện.

Vẫn biết là sống đạo như thế mới là sống đích thật. Nhưng trở về để đối diện với thực tế, tôi tự hỏi mình rằng: đã bao lần tham dự các nghi thức trong Tuần Thánh, đã bao lần suy niệm về con đuờng Thập Tự của Đức Giê-su; thế mà các biến cố đã xẩy ra trên con đuờng của Chúa, nhất là sự chết của Người đã có ảnh hưởng gì trên hành trình niềm tin và lối sống đạo của tôi?

Rồi lại, nếu nay mai có người hỏi tôi rằng: anh hay chị đã yêu Chúa như Chúa yêu chưa? Có lẽ, chẳng có mấy người trong chúng ta dám mạnh dạn trả lời ‘có’. Giả như có một số người thật dũng cảm khi trả lời có thì câu trả lời ‘có’ đó cũng chỉ là từ ngữ; bởi vì, sau đó khi được yêu cầu liệt ra các việc làm cụ thể của yêu thương thì chúng ta lại ấp úng, rồi cười xoà cho xong. Nhưng nếu cần phê phán người khác thì chúng ta giỏi lắm. Chúng ta thường áp đặt lối suy nghĩ ích kỷ của chúng ta trên việc làm của người khác cho nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội nhận ra ý nghĩa sâu sắc của viêc làm nào đó của tha nhân!

Hẳn chúng ta còn nhớ. Mary, chị của Lazarô, người đã dùng dầu thơm hảo hạng để xức chân Đức Giêsu; thế mà cũng có người cảm thấy bị xúc phạm rồi phê phán hành động của Maria thật là hòai của và lãng phí, tại sao chị lại không dùng tiền đó mà cho người nghèo! Với Chúa thì khác, Người nhìn thấy tấm lòng của chị ta. Chúa xác định một cách thật chắc chắn rằng, hãy để chị ta làm việc của chị ấy, đừng xía miệng vào chuyện của người khác. Việc làm của chị thật tuyệt diệu; qua hành vi này Maria đã bộc lộ tấm lòng quí mến của chị dành cho Thầy.

Sau cùng, chúng ta hãy đến với nhau bằng tấm lòng quảng đại và đôi tay mở ra, chứ đừng hoài nghi hay phê phán các việc tốt của người khác đã và đang làm. Trái lại, chúng ta cũng không nên quá cẩn trọng và e dè khi cần làm một điều thiện cho tha nhân. Tất cả đều đuợc đánh giá bằng lòng yêu mến.

Hành vi của lòng nhân hậu phát sinh bởi ý ngay lành đều là những hành vi Thánh Thiện. Những gì càng nhỏ bé và dấu kín và một khi được bộc lộ thì giá trị càng cao. Sự thánh thiện đích thật thường được giấu trong cái vỏ bình thường bên ngòai. Và với lòng yêu mến, việc phục vụ tha nhân chính là phụng sự Thiên Chúa vậy.

Với tâm tình như thế, cầu chúc anh chị em buớc vào Tuần Thánh với tấm lòng yêu mến để được thêm sức mà vác Thánh Giá trên con đường phục vụ và trở thành của lễ cho Thiên Chúa và sinh nhiều hoa trái cho tha nhân. Amen!

Wednesday, 13 March 2024

HẠT GIỐNG MỤC NÁT TRỔ SINH HOA TRÁI?

 

Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su thường xuyên nói: “Giờ Ta chưa đến”. Giờ ở đây ám chỉ đến giây phút Người thi hành trọn vẹn ý định của Chúa Cha. Giờ vâng phục. Giờ Chúa Cha được tôn vinh. Nhưng, trước con mắt người đời thì đó là giờ tử nạn. Nói như thế có nghĩa là mọi cử chỉ, mọi thái độ và cách hành xử của Người đều hướng về giờ đó. Đức Giê-su ý thức và biết rất rõ các việc Người làm dẫn Người đến giờ chết. Nhưng vì giờ này mà Người đã đến.

Đức Giê-su không tìm cái chết. Nhưng Người biết rõ việc làm của Người sẽ đem đến tai họa cho bản thân. Và để hoàn thành ý định của Thiên Chúa, nhất là vì lợi ích của thế gian cho nên Người hân hoan thực hiện, cốt để làm chứng rằng Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người cho chúng ta được sống.

Và trong bài Tin Mừng hôm nay, trong khi mọi người chuẩn bị mừng lễ Vượt qua tại Giê-ru-sa-lem thì Đức Giê-su báo cho chúng ta biết rằng giờ đó sắp diễn ra. Người nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh.” Nhưng trên thực tế, chúng ta đâu thấy Đức Giê-su được tôn vinh mà chỉ thấy cảnh bị sỉ nhục, chê bai, khinh miệt, cuối cùng là con đường thương khó và bị treo trên thập giá của Người. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì ai trong chúng ta có thể nói rằng giờ của một người sắp bị xử tử lại là giờ vinh quang cho người đó!

Lối suy nghĩ và đặt vấn đề của chúng ta như thế cũng không xa lạ gì với cách nhìn về cái chết trên Thập Gía của những người cùng thời với Đức Giê-su. Đó là án chết dành cho các tử tội. Đức Giê-su cũng thế. Người bị chết trên thập giá như một tội nhân, nằm giữa 2 tên trộm cướp. Một cái chết như thế mà dám gọi là chết vinh quang hay sao?

Để đáp trả cho câu hỏi nói trên và cũng là câu trả lời mà Đức Giê-su dành cho những ai muốn gặp Người, cách riêng những người Hy Lạp sùng đạo. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp, nhưng nhân cơ hội này nói cho họ biết làm thế nào để gặp Người.

Đức Giê-su đã không tiếp tục giải thích về sự nối kết giữa ‘giờ vinh quang’ và giờ chết mà Người sắp đón nhận. Người dùng ví dụ mà nguời đuơng thời hay những ai có kinh nghiệm trong việc trồng cấy đều hiểu ngay điều Chúa muốn nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”

Ý nghĩa của ví dụ về sự phát triển của hạt giống trở nên rõ nghĩa hơn khi Đức Giê-su nhấn mạnh đến việc yêu thương và hy sinh cuộc sống mình vì lợi ích của người khác. Ai trong chúng ta cũng có trải nghiệm này là sống cho bản thân, chỉ lo cho mình là một lối sống tự diệt. Tình Yêu chỉ được thăng hoa khi người đó dám yêu và dám sống cho người khác. Tuy đó là hy sinh nhưng sự hy sinh như thế là việc rất cần thiết vì chúng ta biết rằng các việc làm tự nguyện đó sẽ đem lại ích lợi cho tha nhân.

Trong cuộc sống gia đình, có vợ chồng nào đã không buông bỏ ý riêng mình, thay đổi lối tư duy để sao cho hòa hợp với người mình yêu, không chỉ một vài lần mà hàng vạn lần. Lối sống chết đi cho ý riêng, sống lại với ý nghĩ mới để cùng nhau nở sinh hoa trái là khuôn mẫu trong mọi mối tương quan đã thấm nhuần vào trong cuộc sống của chúng ta.

Một hình ảnh khác, cũng trong môi trường gia đình, có bậc phụ huynh nào không yêu con khi hy sinh cho con cái, từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý định của các cháu và mong cho các cháu có một cuộc sống đổi mới. Đó cũng là việc chết đi cho ‘cái tôi’, sống cho người khác để họ được sinh hoa kết trái trong cách chọn lựa mới.

Nói chung, lối sống như thế tạo cho chúng ta một lối sống giầu có và luôn được thăng hoa, vì nó có thể chạm đến nguồn suối yêu thuơng của Thiên Chúa. Tất cả những điều đó đã được Đức Giê-su thể hiện qua cuộc sống từ bỏ, chấp nhận trong hân hoan để được chết đi, trở thành Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng những ai đang đói khát nguồn ơn cứu thoát. Thật, đúng như thế, vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để luận tội và xét xử thế gian, nhưng nhờ Con của Người mà thế gian được cứu thoát.

Như vậy, thưa anh chị em,

Qua tấm lòng vâng phục, ngay cả sự chết cũng không làm Đức Giêsu chùn bước; cho nên Thiên Chúa đã siêu tôn Người vuợt lên trên mọi sự. Nhưng, sao mà Đức Giê-su có thể vượt qua mọi sự, ngay cả nỗi cô đơn, vuợt qua muôn vàn thử thách, ngay cả sự chối bỏ của những người bạn cùng đồng hành với Người, để trung thành và chấp nhân sự chết như thế? Chỉ có một câu trả lời xác đáng rằng sức mạnh mà Đức Giê-su có được, hoàn toàn phát sinh từ mối dây hiệp thông mật thiết với Chúa Cha, chỉ muốn làm hài lòng Cha. Có nghĩa là cái chết của Đức Giê-su cho thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa trong Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho thế gian.

Còn một điều kỳ diệu khác nữa là lời mời cùng chết với Chúa của Đức Giê-su. Có nghĩa là khi chấp nhận lời mời là lúc chúng ta giống như những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo trồng: cần bị mục nát, cần bị chết đi để sinh hoa lợi cho người khác. Đây là giây phút cao quí nhất của những ai theo gương Đức Giê-su. Đây là giây phút chúng ta gom tất cả những gì Đức Giê-su đã thực hiện khi còn sống và được tiếp tục qua lối sống tự hạ của chúng ta là những người sẵn sàng chấp nhận chết đi cho nhau được sống. Và, như Đức Giê-su, trong giây phút quên mình đó, cuộc đời của chúng ta cũng đựơc Thiên Chúa tôn vinh.

Và trong tâm tình đó, xin mời anh chị em cùng ôn lại một vài gương sáng.

Trước hết là cuộc đời của mục sư Martin Luther King. Ông là một con người đã dùng cả cuộc đời để tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen; và sau cùng, ông đã bị ám sát chết vào ngày 4 tháng 4 năm 1968. Truớc cái chết vô cùng tang thương, trước sự mất mát thật to lớn của nhân loại; có ai trong chúng ta dám nói lúc ông bị ám sát là giây phút vinh quang của đời ông? Hay là chúng ta chỉ biết than khóc cho một con người đã hết lòng vì người khác. Đây phải chăng là một sự thảm bại mà ông phải chịu khi dám đứng ra để chống lại một thế lực quá lớn không hỗ trợ cho phép người da đen được bình đẳng. Tuy nhiên, ngày hôm nay sau hơn 55 năm, chúng ta đều nhận ra một điều là qua sự chết, ông đã đạt được giấc mơ đem lại quyền bình đẳng giữa người da mầu và da trắng. Đó chính là giây phút vinh quang mà ông muốn nhắm đến. Qua sự chết, ông đã truyền sức sống cho những hạt giống ở các thế hệ kế tiếp.

Qua sự chết của cố mục sư Martin Luther King làm chúng ta nhớ lại cái chết của vị cha già dân tộc Ấn là Mahatma Gandhi.

Người ta cũng không thể quên cái chết của linh mục dòng Phan-xi-cô, cha Ma-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê đã tình nguyện chết thay cho người bạn tù. Hoa quả của cái chết mà Người để lại là tình thân ái, yêu thương và chia sẻ của những người bạn tù còn sống sót trong trại giam. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em bạn tù.

Đó là những mẫu gương phi thuờng đòi hỏi một cố gắng đem đến kết quả cũng phi thường. Nhưng đối với chúng ta, hãy nhìn vào cuộc sống gia đình, chúng ta vẫn nhận ra rằng còn có những người cha và mẹ sẵn sàng hy sinh bản thân, chấp nhận là người thua cuộc chỉ vì họ yêu con cái của họ và người bạn đuờng hơn yêu chính bản thân. Còn bao nhiêu người đang âm thầm chết để bộc lộ tình yêu và gầy dựng tương lai cho các thế hệ mai sau. Trong Chúa, họ rất đáng được ca ngợi và tôn vinh.

Vì thế trong giây phút chuẩn bị bước vào Tuần Thương Khó, chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì lối sống chứng nhân của bao nhiêu người đang chết đi cho chính mình để sự chết của họ như mầm giống trổ sinh hoa trái cho các thế hệ mai sau. Họ là chứng nhân Tình Yêu. Cùng với họ chúng ta ngợi khen Tình Yêu của Thiên Chúa, Đấng đã vì thế gian mà sẵn sàng hy sinh Con Một, Người cũng vui lòng. Amen.

 

Saturday, 9 March 2024

THIÊN CHÚA YÊU TẤT CẢ, CÒN CHÚNG TA?

 

Anh chị em thân mến,

Chúa chính là Tình yêu. Một tình yêu hiến dâng, sẵn sàng hy sinh Con một mình để cứu độ nhân loại. Đó chính là chủ đề chúng ta cùng nhau suy gẫm trong tuần này,

Trước tiên chúng ta hãy nhớ rằng Tình yêu Thiên Chúa đã trải dài qua muôn thế hệ. Tình yêu đó đã xuất hiện ngay khi Người tạo dựng. Mọi sự Người tạo dựng đều tốt đẹp và thiện hảo. Trong khi đó thế gian chưa bao giờ tùng phục và tuân theo ý của Người. Quyền lực của thế gian luôn là thế lực chống đối Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà thế gian có thể làm giảm uy lực Tình yêu của Thiên Chúa, trái lại Người càng yêu mến thế gian hơn. Người yêu thế gian đến độ sẵn sàng hy sinh con một của Người để cứu độ thế gian!

Giờ đây chúng ta cùng ôn lại công trình yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta tưởng rằng việc con người sa ngã có thể làm cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Thật ra, sự tích sa ngã trong sách Sáng thế ký không chỉ cho ta thấy sự thất bại của con người cho bằng đề cao lòng thành tín và yêu thương của Thiên Chúa, Đấng luôn đi bước trước để tìm kiếm con người.

Và để chuẩn bị cho muôn thế hệ nhận ra Tình yêu của Người, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc để diễn tả lòng thương yêu, sự quan tâm của Người dành cho đám dân được tuyển chọn đó. Đúng vậy! Tình yêu của Thiên Chúa không phải là mớ giáo thuyết, cũng không lệ thuộc vào các trải nghiệm của con người. Nhưng, tất cả đều diễn tiến qua các biến cố lịch sử, trong đó con người có thể nhận ra bàn tay can thiệp của Thiên Chúa.

Một cách cụ thể, trong bài đọc một mà chúng ta nghe hôm nay kể lại việc vua Ky-rô phóng thích, cho phép dân Israel được hồi hương, trở về tái thiết xứ sở, xây dựng lại Đền thờ Giê-ru-sa-lem đã bị sụp đổ. Qua hành động của Vua Ky-rô, xứ Ba-tư này, dân Do Thái và chúng ta nhận ra lòng yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện trong việc Người đã can thiệp để cứu thoát dân riêng của Người.

Sau đó, trên đường về đất hứa, trong sa mạc, trước các thử thách, họ than van và chẳng còn nhớ đến ơn Người, lại còn đòi quay về Ai cập, cho dù ở đó, cuộc sống có khó khăn, thân phận bị ngược đãi như những kẻ nô lệ, nhưng lại có thịt để ăn; bây giờ được tự do, lại lâm vào cảnh chết đói ở sa mạc thì hơn gì.

Dân chúng mọi thời vẫn thế. Được voi đòi tiên. Đến với Thiên Chúa theo ước muốn của riêng mình. Đến khi gặp thử thách thì lại trách móc. Tuy nhiên, Thiên Chúa của chúng ta luôn trung tín, không bao giờ thất hứa. Người ban cho họ Man-na để khỏi bị chết đói, cho họ nuớc uống để khỏi chết khát.

Sau khi được no nê và không bị chết khát, họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Mai-sen. Với thái độ bất trung và phản bội như thế, một hiện tuợng đã xẩy ra cho dân, đó là biến cố rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Trong nguy cơ đó, họ mới biết sợ và năn nỉ tổ phụ Mai-sen xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Mai-sen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.

Hôm nay, trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã nhắc lại sự tích con rắn đồng để ám chỉ đến việc Người sẽ bị giương cao trên Thập Giá để cứu độ con người, Người phán: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, được cứu độ”. Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương và muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình. Chương trình cứu độ đã được hoàn tất bởi sự vâng phục và trao hiến của người Con, Đức Giê-su Ki-tô. Người đã bộc lộ cho thế gian nhận biết Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian đến dường nào.

Nhưng, tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Cho dù chúng ta không có mặt cùng thời với Đức Giêsu, nhưng không vì thế mà lợi ích của chúng ta nhận được lại thua kém những người cùng thời với Người.

Thật ra, các môn đệ và những ai sống cùng thời với Đức Giê-su cũng giống như chúng ta, phải chờ đến ánh sáng Phục Sinh, và nhất là duới quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần rồi họ mới tin để nhận ra rằng nơi Người ơn cứu độ chứa chan. Đó là hồng ân của đức tin, một sự đáp trả không chỉ bằng lời nói, nhưng qua cách sống, một lối sống hoàn toàn phụ thuộc vào quyền năng của Đức Ki-tô, mà với lòng tin, chúng ta tôn vinh Người là Chúa. Còn những ai không tin, họ không bị kết án bởi Thiên Chúa, mà chính họ tự kết án chính mình, bởi vì họ ngoan cố, bướng bỉnh, chỉ muốn tự mình làm chủ và loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của họ.

Còn đối với những ai tin thì cuộc sống của họ lệ thuộc vào Đấng mà họ tin thờ. Niềm tin của họ là một sự đáp trả không dựa vào ngôn từ mà còn bằng việc làm. Thật đúng như lời của Thánh Gia-cô-bê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải đuợc biểu lộ bằng hành động, qua lối sống của một con người đến để yêu thương.

Nói cho cùng thì Tin rồi Yêu và càng Yêu thì càng Tin. Đó chính là lối sống của người môn đệ. Chúng ta không bộc lộ, không diễn tả tình yêu của riêng mình. Nhưng, tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trong mọi tình huống, trong mọi giai đoạn, ngay cả những lúc yếu đuối nhất… để mà buớc đi và quảng bá cho thế gian biết rằng Tình yêu của Chúa vẫn trường tồn trong lối sống của mình.

Thật vậy, trong thân phận của những người môn đệ, chúng ta hãnh diện và xác tín rằng: chỉ có tình yêu mới làm cho con người sống trong hy vọng về một tương lai tươi đẹp hơn những gì mà chúng ta, cùng với mọi thành phần trong Hội Thánh, đang phải đối diện. Bởi vì,

Tình yêu luôn mở ra các cơ hội cho con người đến và giao tiếp với nhau.

Tình yêu là cánh cửa mở ra cho con người bước vào.

Tình yêu là động lực giúp chúng ta cùng bước để loan báo, không chỉ bằng lời mà còn bằng cuộc sống chứng từ của mình rằng: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng sống vì người mình yêu".

Thật vậy, Đức Giêsu đã tuyên bố như thế và Người đã sống chính Lời Người nói ra bằng việc đi đến cùng con đường Người tự chọn để thể hiện Tình Yêu của Người. Cái chết trên thập giá diễn tả mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng... Chết cho Tình Yêu để rồi sống mãi cho Tình Yêu.

Ngày hôm nay, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho thật vui để mừng đón mầu nhiệm Vượt Qua mà Đức Giê-su, Đấng đã dâng hiến chính mình, mở cửa Nước Trời cho chúng ta bước vào mà vui hưởng niềm vui được hòa giải với Thiên Chúa. Đó chính là điều mà Thánh Gio-an nói với chúng ta hôm nay rằng Thiên Chúa đã cho đi tất cả mà không hề do dự hay nuối tiếc, ngay kể người Con yêu dấu của Người. Còn niềm vui nào cao trọng và tuyệt vời hơn niềm vui của Thiên Chúa, Đấng vui sướng khi làm cho chúng ta được sống lại, khôi phục mối dây yêu thương của chúng ta với Người và với nhau.

Vì thế, với niềm tin vào sự hiện diện của Đức Kitô, cảm nhận được tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa, Đấng đã trao ban cho chúng ta người Con duy nhất của Người. Chúng ta hãy tự hỏi mình đã làm gì cho Chúa và tha nhân? Người đang chờ đợi và mong muốn lối sống hy sinh, yêu thương và phục vụ hết mình của Người được tiếp tục qua cuộc sống của mỗi tín hữu, trong đó có bạn và tôi, tất cả mọi người không loại trừ một ai. Cầu xin cho nhau thực hiện được điều mong ước của Chúa, Amen.