Monday, 17 February 2025

THẬT THẾ, XEM QUẢ THÌ BIẾT CÂY!


Trình thuật Tin Mừng hôm nay là một phần của bài giảng trên đồng bằng mà chúng ta đã suy niệm trong các tuần vừa qua. Các lời giảng dậy của Chúa hôm nay cũng là ‘khuôn vàng thước ngọc’, là ‘kim chỉ nam’ mà các môn đệ của Đức Giê-su cần noi theo.

Những lời giảng dậy của Đức Giê-su trong trình thuật hôm nay rất thực tế. Lời giảng dậy của Người không hoa mỹ, không dưạ vào thuật hùng biện. Bất cứ ai nghe Người giảng dậy, đều phải xét mình và nhận ra thân phận yêú đuối và mỏng dòn của mình. Xét mình trước rồi chúng ta sẽ không còn dám xoi mói đời tư của nhau nữa. Bởi vì, có ai trong chúng ta đã hoàn thiên đâu! Tốt mặt này lại xấu mặt khác. Không ai là người hoàn hảo thì tại sao lại dám lên án nhau! Nói như thế không có nghĩa là chúng ta quên đi bổn phận hỗ trợ, giúp nhau cầu tiến, thăng hoa bản thân và sống sao cho tốt lành và thánh thiện hơn.

Chúng ta phải nhận ra một thưc tế là cái xà trong mắt mình lại không nhận ra, nhưng lại xét nét lôi ra cọng rác trong mắt tha nhân. Đây là một hiên tượng rất phổ thông và dễ bắt chước. Chúng ta nhìn ra các sai lỗi của người khác rất rõ, rồi vì thiếu bác ái và ghen tỵ nên chúng ta xét đoán và phê bình nhau. Thế là chúng ta đã mặc nhiên ngồi vào vị trí phân xử và phán xét của Thiên Chúa và tách mình ra khỏi cuộc sống của những người chung quanh rồi lên án anh em mình.

Và giả như, có đôi lần chúng ta nhìn thấy các sai lỗi của mình thì lại có muôn ngàn lý do để bào chữa, như: nào thế này, tại thế kia, rồi nào ai muốn nhưng vì thân phận con người yếu đuối nên mới ra nông nỗi này… Nói chung, trách nhiệm ta làm lại không dám nhận, học theo khuôn và lối hành xử giống như Adam và Eva, đổ thừa cho nhau, sau cùng mình là người lại đi đổ thừa cho con rắn. Từ hình ảnh của Thiên Chúa nay biến thành loài thú vật.

Truyện kể mà tôi nghe đuợc sau đây có thể minh họa cho lối sống xét nét và chỉ nhìn thấy sai lỗi của anh em, câu chuyện như sau: Có một tu sĩ thuộc về hội dòng chuyên về cầu nguyện và chiêm niệm. Vào một ngay kia, có một thầy trẻ tuổi đã phạm một lỗi nặng nào đó. Khổ một điều đây không phải là lỗi riêng tư, không ai biết. Trái lại, các thầy khác đều biết nên họ đã họp lại, lấy danh nghĩa xây dựng để giúp cho thầy dòng có lỗi nói trên. Nhưng càng nói thì các thầy lại càng thấy tội của ông này không thể chấp nhận được, cần được sửa dậy, nhưng không một ai trong nhóm các thầy có quyền đó. Cần có sự hiện diện của cha bề trên hay có thể gọi là Viện Phụ. Vì thế, họ sai người đi mời Viện phụ đến để tham dụ phiên họp sửa sai. Nhận đuợc lời yêu cầu, cha bề trên đến tham dự. Trước khi đi, ngài lấy một chiếc bao có nhiều lỗ thủng, rồi tự mình đổ cát lên đến miệng bao, đeo vào sau lưng rồi buớc đến chỗ họp. Cha đi đến đâu thì cát rơi vãi ra tới đó, rơi đầy dọc đường.

Các tu sĩ kia thấy như thế mới lên tiếng hỏi cha bề trên về ý nghĩa của việc ngài vừa làm. Cha từ tốn trả lời họ rằng: “Các sai phạm của tôi thì giống như hạt cát vừa rơi lại sau lưng trên đuờng tôi đến đây. Nào tôi có thấy nó đâu. Thế mà anh em lại bảo tôi ngồi xuống đây để kết tội người anh em mình, thì tôi nào dám. Nhưng vì nghe theo lời yêu câù của anh em, nên tôi đã đến!”

Nghe đến đó, các tu sĩ kia cảm thấy xấu hổ và nhận ra ý nghĩa việc làm của cha bề trên và không còn ai dám có ý định kết tội ông thầy trẻ tuổi kia nữa. Trái lại họ cùng ngồi lại hàn huyên và kể lại những trải nghiệm trong đời sống tu sĩ cho nhau nghe.

Câu chuyện nói trên minh họa cho lối sống phê phán mà Đức Giê-su thẳng thắn loại bỏ hôm nay. Người nói: hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Nếu không lấy cái xà ra thì mắt chúng ta vẫn bị mù thì làm sao nhìn rõ mà phán đoán người khác được; chưa nói đến việc có thể vì thù ghét và ghen tương mà chúng ta thường xuyên hạch tội người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ của mình.

Trong khi đó, Thiên Chúa biết rõ chúng ta hơn ta biết ta. Tội lỗi và sai phạm là một phần của cuộc sống. Nói một cách tích cực hơn là sai lỗi không làm chúng ta xa Chúa. Trái lại, qua đó chúng ta khám phá ra tình thương của Chúa vĩ đại và bao la hơn. Thân phận mỏng dòn và yêú đuối của con người là một cơ hội để nương tựa vào Chúa. Và chỉ có trong Chúa, chúng ta mới có thể đứng vững và trung thành cho đến hôm nay. Còn ngày mai ra sao, vẫn tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận hồng ân của chúng ta với Thiên Chúa.

Chính vì không nhận ra khuyết điểm của bản thân, không nhìn ra cái xà trong mắt mình nên chúng ta mới bị mù, thế mà còn dám làm thầy mà dẫn dắt người khác thì còn ra thể thống gì nữa. Trong khi đó, chúng ta đã có một ông thầy để chúng ta noi gương, đó chính là Đức Giê-su. Người không hề thất vọng về các sai phạm của chúng ta. Trái lại, Người luôn tìm mọi cách để hoán cải và mời gọi chúng ta trở về. Hành trình hoán cải và trở về này có thể kéo dài trong suốt cuộc sống. Có nghĩa là cuộc sống của chúng ta là một chuỗi ngày mà Chúa dùng để huấn luyện mình. Người quảng đại và ban ơn tha thứ cho các lỗi phạm của con người. Chính lòng thương xót của Người dành cho chúng ta lại trở thành dụng cụ để chúng ta thương xót và hướng dẫn người khác; bằng không chúng ta sẽ trở thành những người chỉ biết nói mà không biết làm, thậm chí việc làm của mình lại đi ngược với điều mà chúng ta nói.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thanh luyện tâm hồn, có nghĩa là tôi đã tự xét mình trước khi xét đoán anh em mình hay không? Xét mình để nhận ra rằng lời nói và hành động của tôi có được xuất phát từ trái tim yêu thương và nhân hậu của Đức Chúa hay không? Khi trả lời cho các vấn nạn nói trên là lúc chúng ta để cho sức mạnh và giá trị của Lời Chúa phán trong bài Tin Mừng hôm nay, tác động trên lối sống và cách đối xử với nhau bằng cõi lòng của Đức Chúa.  

Như thế đoán xét, phê bình và lên án không có chỗ đứng trong cuộc sống của người môn đệ. Trong Chúa, với Chúa chỉ có thiện hảo, chỉ có yêu thương và tha thứ làm gì có lên án hay đoán xét. Ước gì cuộc sống của chúng ta đươc xây dựng trên nền tảng của tha thứ và yêu thương của Đức Chúa. Vì chính Người là nguồn của suối yêu thương giúp chúng ta tha thứ, không đoán xét và lên án nhau nữa, Amen!

CẨM NANG HẠNH PHÚC

 

Bài Tin Mừng hôm nay là phần tiếp nối với các mối phúc của Đức Giê-su trong bài giảng trên đồng bằng trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca. Đối tượng trước tiên mà Thánh sử muốn gửi đến là các môn đệ, sau đó là cộng đoàn của Thánh sử và cho chúng ta ngày nay.

Giả như các mối phúc của Đức Giê-su mà chúng ta đã nghe vào Chúa Nhật tuần trước chưa đánh động hay làm cho chúng ta thay đổi lối sống thì hôm nay, qua những hướng dẫn cụ thể trong bài Tin Mừng, chúng ta được thúc đẩy để đi đến một lựa chọn trong cách xử sự đối với nhau và đặc biệt đối với kẻ đã làm tổn thương chúng ta.

Như chúng ta còn nhớ, đời sống của các tín hữu thuộc các cộng đoàn sơ khai bị bầm dập dưới ách thống trị của Đế Quốc Rô-ma. Của cải, danh tiếng và sinh mạng của họ hoàn toàn tuỳ thuộc vào những người linh đô hộ. Họ bị khước từ, bắt bớ, giam cầm và rất nhiều đã trải qua một cuộc sống rất cơ cực, nghèo đói, bị ngược đãi thậm chí còn bị giết chết.

Với một bối cảnh như thế, những lời giảng dậy cuả Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” không nhằm cổ võ cho sự tồn tại và phát triển của sự ác. Người cũng không khuyên họ và chúng ta chấp nhận hoàn cảnh với tinh thần bất bạo động. Người đứng ngoài những đấu tranh về chính trị hay đòi hỏi quyền lợi cho dân.

Thật ra, Khi Chúa Giêsu đưa ra lịnh truyền “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em,” và các việc làm cụ thể để diễn tả lòng yêu thương kẻ thù của chúng ta như: ai vả má phải thì đưa cho họ má trái, ai đoạt áo chòang thì cho luôn họ áo trong, ai xin thì hãy cho v.v., là lúc Người dẫn chúng ta đi vào phần sâu thẳm, trọng tâm của Tin Mừng. Chỉ có sức mạnh của Tin Mừng mới có thể lấp đầy khoảng trống giữa kẻ thù và chúng ta.

Tình yêu, lòng thương xót dành cho kẻ thù không giống như cách diễn tả tình cảm giữa những người thân trong gia đình, tình bạn, tình hàng xóm láng giềng của những người cùng chia sẻ hoạn nạn với nhau, hay là kiểu ‘phải lòng nhau – falling in love’ của những ai đã từng yêu. Nhưng yêu thương kẻ thù ở đây còn là sự cho đi chính bản thân trong cách hành xử ngược lại với cách cư xử mà họ đã làm cho chúng ta bị tổn thương. Điều quan trọng là mọi việc cần được diễn tả bằng hành động chứ không chỉ bằng kiểu nói xuông.

Thật ra, đây không phải là điều dễ làm. Nhưng khi hành xử được như thế là lúc chúng ta noi gương Đức Giê-su, Đấng suốt cuộc đời luôn tìm cách tha thứ và làm ơn cho những kẻ hại Người. Người đã để cho tên đầy tớ tát vào má Người, chịu những roi vọt và mão gai đâm vào mình; Người đã để cho người ta lột tất cả, từ áo ngoaì lẫn áo trong, và sau cùng giang tay trên Thập Giá như một tội nhân. Thê mà, trong giây phút sau cùng đó, Người đã không lên án, nhưng đã cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho những kẻ haị Người.

Tất cả những gì Người làm, tất cả những gì Người nói đều qui về một mối là chứng tỏ cho nhân loại thấy lòng thương xót và hay tha thứ của Thiên Chúa dành cho tất cả, không loại trừ một ai, bao gồm cả những ai thù ghét Người.

Bổn phận của chúng ta, những người con của Cha trên trời, là hãy làm cho thế gian đầy hận thù và ghen ghét này nhận ra quyền năng của Đấng đã và đang ban ơn cho tất cả mọi người, kể cả quân vô ơn và phường gian ác, đang hiện diện và hoạt đông trong bản thân mình.

Là chứng nhân của Đức Kitô, ta tin rằng Người đang sống trong ta. Chúng ta là hình ảnh sống động của Người. Và một khi chúng ta không có tấm lòng bao dung, không sẵn sàng tha thứ cho những ai đã làm tổn thương mình là lúc chúng ta làm mờ hình ảnh của Thiên Chúa nơi bản thân.

Làm thế nào mà chúng ta có thể thực hiện được những điều Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay đây? Chỉ có quyền năng và sức mạnh của Chúa mới giúp chúng ta đạt được nguyện ước này. Tha thứ cho người thân đã khó, tha thứ cho kẻ thù còn khó hơn gấp bội. Tuy nhiên, có những con người đã làm được điều ấy, biến hận thù thành lòng bao dung và thay đổi cả cuộc đời mình lẫn người khác. Chúng ta hãy noi gương họ.

Năm 1981, Đức Thánh Giáo Hoàng John Paul II bị một sát thủ tên Mehmet Ali Agca bắn trọng thương. Nhưng sau khi hồi phục, ngài đã làm một việc khiến cả thế giới kinh ngạc: ngài đến gặp Ali Agca trong tù và tha thứ cho ông ta.

Hình ảnh Đức Thánh Giáo Hoàng nắm chặt tay kẻ muốn giết mình trở thành một biểu tượng của sự bao dung và tha thứ. Còn hơn thế nữa. Sau này, nhờ sự can thiệp của ngài, Agca được đặc xá và trở về quê nhà với một cuộc đời mới.

Lại có một câu chuyện khác.

Nelson Mandela, cựu tổng thống Nam Phi, đã trải qua 27 năm trong tù vì cuộc đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid (A-pá-thai). Ở trong tù, ông bị đối xử vô cùng tàn nhẫn. Nhưng khi được thả, thay vì kêu gọi trả thù, ông chọn tha thứ.

Cựu Tổng Thống Mandela đã từng nói: “Khi tôi bước ra khỏi cánh cửa nhà tù, tôi biết rằng nếu tôi không bỏ lại nỗi oán hận, tôi vẫn sẽ bị giam cầm.”

Ông đã không chỉ tha thứ mà còn hợp tác với chính những kẻ từng đàn áp mình để xây dựng một Nam Phi hòa bình. Chính nhờ tấm lòng bao dung ấy mà ông đã giúp đất nước tránh khỏi một cuộc nội chiến đẫm máu.

Lại có gương sáng của những người rất thường như chúng ta.

Corrie ten Boom là một phụ nữ Hòa Lan. Trong Thế chiến II, gia đình cô đã che giấu những người Do Thái đang bị lùng bắt bởi quân đội Đức Quốc Xã. Chẳng bao lâu sau, việc làm của họ bị phát giác. Cô Corrie và người chị gái bị đưa vào trại tập trung. Tại đó, chị gái cô đã chết vì bị hành hạ.

Sau chiến tranh, Corrie trở thành một nhà truyền giáo, rao giảng về sự tha thứ. Một ngày nọ, cô gặp lại một cựu sĩ quan Đức Quốc Xã, người từng hành hạ chị gái mình. Ông ta đã trở lại và tin vào Chúa. Sau khi nghe cô thuyết giảng, ông đã tiến đến xin lỗi cô. Corrie kể rằng lúc đó lòng cô tràn đầy sự căm hận. Hình ảnh của những lần tra tấn, nhất là cái chết tức tưởi của chị cô hiện lên trong ký ức.

Cô không biết hành xử thế nào. Hít một hơi thật dài. Mắt nhìn lên trời cao. Miệng và tâm trí nhớ điều cô vừa nói. Và sau một giây phút lắng đọng tâm can và cầu nguyện, mắt cô nhìn thẳng vào mặt ông ta, còn đôi tay của cô giơ ra nắm lấy bàn tay của ông cựu sĩ quan mật vụ Đức Quốc xã đó rồi nói: "Tôi tha thứ cho ông."

Sau khi nói xong lời tha thứ đó, cô cảm thấy như một gánh nặng khổng lồ được cất khỏi trái tim. Hành động tha thứ không chỉ giải thoát người sĩ quan kia mà còn giải phóng chính cô khỏi xiềng xích của hận thù.

Còn ta thì sao? Nếu muốn sống lịnh truyền của Chúa và theo gương những người nói trên thì việc tha thứ - nhất là tha thứ cho kẻ thù, là điều chúng ta phải thực hiện. Đó chính là con đường dẫn chúng ta được hạnh phúc.

Cầu xin cho Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay được ứng nghiệm nơi cuộc sống của chúng ta, nhất là trong Năm Thánh hy vọng và tràn đầy sự tha thứ của Chúa, Amen!

 

Wednesday, 12 February 2025

HẠNH PHÚC THUỘC VỀ CHÚA


Cách đây vài tuần, trong Lễ đêm giao thừa mừng xuân Ất Tỵ, chúng ta đã nhận được phúc lành, thường được gọi là tám mối phúc thật của Chúa Giê-su mà Thánh Mat-thêu đã ghi chép trong bài giảng trên núi rồi truyền lại. Hôm nay, Thánh Lu-ca trong bài giảng trên đồng bằng đã trình bầy bốn mối phúc và bốn mối họa.

Tuy có sự khác biệt giữa hai bản văn; nhưng nói chung tất cả đều là giáo huấn của Đức Giê-su, do các Thánh sử biên soạn sao cho phù hợp với tình hình của các cộng đoàn do các ngài coi sóc, và dĩ nhiên những lời chúc phúc này cũng rất cần cho chúng ta nữa, và bốn mối họa mang tính răn đe và giáo huấn hơn là các lời chúc dữ!

 Như anh chị em đã biết, vào các thế kỷ đầu tiên, đời sống và các sinh hoạt tôn giáo của các tín hữu trong giai đoạn này gặp rất nhiều khó khăn. Họ bị khước từ, bắt bớ, giam cầm và rất nhiều người trong nhóm họ đã trải qua một cuộc sống rất cơ cực, nghèo đói, bị ngược đãi thậm chí còn bị giết chết. Và như vậy, nhìn thoáng qua chúng ta có thể cho rằng các mối phúc trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca dường như dành cho nhửng người nghèo khổ và bị bách hại vì Chúa như hoàn cảnh của họ. Còn bốn mối họa như những lời cảnh tỉnh dành cho những kẻ giầu có, ăn trên ngồi chốc, bóc lột dân chúng biết mà thay đổi.

Với những suy nghĩ như thế, chúng ta có thể cho rằng Chúa Giê-su có cái nhìn khác với chúng ta. Hình như Chúa đang binh vực và chúc phúc cho những người nghèo khổ còn những ai giầu có, cuộc sống sung túc và dư thừa lại là các mầm họa. Thật ra, điều mà Chúa Giê-su muốn nhắm đến chính là hạnh phúc đích thật không nằm ở sự giầu sang vật chất mà là ở trong sự gắn bó với Thiên Chúa.

Trong tinh thần đó, chúng ta hãy tìm xem đâu là hạnh phúc thật mà áp dụng.

Tuy cuộc sống của chúng ta đã khá hơn xưa, không còn bị chèn ép hay bị giết vì danh Đức Ki-tô một cách công khai nữa; nhưng con người ngày nay lại đi tìm và xây dựng hạnh phúc cho cuộc sống của mình khác xa với những yêu sách của Tin Mừng. Vì thế, giá trị các mối phúc của Đức Giê-su vẫn cần thiết. Và cũng chính vì lối tìm hạnh phúc của chúng ta khác với hạnh phúc Nước Trời nên chúng ta khó chấp nhận giáo huấn và những lời chúc phúc của Đức Giê-su cho nên mỗi khi nghe liền cảm thấy bị chói tai.

Nhìn vào thực tế, ai trong chúng ta lại không mong có nhiều của cải, ăn nên làm ra. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người nghèo khó”. Ai cũng mong cuộc sống bình an, thoải mái, không sợ bị theo dõi, bắt bớ. Thế mà Đức Giê-su lại nói: “Phúc cho các con khi bị bắt bớ”.

Vì thế, hạnh phúc đích thật vẫn chỉ là những ước mơ, mãi mãi là một khát vọng. Còn đau khổ lại chồng chất: Đau khổ vì nghèo đói, vì bệnh tật, vì chết chóc. Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè nặng.

Thật ra ai cũng biết rằng nghèo và khổ, đói và khát thường đi đôi với nhau. Sống trong cảnh nghèo, chúng ta mới thấy được các nỗi khó khăn. Và thật tâm mà nói thì không ai trong chúng ta cứ muốn sống mãi trong hoàn cảnh cơ cực như thế. Họ cần vươn lên, cố gắng vượt qua mọi gian nan để tìm cơ hội phát triển và khẳng định chính bản thân. Nhưng làm thế nào để vươn lên là cách ứng xử và lựa chọn của từng người.

Có người chọn các phương tiện bất chính, trái với lương tâm, thiếu đạo đức, thiếu công bằng … nói chung là họ sẵn sàng làm mọi sự để thoát khỏi cảnh nghèo. Và khi thoát khỏi cảnh cơ cực về mặt vật chất họ lại rơi vào một vũng lầy của tham lam, tư lợi và cuộc sống cũng chẳng được hạnh phúc. Đó không phải là cách lựa chọn đúng đắn.

Trái lại, nếu chúng ta biết chấp nhận cảnh nghèo, sống ngay thẳng và lương thiện rồi tìm cách vươn lên bằng các cố gắng của bản thân để bước đi từ những bước nhỏ nhất thì cho dù chúng ta không thành công, vẫn có thể thành nhân và được mọi người quí mến. Hạnh phúc là ở đó, không tùy thuộc vào cảnh sống nhưng bằng chính thái độ trong các hoàn cảnh của cuộc sống khiến cho các phúc lành của Thiên Chúa được biểu lộ trong cách sống của mình.

Nói như thế, chúng ta không coi thường người nghèo và ca tụng những người có của; bởi vì giàu có cũng không là điều tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Tiền của có thể mua cho họ đủ thứ, nhưng họ khó mua được hạnh phúc đích thật. Dựa vào một số thống kê mà chúng ta biết được con số những người giàu đi tìm cái chết để giải thoát những nỗi cô đơn, trạng thái trầm cảm đông hơn bọn dân nghèo mà biết chấp nhận. Đối với ai giầu có thì hạnh phúc đích thật vẫn còn là một ước mơ mà họ phải nỗ lực tìm kiếm.

Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái tâm, ở tâm hồn; hạnh phúc không hoàn toàn lệ thuộc vào vật chất hay của cải mà người đó làm ra. Như vậy, mối phúc thứ nhất có thể nói là mối phúc căn bản, bao gồm các mối phúc khác là “Phúc cho ai có tâm hồn hay tinh thần nghèo khó”.

Nhìn lại lịch sử cứu độ, chúng ta nhận thấy ‘người nghèo’ được Thiên Chúa quan tâm nhiều hơn. Vì trong cảnh nghèo, con người có thể dễ làm bạn với Thiên Chúa hơn. Theo truyền thống của Thánh Kinh thì những “người nghèo của Thiên Chúa” không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại.

Hơn thế nữa, căn cứ vào những lời giảng dậy của Đức Giêsu, chúng ta nhận ra rằng hoàn cảnh của “người nghèo của Thiên Chúa” là một cơ hội giúp họ nhận ra họ mới thật là người có phúc, là người may mắn, vì chính Thiên Chúa sẽ là hạnh phúc của họ.

Nói chung, các mối phúc thật xét về mặt nội dung thì cũng chỉ là mối phúc duy nhất: “Phúc cho những người sống tinh thần nghèo khó”. Và, chỉ có những người nào sống nghèo mới cảm nhận được sự cần thiết phải nương tựa vào Chúa như thế nào.

Thưa anh chị em,

Vì chúng ta, Đức Giê-su đã trở thành người nghèo nhất. Trong cảnh nghèo tột cùng đó, Người đã để cho quyền năng, sức mạnh và sự giầu có của Thiên Chúa được tỏ hiện. Như vậy, sau cùng các mối phúc hôm nay đều quy về một mối: Phúc cho ai có lối sống như Đức Giêsu.

Ước mong chúng ta có thể tuyên xưng hay nói với nhau rằng: những điều chúc phúc của Đức Giê-su trong các mối phúc thật mà tai chúng ta vừa nghe đã được ứng nghiệm trong cuộc sống của chúng mình. Một cách cụ thể, chúng ta được mời gọi sống bao dung, rộng lượng và chia sẻ hầu giúp đỡ những người cùng khốn. Muốn được như thế, chúng ta phải biết nương tựa vào Chúa hơn là vào tiền bạc và địa vị. Từ đó, chúng ta biết chấp nhận những đau khổ với lòng tín thác, vì biết rằng Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Sau cùng là sống đẹp lòng Chúa hơn là tìm kiếm danh vọng trần thế. Và như vậy, các mối phúc của Chúa Giê-su loan báo hôm nay không chỉ là những lời hứa hẹn cho tương lai mà còn là một lối sống của những ai cảm nhận được niềm vui và bình an đích thật ngay trong hiện tại.

Sau cùng, xin Chúa giúp chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Người, để dù giàu hay nghèo, vui hay buồn, chúng ta vẫn luôn tìm thấy hạnh phúc đích thực trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen!

Wednesday, 5 February 2025

CHÚA ƠI CON ĐÃ SẴN SÀNG

 Anh chị em thân mến,

Các bài đọc trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều mang chung một chủ đề là ơn gọi. Chúa là người gọi còn đáp trả hay không là quyền của mỗi người. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng thì việc đáp trả cũng là hồng ân được ban tặng. Bởi vì nếu không có tiếng gọi thì tai chúng ta nghe được những gì. Cho dù mỗi người có một quá khứ riêng, một con đường riêng, nhưng khi đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa thì chúng ta đều có chung một điểm, đó là ý thức thân phận yếu hèn tội lỗi của mình và khiêm tốn đáp trả bằng tất cả tấm lòng.

Cuối cùng tất cả đều tùy thuộc vào Thiên Chúa. Thật vậy, ơn gọi là một hồng ân nhưng cũng là một trách nhiệm. Thiên Chúa không chọn những người hoàn hảo, nhưng Ngài thanh luyện và biến đổi những ai sẵn sàng đáp lại lời mời gọi. Trong tinh thần đó, giờ đây, chúng ta hãy chiêm ngưỡng ơn gọi của ngôn sứ I-sa-ia, 2 Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, rồi rút ra bài học ơn gọi cho chính mình.

Trong bài đọc I, chúng ta thấy việc Chúa chọn và gọi I-sa-ia tham dự vào công việc của Ngài trong vai trò ngôn sứ. Việc trước tiên là trong thị kiến, I-sa-ia đã nhìn thấy Thiên Chúa uy linh thánh thiện. Vẻ uy linh và thánh thiện của Thiên Chúa không làm ông khiếp sợ. Trái lại, ánh sáng đó lại soi chiếu tâm can khiến ông nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng toàn năng Thánh Thiện, và cũng chính nguồn sáng đó đã giúp ông nhận ra thân phận tội lỗi, bất toàn và cần đuợc thanh tẩy của mình. Vì thế, sau khi miệng luỡi ông được thanh tẩy, ông đã nhận ra việc Chúa muốn dùng miệng lưỡi của ông để loan báo Lời của Ngài; và ông đã mau mắn đáp lại trong sự tin tưởng và đầy quyết tâm: “Này con đây, xin hãy sai con”. (Is 6,8)

Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến vai trò tông đồ của ông hoàn toàn phát sinh từ Chúa. Đó là điều ông đã nhận lãnh và giờ đây trao lại cho các tín hữu. Khi thi hành sứ mạng, Phao-lô đã gặp nhiều trở ngại, bị khước từ, bị bắt bớ, bị bỏ rơi và giam cầm. Nhưng không vì thế mà ông bỏ cuộc; bởi vì ông nhận ra rằng tất cả đều tuỳ thuộc vào ơn của Chúa như lời ông nói: “Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Đấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi”.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su gọi và chọn các môn đệ đầu tiên trong bối cảnh mẻ cá kỳ diệu nơi bờ biển. Bắt đầu là sáng kiến của Đức Giê-su. Người đang giảng dậy trên bờ bỗng nhiên lại muốn ra khơi; có lẽ vì thấy dân chúng tuôn đến quá đông nên Người đã chọn một không gian rộng lớn hơn để mọi người đều có thể nghe được lời giảng dậy của Người. Nhưng việc ở trên thuyền cũng là một sự sắp xếp thật lý thú của Thánh Sử Lu-ca. Không ở trên thuyền làm sao bắt được cá. Phải chăng thuyền là hình ảnh của Hội Thánh!

Sau khi giảng cho dân chúng nghe xong, Người lập tức yêu cầu Si-mon chèo thuyền ra xa để thả luới bắt cá và kết quả là một mẻ luới lạ lùng!

Có một chi tiết khá lý thú mà chúng ta nên lưu tâm.  Si-mon là người đánh cá chuyên nghiệp, tràn trề kinh nghiệm cho nên Si-mon biết là muốn bắt được cá thì cần phải thả luới ban đêm nên đã thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết” Qua lời phân trần này, Si-mon có ý ám chỉ là cả đêm đã vất vả mà không bắt được con nào, thì trời sáng rồi thì làm sao bắt được cá đây! Nhưng với kết quả của mẻ cá hôm nay đã khiến Si-mon và những ai hay dựa vào kinh nghiệm và tài năng của bản thân phải xấu hổ. Một cách thật nhẹ nhàng, Đức Giê-su đã khiến các ông nhận ra lối suy nghĩ và kinh nghiệm của Phê-rô hôm nay chỉ làm trò cuời cho ông mà thôi. Tuy nhiên, một điều đáng quí nơi Phê-rô, đó chính là thái độ vâng lời của ông, nên ông đã thưa với Chúa “nhưng vì Lời Thầy phán, con sẽ thả lưới”; kết quả là một mẻ lưới kỳ diệu.

Đứng trước việc kỳ diệu vừa xẩy ra trước mắt các ông. Si-mon, nhanh nhẩu và mau mắn nhận ra thân phận của mình. Ông biết rằng dựa vào kinh nghiệm và sức riêng khiến ông thấy mình tội lỗi, nên ông đã sụp lạy dưới chân Đức Giê-su và thưa: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”.

Lại một lần nữa, Đức Giê-su làm cho Si-mon thấy điều ông đang nghĩ lại sai nữa. Mẻ luới lạ lùng đã xẩy ra ngay lúc Simon Phê-rô nghĩ mình là người có tội. Tội không cản trở ơn phúc. Đức Giê-su đã thực hiện việc kỳ diệu ngay trong thân phận bất toàn của ông và các môn đệ. Tin Mừng là thế đó!

Thật vậy, giống như các kinh sư và các người thuộc nhóm Biệt phái khi xưa, chúng ta luống cuống khi tiếp xúc và cư xử với những ai có tội. Trong khi chúng ta xếp tội nhân vào loại người không xứng đáng thì Chúa lại có thái độ khác. Người luôn tạo cơ hội cho họ bắt đầu lại.

Thái độ của Đức Giê-su dành cho Si-mon Phê-rô trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Trong lúc Phê-sô đang bị mặc cảm tội lỗi dầy vò và dằn vặt khiến ông bất an và nhận ra mình thật bất xứng thì Chúa lại tìm cách lôi Phê-rô thoát khỏi những ý nghĩ tiêu cực đó. Người nói: “Đừng sợ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”.  

Đây là một điểm rất quan trọng: ơn gọi có thể đến ngay giữa cuộc sống thường ngày. Chúa không chỉ gọi các linh mục, tu sĩ, mà còn mời gọi mỗi người chúng ta theo Chúa ngay trong hoàn cảnh của mình – trong gia đình, công việc và xã hội.

Như các môn đệ và để đáp trả lời mời của Chúa, chúng ta cần đưa thuyền vào bờ, từ bỏ mọi sự, nhất là những suy tính dựa trên ý mình, quên đi quá khứ tội lỗi, mà đi theo Người.

Làm sao có thể từ bỏ tất cả để đi theo Người? Đây là việc làm đòi hỏi nhiều quyết tâm và cần thời gian. Không dễ dàng gì để từ bỏ. Điều khó nhất là có thể chúng ta từ bỏ đuợc nhiều điều lệ thuộc của cuộc sống mà lại không từ bỏ được chính mình, từ bỏ cách suy nghĩ cho mình là trung tâm và ngoài mình ra thì chẳng có ai làm đuợc gì hết!

Ta vẫn là ta, dù có hăng say hay thành công đến đâu đi chăng nữa thì muôn đời chúng ta vẫn chỉ là các môn đệ. Môn đệ không thể hơn chủ. Muốn sống, người môn đệ phải biết sống và nương tựa vào Chủ. Muốn đuợc như thế, cần tập sống từ bỏ và trở thành những kẻ nghèo nhất. Và với nếp sống nghèo thì việc tựa nương vào Chúa sẽ dễ dàng hơn. Thiên Chúa là nguồn năng lực duy nhất của người môn đệ. Hãy trông cậy, tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào Đấng đã kêu mời ta.

Thưa anh chị em,

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay loan báo một sứ điệp, đó là: Chúa gọi và chọn những người Chúa muốn. Mọi ơn gọi đều phát xuất từ tình thương của Người. Điều quan trọng, con người phải ý thức rằng: mình chẳng là gì trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa yêu thương và tuyển chọn. Phần còn lại, đó là sự đáp trả bằng cách đón nhận và làm giầu có tình thương của Thiên Chúa qua cuộc sống mình.

Thiết nghĩ, với ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được tất cả. Và những ai biết nương tựa vào Chúa thì chẳng bị bỏ rơi bao giờ. Vì thế, hãy sống nhờ Người, làm việc với Người và ở trong Người thì cuộc đời của chúng ta sẽ là mẻ cá lạ lùng của Thiên Chúa. Bởi vì, Chúa có thể không ban cho chúng ta điều mà chúng ta nguyện xin. Nhưng Người luôn có mặt khi chúng ta cần đến Người.

Lậy Chúa, xin hãy sai vì nay con đã sẵn sàng. Amen!