Friday, 27 December 2024

VƯƠN LÊN TRONG HY VỌNG

 Anh chị em thân mến,

Đêm nay, chúng ta quy tụ nơi đây để mừng lễ Giáng Sinh, biến cố trọng đại mừng và kỷ niệm việc Thiên Chúa mở cửa Nước Trời, đến trong thân phận con người và cư ngụ giữa thế giới. Đồng thời, năm nay, chúng ta cùng với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mở cửa Thánh, khai mạc Năm Thánh Hy Vọng. Ngài mời gọi chúng ta sống đức tin trong niềm hy vọng tràn đầy.

Trong Năm Thánh Hy Vọng, chúng ta được ánh sáng của Lời Chúa soi sáng dẫn đường, sống Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh, dù phải đối diện với các khó khăn, gian truân và thử thách.

Hy vọng không phải là sự chờ đợi thụ động, mà là hành động cụ thể. Chúng ta hãy là những người gieo hy vọng bằng cách thực thi bác ái, tha thứ và làm chứng cho Chúa Kitô.

Như vậy, Đức Thánh Cha Phan-xi -cô đã chọn đêm nay, đêm mừng Chúa Giáng Sinh để khai mạc năm Thánh, Năm Toàn Xá, năm tràn đầy Hy Vọng. Người muốn nhắc nhở chúng ta rằng: trong Chúa Kitô, bóng tối bị đẩy lùi, và chúng ta được mời gọi sống trong ánh sáng của đức tin, đức cậy và đức mến. Và qua cuộc sống và các việc làm trong Năm Thánh này, chúng ta để Chúa Giêsu sinh ra trong lòng chúng ta, để cuộc sống chúng ta trở thành dấu chỉ sống động của hy vọng và bình an trong thế giới hôm nay.

Khi nói đến Năm Thánh, chúng ta thường nghĩ đến việc tổ chức các chuyến hành hương, gia tăng công việc đạo đức để lãnh ơn Toàn Xá. Đó là điều tốt, nhưng không phải là việc quan trọng. Bởi vì, không phải chờ đến năm Thánh,  chúng ta mới nhận được các ân sủng của Chúa. Nhưng mỗi giây, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta đều là ân sủng. Tất cả đều là hồng ân mà.

Vậy điều nào mới quan trọng trong Năm Thánh. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vào đầu năm 1997, đã nhắn nhủ với giới trẻ rằng con người chỉ sống trong an bình khi biết tha thứ cho nhau, nghĩa là khi tha thứ cho tha nhân thì chính bản thân của mình được an hòa trước. Và gần đây, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho nhau.

Đức Cha John Heap, nguyên là Giám Mục phụ tá của Tổng Giáo Phận Sydney, trong chương mở đầu cuốn “A Love That Dares To Question” đã chia sẽ là hiện nay trong Giáo hội còn rất nhiều người có một cuộc sống ngăn trở với Giáo Hội, nhưng họ vẫn một niềm yêu mến Thiên Chúa và tha nhân qua các công tác tốt nhất mà họ có thể thực hiện để diễn tả lòng yêu mến đó. Điều cần thiết nhất mà những người sống trong các hoàn cảnh đó đang khao khát là sự thông cảm và tha thứ. Đây chính là dấu chỉ tuyệt hảo nhất mà Giáo Hội nên có để diễn tả sự đón chào và mời gọi họ trở về hiệp thông với Giáo Hội.

Như thế, Năm Toàn Xá là cơ hội để con người sống yêu thương hơn, sống tha thứ và biết bỏ qua những nợ nần của nhau. Hãy can đảm để đổi mới cách sống: thay vì nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói, ghen tương, lên án hay hận thù thì hãy trao cho nhau sự tin tưởng, lòng nhân ái và hãy thông cảm những yếu hèn, sự mỏng giòn trong thân phận kiếp người của nhau.

Trong tâm tình đó, xin mời anh chị em cùng ôn lại ý nghĩa của Năm Thánh trong dòng lịch sử cứu độ.

Trong sách Lê-vi, chương 25 đã ghi lại ý nghĩa và cách thực hành trong năm Thánh, năm toàn xá, năm ‘chúa của mọi ngày hưu lễ’. Trong năm đó, toàn thể dân Do Thái tìm lại bản chất đích thực của dân tộc mình. Họ tìm lại sự mới mẻ, trọn vẹn và tinh tuyền cũng như sự tốt đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho họ ngay từ những ngày đầu của tạo dựng.

Trong năm toàn xá họ giữ thật nghiêm ngặt các qui định sau đây:

1/ Ruộng đất bỏ hoang, không cầy cấy trồng trọt. Việc này có ý nghĩa là hãy quan tâm đến đời sống của mình, vì nó còn quan trọng hơn là trồng cấy. Họ tin tưởng vào sự chăm sóc và nuôi dưỡng của Thiên Chúa trong thời gian này.

2/ Tất cả những ai đang thiếu nợ thì đều được tha. Ý nghĩa của việc tha nợ là đừng để nợ nần chồng chất từ đời này sang đời khác. Nó cũng nhằm bảo đảm cho những ai dù vất vả suốt đời nhưng vẫn không có khả năng trả nợ, thì được tha hết.

3/ Nô lệ được trả tự do và quyền công dân của giới nô lệ được phục hồi. Điều lệ này nhằm chống lại việc phân chia giai cấp, vì con người được sinh ra không phải để làm nô lệ cho kẻ khác.

4/ Việc giảng dậy về sự khôn ngoan của lề luật được phổ biến rộng rãi cho toàn dân, ai ai cũng được học hỏi về lẽ khôn ngoan. Đó không phải là điều mà chỉ có những người thuộc thành phần ưu tú hay có địa vị mới được lĩnh nhận mà thôi.

Đến khi Đức Giêsu xuất hiện, Người đã kiện toàn các qui định được áp dụng trong năm toàn xá và đem ý nghĩa đến chỗ kiện toàn và trở nên sống động. Trong bài giảng khai mạc sứ vụ, Ngài đã công khai loan báo về hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đã xức dầu tấn phong để Ngài công bố về năm Hồng Ân của Thiên Chúa.

Thời đại của Hồng Ân đã được loan báo bởi các tiên tri nay được ứng nghiệm nơi sự hiện diện của Ngài. Thời đại đó không còn chỉ dành riêng cho người Do Thái, nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới. Hơn thế nữa, Người không chỉ là dấu chỉ của Hồng Ân, mà còn là ‘Con Người Hồng Ân’. Tất cả những ai đã gặp Ngài đều cảm nghiệm được điều đó. Bằng chính cuộc sống cũng như các lời giảng dậy, Đức Giêsu đã là Tin Vui cho người nghèo, những kẻ thấp cổ bé miệng, bị bỏ rơi và thân phận không được tôn trọng. Ngài đã không chỉ giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi mà thôi, nhưng còn lôi họ ra khỏi sự giam cầm của thứ luật lệ đã giam hãm và làm mất đi phẩm giá của họ. Từ sự giải thoát ấy, họ cảm nghiệm được lối sống phát sinh từ sự tự do của ân sủng nơi Ngài.

Với những đặc tính của Năm Toàn Xá theo tập tục của cha ông chúng ta trong Cựu Ước, và nhất là qua biến cố nhập thể của Đức Giêsu, Người đã kiện toàn lề luật và làm cho những khoản luật, đặc biệt là những qui định của năm toàn xá được trở nên sống động hơn.

Giờ đây, một lần nữa chúng ta hân hoan bước vào Năm Thánh, Năm Hồng Ân, Năm tràn đầy hy vọng, đươc khai mạc bởi vị cha chung của Hội Thánh vào đêm mừng lễ Chúa Giáng sinh của năm phụng vụ 2025. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi có một lối sống, lối sống của những người lữ hành đầy tràn hy vọng.

Để cụ thể, tôi xin đề nghị

Trong Năm Toàn Xá 2025, chúng ta cùng nhau nhìn lại cuộc sống đức tin dưới các yêu sách của Tin Mừng, nhất là biết tha thứ cho nhau, có nghĩa là chúng ta sẽ tái lập, làm cho mối quan hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta được thăng hoa.

Với tâm tình tràn trề hy vọng, chúng ta tham gia các cuộc hành hương, siêng năng lãnh nhận các bí tích, và thực hiện các công việc từ thiện như giúp đỡ người nghèo, người bệnh, người già, người tất bạt, kẻ bị tổn thương và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhằm đổi mới đời sống.

Sống và thực hành các điều nói trên sẽ giúp chúng ta sống Năm Thánh, Năm hồng ân, Năm toàn xá một cách trọn vẹn. Chúng ta gia tăng lòng tin yêu và trở thành sứ giả của niềm hy vọng cho thế giới hôm nay. Amen!

 

Friday, 20 December 2024

THĂM VIẾNG: DẤU CHỈ TÌNH THƯƠNG

 Kính thưa anh chị em,

Thăm viếng là hành động thể hiện tình yêu thương, quan tâm và chia sẻ giữa người với người. Thăm hỏi người bệnh, người già, người cô đơn còn là nhiệm vụ và ơn gọi của Ki-tô-hữu. Khi thăm viếng ai đó, chúng ta đem lại sự an ủi, động viên và làm dịu đi những nỗi đau hay khó khăn trong cuộc sống của họ. Qua những lần thăm viếng, chúng ta làm chứng cho đức tin và lòng bác ái Kitô giáo. Bởi vì, mỗi lần thăm nhau là một cơ hội đem Chúa đến với người khác. Tất cả Kitô hữu đều được mời gọi thăm viếng người khác bằng cách chia sẻ Tin Mừng qua đời sống yêu thương, công bằng và lòng thương xót.

Dựa trên kinh nghiệm sống chúng ta nhận ra rằng, thăm viếng là dấu chỉ của tình thương và lòng bác ái. Đó có thể là khởi điểm của một mối tình hay là bước đầu của một dự án. Chúng ta thường đến thăm những người chúng ta yêu thương. Tình yêu cần được nhìn thấy, chứ không thể khư khư, giữ kín và ôm lấy cho riêng mình. Một thứ tình yêu âm thầm, chỉ dựa vào ngôn từ mà không được biểu lộ thành hành động thì không phải là tình yêu chân chính và đích thực. Đây là kinh nghiệm vô cùng quí giá của những ai đang yêu. Họ tìm mọi cách để thăm nhau. Và thường thì mỗi lần như thế họ để lại trong nhau các trải nghiệm khó phai mờ.

Thật vậy, thăm viếng là một trong các điều vô cùng cần thiết trong xã hội mà khuynh hướng tôn sùng chủ nghĩa cá nhân được cổ võ và phát triển như hiện nay. Ngày xưa, con người đến với nhau để giao tiếp. Hôm nay, lệ thuộc vào sự tiến bộ của truyền thông, con người bỗng trở nên lười biếng hơn, chưa kể đến việc lạm dụng các phương tiện văn minh kỹ thuật để bớt gặp nhau hơn. Có ai ngờ được hiện tượng của những con người sống chung trong một mái nhà mà lại phải dùng điện thoại để nhắn tin hay gọi điện thoại cho nhau xuống ăn cơm tối. Tiện lợi vô cùng, nhưng hiểm họa ngay bên! Lối sống mỗi người là một ốc đảo càng ngày càng hiện rõ trong các sinh hoạt của gia đình và đương nhiên sẽ lan tràn như bệnh dịch sang môi trường mình sinh sống.

Ngày xưa, trong các tuần đại phúc của anh em chúng tôi, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế. Nói nôm na là trong các lần giảng tĩnh tâm tại các Giáo xứ, chúng tôi thường dành mấy tuần đầu cho chương trình, ban ngày đi thăm viếng buổi tối họp nhóm. Công việc này giúp chúng tôi và giáo dân trong xứ hiểu nhau hơn, nhìn thấy nhu cầu của nhau mà quan tâm… rồi từ đó các bài giảng thuyết được chuẩn bị hầu đáp ứng đúng nhu cầu của bà con trong giáo xứ.

Vì sao mà được như thế? Tất cả nhờ vào công tác thăm viếng. Qua đó, chúng ta dễ dàng tiếp cận và hiểu nhau hơn.

Ngày nay, vì nhiều nguyên do khác nhau, dù lòng chúng ta muốn áp dụng cách thức này; nhưng thực tế cũng không cho phép. Con người quá bận rộn! Nhu cầu thăm viếng, đến với nhau càng ngày càng thấy hiếm. Chúng ta đang bị tục hóa. Cuộc sống của chúng ta càng ngày càng xa những đòi hỏi và các yêu cầu của Lời Chúa. Vì thế, trong khi chờ đợi Lễ kỷ niệm ngày Chúa Giáng trần, chúng ta hãy nhìn lại ý nghĩa  việc Thiên Chúa thăm con người.

Lần giở sách Kinh Thánh, chúng ta nhận ra chuỗi dài của việc viếng thăm mà Thiên Chúa đã thực hiện trong dân Ngài. Qua các sứ giả của Thiên Chúa, mà cụ thể là việc Thiên Thần đến với E-li-sa-bét và Đức Maria trong các trình thuật truyền tin; rồi qua môi miệng và chứng từ của các ngôn sứ, như lời tụng ca của Dacaria “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.”

Trong sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, chúng ta có thể liệt kê vô số các lần thăm viếng và đồng bàn với dân chúng của Đức Giê-su. Và nhiều điều kỳ diệu đã xẩy ra trong và sau những lần thăm viếng đó. Cụ thể như việc Đức Giê-su chữa lành cho người đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng trong lần Người ghé thăm Ca-pha-na-um; qua lần ghé Nain, Người đã làm cho cậu con trai duy nhất của bà goá được sống lại. Với việc đến thăm và làm bạn với những người tội lỗi khiến cho mấy ông bà tưởng mình đạo đức phật lòng… Nhưng lần thăm Giê-ru-sa-lem sau cùng lại không có kết quả tốt như các lần trước. Người đã bị từ khước và cuối cùng là hành trình khổ nạn và Thập Giá; nhưng đàng sau của Thập Giá là vinh quang của sống lại mà ngày nay con cháu của Người được thừa hưởng sự hy sinh đó.

Giờ đây, chúng ta cùng suy gẫm cuộc thăm viếng của Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét. Sau khi để cho ý định của Thiên Chúa được thành sự trong cung lòng của Ngài, Đức Maria vội vã ra đi lên miền sơn cuớc để thăm bà Ê-li-sa-bét, chị họ Ngài. Trình thuật này thường được suy gẫm trong Kinh mân côi để ca tụng nhân đức thương người, luôn quan tâm đến nhu cầu của kẻ khác nơi Mẹ. Tất cả đều là những bài học thật quí giá mà Mẹ đã để lại cho chúng ta học hỏi và noi gương.

Tuy nhiên, hôm nay tôi xin mượn kinh nghiệm thật sâu xa của các bà mẹ đang mang thai đã chia sẻ với nhau mà tôi nghe lóm đuợc. Nhờ vào các kinh nghiệm của các bà mẹ, tôi khám phá ra một điều là biến cố Đức Mẹ đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét mang tính nhân bản. Mẹ đã đến với bà chị họ của Mẹ như một người em. Mẹ đã không dấu được niềm vui khi mang thai. Niềm vui này là nguồn sức mạnh thúc đẩy Mẹ lên đường để chia sẻ niềm vui và điều kỳ diệu đang xẩy ra trong cung lòng của Mẹ cho người khác. Và ai là người có thể đồng cảm với Mẹ trong giai đoạn này? Đó chính là chị họ của Mẹ, người cùng cảnh ngộ và đang mang thai như Mẹ.

Còn hơn thế nữa khi mà sứ giả của Thiên Chúa đã loan báo về tương lai của hai bào thai: Con của Mẹ sẽ là Đấng Cứu Chuộc, và con của Ê-li-sa-bét là người tiền hô. Vì thế, niềm vui của hai người Mẹ đang mang thai chuyển động đến hai thai nhi khiến cả hai bào thai cùng nhẩy mừng trong cung lòng của hai ngươì mẹ khi họ gặp nhau. Chính vì thế, bà Ê -li-sa-bét đã lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa là nguồn mọi ơn phúc dành cho Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Nhận ra nguồn ơn đó từ Thiên Chúa, Mẹ đã mau mắn đáp trả: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi...”

Thưa anh chị em,

Qua trình thuật thăm viếng của Mẹ dành cho bà Ê-li-sa-bét, ẩn chứa cuộc gặp gỡ thật vui mừng giữa Đức Giê-su và Gio-an tẩy giả, có thể giúp chúng ta nhận ra ơn gọi của mình vừa là tiền thân vừa là hiện thân của Đấng Cứu Thế.

Cuộc thăm viếng của Đức Maria trong trình thuật Tin Mừng hôm nay còn là lời mời gọi chúng ta trong Mùa Vọng này hãy mở lòng ra với tha nhân qua tình yêu thương, phục vụ và chia sẻ niềm vui, để chúng ta cùng với họ chuẩn bị cuộc sống thật tốt cho việc chuẩn bị mừng biến cố Chúa Giêsu giáng sinh cho nhân loại nói chung và cuộc đời mình nói riêng.

Trong tinh thần đó, mỗi khi chúng ta gặp nhau, nhất là cuộc gặp gỡ trong bữa tiệc Tạ Ơn, đều là cơ hội để chúng ta đem Chúa đến cho người khác. Chính qua cử chỉ đó, chúng ta làm cho mầu nhiệm hy tế của Đức Giê-su mà chúng ta đang cử hành trong các Thánh Lễ trở thành hiện thực và sống động hơn bởi cuộc sống dấn thân và phục vụ mà chúng ta dành cho nhau.

Như vậy, mỗi lần chúng ta gặp nhau, dù là tình cờ hay đã định trước, đều là cơ hội để chúng ta có thể hỗ trợ nhau trong nỗi đau, củng cố và giúp nhau đối diện với cơn buồn phiền rồi hướng dẫn nhau vuợt qua tình trạng bối rối để hướng về cùng đích của Nuớc Trời.

Uớc mong Chúa mãi là hành trang trong các lần thăm viếng mà chúng ta dành cho nhau, để niềm vui trong Chúa qua việc gặp gỡ của chúng ta được trở nên trọn vẹn hơn. Amen!

Thursday, 5 December 2024

NIỀM VUI TRONG CUỘC SỐNG!

 

Anh chị em thân mến,

Phụng vụ Lời Chúa tuần này xoay quanh chủ đề niềm vui. Niềm vui của người tín hữu là kết quả của cuộc gặp gỡ giữa Chúa và mình, không phải chỉ một lần là đủ, nhưng cần được tái lập, canh tân và nuôi duỡng luôn. Thật vật, chỉ trong Chúa con người mới đạt đuợc niềm vui đích thực.

Để minh họa cho ý nghĩ nói trên, xin mời anh chị em cùng nghe một kinh nghiệm. Kinh nghiệm này có lẽ đã đuợc nhiều người kể hoặc chúng ta đã đuợc nghe nhiều lần. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra nét độc đáo và mới mẻ của câu chuyện mỗi khi được nghe lại. Và mỗi lần như thế, tôi lại có dịp đặt vấn đề cho niềm tin của mình. Giờ đây, xin san sẻ đến cho bà con nhé.

Câu chuyện được kể lại qua cuộc phỏng vấn giữa người ký giả chỉ tin vào lý lẽ và anh tân tòng vô danh.

-        Thưa anh, tôi nghe tin anh mới theo đạo Công Giáo, phải không?

·       Anh nói đúng. Thật ra tôi mới được rửa tội trở thành môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng tôi, và là thành viên của Hội Thánh Công Giáo.

-        Anh có thể kể cho tôi biết về lịch sử về cuộc đời của Chúa Giê-su?

·       Rất tiếc thưa anh. Tôi đã học và đọc qua nhiều cuốn sách về cuộc đời của Người và giờ này cũng chẳng còn nhớ đuợc bao nhiêu nữa!

-        Số phận của Đức Giê-su thế nào? Anh có biết tuổi thọ của Người là bao nhiêu không?

·       Tôi cũng chẳng nhớ rõ. Tôi chỉ biết là Người đã chết và đã sống lại.

-        Vậy ông ta chết năm bao nhiêu tuổi?

·       Tôi chẳng nhớ chính xác nên không dám nói bừa.

-        Cảm ơn anh! Theo sự nhận xét của tôi thì anh chẳng biết gì về Đức Giê-su, Chúa của ông; thế mà anh lại theo đạo Công Giáo, nghĩa là làm sao?

·       Anh nói đúng. Tôi xin lỗi đã làm ông thất vọng vì đã không làm cho ông đuợc thỏa mãn. Thế nhưng, thưa anh, chỉ có một điều tôi và gia đình tôi biết rất rõ. Đó là điều đang xẩy ra cho tôi và gia đình.

Cách đây mấy năm, tôi là người hư thân mất nết, cuộc sống bê tha và tồi tệ. Sau giờ tan sở, tôi thường la cà tại các nơi ăn chơi, rượu chè be bét; đến khi lết về được đến nhà thì tôi đã say ngất. Vợ con tôi đều lánh xa vì sợ hãi. Họ rất hổ thẹn và xấu hổ vì tôi.

Nhưng kể từ ngày tôi gặp Đức Giê-su và đi theo Người thì mọi sự đều thay đổi. Tôi đã cai được rượu, chăm lo cho vợ và các con. Họ không còn sống trong âu lo và sợ hãi mỗi khi gặp tôi; trái lại giờ đây, chúng tôi sống rất hạnh phúc và vui vẻ.

Tất cả đều là hậu quả của việc gặp gỡ và biết Đức Giê-su. Ngươì đã làm cho tôi và gia đình trở thành nguồn vui cho nhau. Anh thấy chưa. Những gì tôi biết về Người như thế thì quá đủ cho tôi và gia đình rồi.

Kính thưa anh chị em,

Như vậy, niềm vui chính là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người nơi mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Đây là cuộc gặp gỡ trọng đại giữa Thiên Chúa và con người. Qua Đức Giê-su, con người cảm nhận và tiếp xúc với một vị Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, đến và cư ngụ giữa chúng ta. Người chính là tin vui mà Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa qua môi miệng của các ngôn sứ.

Tất cả những ai đã gặp Chúa đều bị chất vấn để canh tân cho xứng với các tiêu chuẩn của Người đưa ra trong các mối phúc thật. Vì thế, việc đổi đời là điều cần thiết. Và đó cũng là điều mà Gio-an Tẩy Giả loan báo và yêu cầu chúng ta thay đổi lối sống sao cho xứng đáng để đón tiếp Người.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thính giả của Gio-an đã bị đánh động và tha thiết muốn thay đổi nên đã hỏi Gioan rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Và, tuỳ vào vị trí của họ mà Gio-an đã đưa ra lời yêu cầu phù hợp với cuộc sống của họ.

-        Với dân chúng, ông yêu cầu họ sống quan tâm và chia sẻ cơm ăn cũng như áo mặc cho nhau.

-        Với nhân viên thu thuế, ông mời gọi họ sống công bằng, Đừng thu thuế quá mức mà bóc lột và làm khổ dân chúng.

-        Và đối với binh lính, ông yêu cầu họ đừng dùng quyền lực để thống trị, hà hiếp hay chà đạp dân chúng; trái lại hãy chấp nhận quyền hạn và những gì họ có để phục vụ.

Thưa anh chị em,

Lời kêu gọi của Gioan hôm nay cho thấy, mỗi người đều phải nỗ lực canh tân điều chỉnh lại cuộc sống của mình, sống đúng với ơn gọi và nhiệm vụ đã được trao phó bởi Thiên Chúa thì sẽ tìm được niềm vui cho mình và cho xã hội. Chính Gio-an cũng phải thay đổi!

Gio-an Tẩy giả, với lối sống khổ hạnh và lời rao giảng có sức lôi cuốn mãnh liệt, có thể bị ngộ nhận là Đấng Cứu Thế mà tòan dân đang mong chờ. Nhưng ông không hề lợi dụng lòng yêu mến và sự ủng hộ của dân chúng để tạo thế đứng và uy tín cho mình, trái lại, ông sống và nói thật cho mọi người về bản thân: Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.

Gioan không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng. Ánh sáng đích thật là Chúa Giêsu. Vì thế khi Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công khai thì vai trò của Gio-an phải lu mờ. Đây là sự cao trọng trong sứ mạng của Gio-an. Chính vì biết mình là ai, và cần phải làm gì trong chương trình của Thiên Chúa, nên Gio-an đã trở thành con người vĩ đại như lời ca tụng của Đức Giêsu: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông.”

Vai trò của Gio-an dù có cao trọng đến đâu thì ông vẫn chỉ là người dọn đường; còn chính Chúa Giê-su và những kẻ thuộc về Người mới thuộc về Nước Trời. Đó là giáo lý mới, tin vui mà Chúa Giê-su đã đem lại. Chính Gio-an cũng phải thay đổi lối nhìn và cách sống sao cho phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giê-su là Đấng mà tòan dân mong chờ. Người sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới.

Chính vì thế, phần phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng thật sâu sắc. Sứ điệp của niềm vui và lòng hân hoan khi gặp Chúa đuợc nhấn mạnh. Hãy vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Người không dùng vũ lực để biểu dương uy quyền, nhưng bằng tình thương, sự hy sinh và lòng từ tâm để giải thoát chúng ta khỏi những mưu toan bất chính, thoát khỏi những cạm bẫy của thế tục bằng cách sống bác ái, chia cơm sẻ áo, sống liên đới trong yêu thương, tôn trọng và cổ vũ cho công lý để mọi người có cuộc sống chính trực và an hoà.

Đó là những công việc mà chúng ta cần làm, không chỉ trong Mùa Vọng này, mà cần được thể hiện liên tục trong cuộc sống của chúng ta, những người môn đệ chân chính của Chúa Hài Nhi. Amen!

HÃY ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG CỦA CHÚA.


Để bắt đầu bài suy niệm tuần này, xin chia sẻ đến quí vị một sự kiện. Số là, vào một buổi học Giáo Lý trong Mùa Vọng, lúc thầy giúp xứ đang giải thích về ý nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể, thì có một anh Giáo lý viên đã hỏi: “Thưa Thầy, giả như Đức Giêsu không nhập thể, không chết và không sống lại thì Thiên Chúa có đường lối nào khác để bộc lộ và ban ơn cứu độ cho con người hay không? Vẫn biết câu hỏi chỉ là một sự giả định, nhưng nội dung của câu hỏi cũng khiến cho chúng ta cần suy nghĩ. Với quyền năng vô biên của Thiên Chúa thì Ngài làm gì chẳng được, nhất là làm sao Ngài có thể từ chối việc ban ân huệ và chuộc tội cho chúng ta! Nhưng thực hiện kỳ công như thế mà không cho chúng ta thấy hay cảm nhận được thì nào có ích gì! Do đó, việc mang lấy thân phận con người là một việc cần thiết. Đã là người thì cần có cha có mẹ, anh em họ hàng, bà con láng giềng… Tất cả các điều đó nói lên lịch sử tính của người đó.

Việc Thiên Chúa can thiệp được thể hiện trong lòng người và giữa dòng đời. Đức Giê-su là một nhận vật lịch sử. Ngay cả sử gia người Do Thái Josephus đã phải ghi nhận về sự xuất hiện của Người. Nhưng còn hơn thế nữa, công trình cứu độ và giải thoát ấy được Thiên Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với sự cộng tác của mọi loài, mọi vật, y như trong biến cố xuất hành đưa dân Chúa giải thoát khỏi Ai Cập.Ngài đã ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn để hoàn thành ý định Ngài.

Trong cùng một ý tưởng đó, bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu và trình bầy cho chúng ta biết về sứ mạng của Gio-an Tẩy Giả. Ông đã xuất hiện trong lịch sử. Ông được kêu gọi và thực hiện sứ mạng ngay trong môi trường sinh sống của ông. Ơn gọi và sự trưởng thành trong sứ mạng của ông đưọc xuất phát nơi ông sinh ra và lớn lên. Ngày hôm nay, những người theo truyền thống Kitô giáo xưng tụng ông là Thánh nhân. Từ nguyên thuỷ, ông là người Do Thái, là ngôn sứ, thuộc dòng giống Hebrew chính hiệu. Sứ mạng của ông là tiền thân của Đấng Cứu Thế. Lời của ngôn sứ I-sa-i-a đã ứng nghiệm trên sứ mạng của ông là “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.

Và bối cảnh mà Gio-an nhận sứ mạng là hoang địa. Hoang địa hay sa mạc là nơi mà dân Do Thái đã trải qua các cuộc thử thách. Chính tại nơi đó họ cảm nhận đuợc tình thương của Thiên Chúa hơn bao giờ hết. Áp dụng vào hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta, tôi nhận ra một điều.

Đó là, thưa anh chị em, chỉ ở trong hoang địa chúng ta mới được hạnh phúc nhìn thấy Thiên Chúa. Tức là ở những nơi chúng ta trút bỏ hoàn toàn các mặt nạ của mình, trút bỏ kiêu ngạo, lo lắng, phân tán để lắng nghe Lời Chúa. Nếu chúng ta còn đeo những mặt nạ nói trên thì không thể có cơ hội nhìn thấy Người. Và đây là bài học thứ nhất: Hãy trút bỏ mặt nạ, sống thật với chính mình, không giả hình, không gian dối để được nên một với Chúa và dễ dàng tiếp cận nhau hơn.

Sứ điệp và sứ mạng của Thánh Gio-an Tẩy Giả được trình bầy vào Chúa nhật thứ hai và thứ ba trong các Mùa Vọng như một lời nhắc nhở chúng ta về sứ mạng của mình. Noi gương Ngài chúng ta được mời gọi ra đi để công bố cho những người chung quanh là hãy ăn năn, hãy dọn đuờng để chào đón Chúa Cứu Thế và tin vào Người.

Nói khác đi, khi nhìn lại việc Thiên Chúa gọi Gio-an Tẩy Giả cũng là lúc chúng ta nhớ lại ơn gọi của mình. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngài đi bước trước, đến trong hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Ngài không xuất hiện từ xa nhưng hiện diện ngay trong môi trường chúng ta sống, đến trong hoàn cảnh của từng người, không phân biệt lương hay giáo. Như Gio-an, chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận. Bằng một công thức rất trang trọng, Thánh Luca đã giới thiệu sứ mạng của Gio-an được xuất phát và thúc đẩy bằng Lời Thiên Chúa. Và chúng ta đã đuợc gọi bởi Lời Chúa, thì để hoàn thành sứ mạng chúng ta cũng cần đuợc nuôi duỡng bằng Lời để phục vụ Lời, như Đức Giê-su đến để loan báo Lời Thiên Chúa và phục vụ Thiên Chúa vậy!

Như Gio-an Tẩy Giả, chúng ta đuợc gửi đến những nơi khác nhau, tìm gặp những ai chưa tin, mời gọi họ nhận ra ân huệ của Thiên Chúa đang hoạt động nơi họ, và sau cùng là chào đón Đấng Cứu Thế. Muốn hoàn thành sứ mạng này, chúng ta phải ra đi làm chứng bằng chính cuộc sống của mình. Con người của xã hôi hôm nay yêu chuộng nhân chứng hơn là lời nói xuông. Chúng ta loan báo điều chúng ta tin và niềm tin của chúng ta được phát sinh từ các trải nghiệm trong cuộc sống. Làm chứng bằng chính cuộc sống mình bao giờ cũng đem đến hậu quả bền vững hơn.

Giống như Gio-an Tẩy Giả, chúng ta không kêu gọi sự chú ý đến chính mình. Chúng ta đến để giới thiệu và chỉ cho người ta thấy con đường của Chúa. Từ bỏ vinh dự cao quí và lui về phía sau để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài qua sứ mệnh mà chúng ta đã lĩnh nhận là điều tuy cần thiết nhưng rất khó thực hiện. Qua hành động như thế, chúng ta không hoạt động cho vinh quang của mình mà làm cho Danh Chúa được cả sáng hơn.

Như vậy, con đuờng mà chúng ta chuẩn bị cho Chúa đến là con đuờng đức tin, con đuờng của niềm vui; một niềm vui phát xuất từ bên trong phần sâu thẩm của tâm hồn và chỉ dành cho những ai đã đuợc Chúa chiếm đoạt. Trong sự tự do chúng ta đành mất tất cả để dành phần ích lợi cho anh em.

Tóm lại, trong tinh thần của Mùa Vọng năm nay, với gương sáng và việc chu toàn sứ mạng của Gio-an Tẩy Giả giúp cho chúng ta nhớ lại ơn gọi của chính mình. Chúng ta không chỉ đuợc kêu gọi ăn năn và sám hối để chuẩn bị tâm hồn Mừng Lễ Giáng Sinh mà thôi. Hơn thế nữa, đây là cơ hội để chúng ta đào sâu và làm sáng tỏ ơn gọi đuợc xuất phát từ Lời Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi ta đến để phục vụ Lời. Người đã đến trong hoàn cảnh của từng người, với tất cả giới hạn của thân phận gắn liền với đổ vỡ và tội lỗi của mình. Chính trong vùng đất khô cằn như hoang địa như thế, Thiên Chúa đã cất nhắc chúng ta lên, cho phép chúng ta tham dự vào sứ vụ của Người. Vì thế, chúng ta phải ra đi, không chỉ là tiền thân của Đấng Cứu Thế mà còn là hiện thân của Người, Đấng đã từ bỏ và chấp nhận mất tất cả để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, không loại trừ một ai.

Như vậy, nhiệm vụ của chúng ta thật nặng nề. Tuy nhiên, Đấng Cứu Thế đã đi trước để dọn đuờng. Người đã hoàn thành sứ mạng này. Vì thế, trong Mùa Vọng này, chúng ta không chỉ dọn đường cho Người đến mà hãy buớc vào con đuờng của Người. Con đuờng yêu thương và đón nhận. Con đường tự hiến và hy sinh. Con đuờng tha thứ và chấp nhận. Con đuờng của sự thật để nhận ra tất cả là của Người. Và, khi cùng dắt nhau đi trên con đuờng của Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở để đón nhận nhau, nhận ra sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi tha nhân. Người đã đến giữa chúng ta, trong lòng người và giữa lòng đời. Và nếu chúng ta không nhận ra Người trong cuộc sống của nhau thì việc dọn đuờng để chuẩn bị cho việc mừng Lễ Giáng Sinh cũng là việc làm chiếu lệ, theo thói quen.

Xin hãy mở mắt chúng con nhận ra Người nơi anh em không chỉ trong Mùa Vọng này, nhưng là trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời và nhất là trong các bữa tiệc Lòng Mến mà chúng con đến để trao gửi Chúa cho nhau. Amen!