Tuesday, 29 August 2017

NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ








Sau lời tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô, Đức Giêsu lập tức nói cho Phêrô biết đó là hồng ân mà Thiên Chúa đã soi sáng để ông nhận biết Đức Giêsu là Chúa và là Con Thiên Chúa. Theo sau là việc Đức Giêsu bổ nhiệm và trao năng quyền cho Phêrô. Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi đuợc Chúa cho biết là Người phải đi lên Giêrusalem để chịu đau khổ và bị giết thì Phêrô lại ngăn cản. Lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị mình đau khổ. Vì thế, ông đã lên tiếng ngăn cản ý định của Thầy. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” 

Như chúng ta đã biết, Phêrô đuợc đặt làm tảng đá nền móng để Chúa xây Hội Thánh của Người. Chúa xây chứ không phải Phêrô, và Hội Thánh là của Chúa chứ không phải của Phêrô. Vì thế, các góc cạnh của tảng đá đó cũng cần đuợc mài dũa để trở thành chỗ dựa cho các thành phần trong Hội Thánh Chúa. Trong tinh thần đó, tôi hình dung ra cảnh Thánh Phêrô, sau khi nghe xong lời khiển trách của Đức Giêsu, Ngài chỉ gãi đầu gãi tai và thưa cùng Chúa rằng: Thầy biết con yêu mến Thầy, con đâu muốn Thầy chịu khổ! Còn Chúa vẫn kiên tâm trong việc huấn luyện khi đã chọn Phêrô làm đá tảng. Thế là hòa cả làng.

Giống Thánh Phêrô, khi nhận biết và tuyên xưng Đức Kitô là Chúa là lúc chúng ta đặt cuộc sống mình trong bàn tay của Chúa. Sư sống của chúng ta tùy thuộc vào Người, nghĩa là không còn sống cho mình nữa; nhưng chấp nhận lối sống từ bỏ. Bỏ mình, chấp nhận đau khổ, vác Thập giá để theo Thầy… tất cả những điều đó không còn là các điều kiện mà Chúa đòi hỏi các môn đệ; nhưng thật ra chính các yếu tố đó cấu tạo nên cuộc sống của môn đệ. Và một khi chúng ta không thực hành việc bỏ mình, tránh né đau khổ và không sẵn sàng vác Thập giá thì chúng ta không còn là môn đệ chân chính của Chúa.


Đến đây, xin thành thật chia sẻ với anh chị em rằng: Đã nhiều lần, tôi quyết tâm sống cụ thể Lời Chúa: “Từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa”, thì giống như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Anh đã không dám làm theo điều Chúa yêu cầu. Cho nên, thay vì anh cần từ bỏ mọi sự anh có để đi theo Chúa, thì anh lại từ bỏ Chúa mà ra đi trước cái nhìn thương tiếc của Người.

Các lời khuyên của Tin Mừng mà tôi đã cam kết sống vẫn chất vấn tôi; nhưng cụ thể, tôi vẫn chưa thực hiện đuợc bao nhiêu! Vẫn còn tham, còn dính bén, muốn đuợc làm chủ, chưa dám bỏ mình, ai chạm vào ý riêng, cái tôi (super-ego) của mình sẽ thấy ngay hậu quả!… Ai nói về thập giá bằng tôi! Nhưng, chưa hẳn đã dám vác. Giả như có chấp nhận vác thì cũng thật miễn cuỡng, thiếu cộng tác, v.v... Nhưng điều quan trọng mà tôi còn cảm nhận đuợc là tình yêu và sự kiên tâm của Thiên Chúa, Đấng vẫn chấp nhận và tiếp tục đồng hành với những bất tòan của tôi.

Từ bỏ không phải là bỏ mặc và coi thường mạng sống mình. Thật ra, từ bỏ chính mình vì yêu. Yêu Chúa không chỉ bằng lời nói hay hành động nhất thời; nó đòi hỏi chúng ta phải trung thành theo Chúa đến tận cùng của con đường Thập giá.

Từ bỏ là hy sinh. Hãy nhìn vào gương sáng của các bậc phụ huynh. Họ làm mọi sự để hỗ trợ cho con cái. Họ không chỉ đưa con đến trường, nhưng còn tham gia tất cả các sinh họat của nhà trường như: các trận thể thao, các chương trình âm nhạc, và gây quỹ. Họ tình nguyện phục vụ trong các ủy ban và các hoạt động khác của nhà trường. Họ tham dự các sinh họat của Hội Phụ Huynh và gặp gỡ Thầy Cô. Nói chung, các bậc làm cha làm mẹ muốn làm mọi thứ để có thể trở thành một phần trong các sinh họat của con họ. Họ làm như thế để nói cho những người con họ nhận biết rằng ba mẹ luôn đứng sau lưng, hỗ trợ cho các sinh họat tại nhà trường của con. Vì sao! Vì yêu con cái nên họ vui lòng chấp nhận hy sinh.

Đó không phải là việc dễ dàng. Nó đòi hỏi sự hy sinh thật cao cả và vĩ đại. Đôi khi, các bậc phụ huynh đã phải làm một chọn lựa thật khó khăn giữa nhu cầu riêng trong cuộc sống cá nhân mà họ muốn làm, và việc tham dự một sinh họat để hỗ trợ con cái.

Không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết tấm lòng của cha mẹ mình. Nếu có thì chỉ là tình yêu và tấm lòng hy sinh của các ngài.

Vẫn biết rằng “từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa” cấu tạo nên cuộc sống của người môn đệ. Nhưng tôi nhấn mạnh và đề cao đến tấm lòng của cha mẹ như một lời tri ân, nhân dịp mừng ‘ngày của các người cha (bố)’ hôm nay. Uớc mong, Chúa tiếp tục chúc phúc và hiện diện trong mọi cảnh huống của cuộc đời bố (ba) chúng con, để các ngài mãi mãi là chỗ dựa vững chắc cho người bạn đuờng và con cháu của các ngài. Happy Father’s Day.



Wednesday, 23 August 2017

CHẤT VẤN ĐỂ TÌM SỰ SỐNG!







Kinh Tin Kính thường được dùng trong các nghi thức truyền chức, khấn dòng hay thánh hiến tu sĩ. Điều này cho chúng ta biết rằng các tiến chức cần tuyên xưng niềm tin trước khi đón nhận sứ vụ của Hội Thánh hay của Dòng mình. Theo nghi thức, đó là việc cần làm. Tuy nhiên, trong thực tế cả đời họ có thể vẫn chưa hoàn thành đuợc tâm nguyện hay quyết tâm của ơn gọi mà họ lĩnh nhận trong ngày đó.


Đây là một kinh nghiệm. Khi còn trẻ, tôi thường ước mơ, muốn làm một vài việc hầu giúp cho bộ mặt cộng đoàn nơi mình sinh sống được thay đổi. Giờ này, ngồi nghĩ lại, tôi thấy mình thật ngu ngơ khi có ý tưởng ngộ nghĩnh này. Nhưng, nếu đặt mình trở lại với bối cảnh của những ngày đầu tiên trong hành trình tìm kiếm ơn gọi thì quả thật uớc mơ đó đã giúp đỡ và hâm nóng ý chí của tôi rất mạnh. Suy nghĩ của tôi tuy đơn giản, nhưng rất chủ quan như: Nếu mình đuợc huấn luyện, với ơn Chúa, sự cộng tác của cộng đòan giáo xứ… thì mình có thể làm đuợc?


Sau gần nửa đời người với mọi nỗ lực và cố gắng… tôi nhận ra rằng mình chưa làm đuợc gì hết… Vẫn như ngày đầu tiên… Tâm nguyện vẫn còn… Nhưng lực bất tòng tâm và đèn cũng sắp cạn hết dầu …



Từ những nhận xét và trải nghiệm của bản thân, tôi đọc lại trình thuật Tin Mừng. Hôm nay, Đức Giêsu đặt vấn nạn cho các tông đồ. Với bản tính bộc trực, nghĩ sao nói vậy, Thánh Phêrô đã tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Cho dù Thánh Phêrô vẫn chưa hiểu hết về Thầy mình; nhưng để có thể tuyên xưng như thế cũng là một hồng ân như Chúa nói: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc…”


Thánh nhân có biết mình đã nói gì hay không? Hay cũng như lúc ở trên núi Hiển Dung, khi đuợc diễm phúc nhìn thấy vinh quang sáng láng của Thầy, Phêrô đã xin điều mà chính ông ta không biết mình đã nói gì.


Sau phần tuyên tín là lúc Đức Giêsu bộc lộ con đuờng mà Con Thiên Chúa phải đi thì Thánh Phêrô đã ngăn cản Người. Lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Trên đường thuơng khó Phêrô đã chối Thầy đến 3 lần… Tuy nhiên, Phêrô cũng là người đã bộc lộ tình yêu và lòng mến dành cho Thầy… Thánh nhân cũng có nhiều tài năng để trở thành một môn đồ tốt, Ngài thẳng thắn, tự tin, chăm chỉ và nhất là lúc nào cũng muốn và trở thành một người bạn thiết nghĩa với Thầy mình.



Nói chung, Thánh Phêrô là một con người bộc trực, thẳng thắn, có sao nói vậy, không che đậy, không tính toán hơn thiệt như các bạn của ông tìm cách để ngoi lên chỗ cao hơn… Ông tự nhận mình là người tội lỗi… Chính vì thế mà Chúa lại tín nhiệm ông hơn. Những giới hạn của Thánh Phêrô chính là điều khiến ông trở nên gần gũi hơn với Đức Giêsu. Chính vì nhận ra mình còn khiếm khuyết và tội lỗi, nên Thánh nhân đã nhận ra sự lệ thuộc duy nhất mà ông cần nắm vững đó là Thầy mình: Chúa Giêsu.


Ông không tự mình là đá tảng. Chính Chúa làm ông trở thành đá tảng; và Chúa sẽ xây công trình của Người trên tảng đá ấy “anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” Như vậy, ‘tảng đá’ ấy sẽ trở nên vô hiệu nếu không lệ thuộc vào Chúa.


Thưa anh chị em,

Còn anh chị em nói Thầy là ai?

Chúng ta có thể có muôn vàn câu trả lời dựa trên sách vở và kiến thức về Đức Giêsu; nhưng tất cả những câu trả lời đó sẽ đem lại gì cho chúng ta. Hãy nhìn lại cuộc sống của mình.


Có thật chúng ta tin nhận Người là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Meisa, được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và mở lối chỉ đường cho chúng ta về với Cha hay không? Và, nếu đó là điều chúng ta tuyên xưng thì chính cuộc sống của mình cần được thể hiện sao cho phù hợp với điều mà chúng ta tuyên xưng hay chưa? Hay là chúng ta tin một đàng, sống một nẻo, làm như đời và đạo vẫn là hai mặt tách biệt của cuộc sống, không gắn bó và ăn nhập gì với nhau.


Đức Giêsu là ai?

Tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này không phải là việc dễ dàng. Có thể, trong suốt cuộc sống chúng ta cũng chỉ thấy mờ mờ mà thôi. Câu chuyện sau, xẩy ra mọi nơi, có thể giúp chúng ta phần nào. Truyện kể như sau:


Trong một lớp giáo lý, dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, ma-sơ mới hỏi các em: Còn các con nói Đức Giêsu là ai? Cả lớp nhao nhao, có cháu nói Người là Thiên Chúa, cháu khác lại nói là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa… v.v. Gom chung lại thì các cháu nói đúng như văn bản mà chúng ta tuyên xưng với nhau trong các Thánh Lễ Chúa Nhật: “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng.…”


Ma-sơ để ý thấy một bé trai ngồi ở góc lớp, im lặng, mắt nhìn ra cửa sổ, đăm đăm như có chuyện gì khó giải quyết. Sơ đến gần, chăm chú nhìn cháu rồi một lần nữa nhắc lại câu hỏi. Cháu thẫn thờ trả lời: Thưa sơ, con không biết! Con chỉ biết là hiện nay em con đang bị ốm, trong nhà không có tiền để mua thuốc. Ba con đóng quân ở một vùng rất xa. Mẹ đang chạy ngược chạy xuôi ngoài chợ… Nếu Đức Giêsu là Chúa thì sao Người không săn sóc cho em con.


Ma-sơ và cả lớp ngạc nhiên trước câu trả lời của bạn mình. Chẳng ai biết làm gì! Sau cùng, bà sơ nhà ta lấy ra một túi nhỏ, tự mình bỏ vào đó vài đồng cắc và chuyền túi đó cho cả lớp… rồi trao cho em để mua thuốc cho em mình.


Qua hành động và chứng từ như thế, chúng ta sẽ làm chứng Đức Giêsu là ai, không bằng văn tự, cho dù đó là bản tuyên xưng của Hội Thánh; nhưng đó chính là những trải nghiệm của cuộc sống. Người đến để mời gọi chúng ta hy sinh, quan tâm, yêu thương và thỏa mãn các nhu cầu của nhau. Chúng ta không tự mình có thể làm đuợc điều đó. Chúa mới là cội nguồn của sự việc. Chúa làm trong chúng ta. Chúa không làm thay vì Người đã ban và muốn dùng chúng ta như những dụng cụ, ‘đá tảng’ để thể hiện uy quyền của Người, không chỉ trong Hội Thánh Công giáo mà thôi, mà cho mọi người.




Vì thế, việc chọn Thánh Phêrô làm đá tảng là việc của Chúa. Thánh Phêrô biết rõ nhiệm vụ của mình, và nhiệm vụ đó chỉ còn hữu hiệu và hữu dụng khi biết lệ thuộc vào Chúa. Còn chúng ta, cũng đuợc mời gọi để làm đá tảng cho nhau, cho con cái, cho người thân và cho tất cả những ai muốn tìm chỗ dựa. Do đó, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng nên biết rằng tảng đá không do mình đặt; nhưng người đặt là Chúa. Nên việc lệ thuộc vào Chúa là việc quan trọng hàng đầu mà chúng ta cần làm. Có như thế, mình sẽ trở thành chỗ dựa vững chãi cho người khác, bằng không thì sụp đổ tan tành.

Cầu xin cho chúng ta nhận ra đuợc điều đó. Amen



Thursday, 17 August 2017

CUỘC GẶP GỠ KỲ DIỆU!




Tin Mừng hôm nay trình bầy Đức Giêsu lui vào miền Ty-rô và Si-đon để rao giảng. Hai miền đất này giáp giới với vùng đất của dân ngọai. Tại đây, Người gặp người đàn bà Ca-na-an và theo lời bà cầu xin, Người đã chữa lành cho con gái của bà.

Trình thuật này không chỉ nhấn mạnh đến quyền năng của Đức Giêsu; và cũng không chỉ đề cao niềm tin của người đàn bà Ca-na-an; mà còn làm nổi bật sứ mạng cứu độ muôn dân của Chúa. Hẳn anh chị em còn nhớ, trước khi về Trời, Đức Giêsu đã nói rõ ý định của Người qua việc truyền lệnh cho các Tông đồ làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,…Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 28:19-20) Do đó, trình thuật này có thể đóng vai trò tiên báo cho chúng ta biết ý định ban phát ơn cứu độ cho muôn dân của Thiên Chúa.

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Ca-na-an trong bài Tin mừng hôm nay quả thật kỳ diệu. Cả hai nhân vật trong trình thuật đều ‘khát khao’ tìm cách lấp đầy uớc muốn của nhau.


Đối với người đàn bà Ca-na-an.
Bà đã làm một hành động cách mạng mà ít ai dám làm. Vì là dân ngọai, cho dù bà không bị lệ thuộc bởi các tập tục và luật lệ của tiền nhân. Nhưng chắc bà đã được nghe hay đã biết về thân phận của Con Người mà bà sẽ cầu xin? Thế mà bà đã dám công khai đến gặp Đức Giêsu. Bà không còn nghĩ thêm đuợc điều gì, ngoài một việc duy nhất là tìm đến người sẽ chữa cho con bà khỏi bịnh. Chỉ có Tình yêu mới là động lực thúc đẩy bà vượt qua mọi trở ngại.

Hoàn cảnh của bà thật nghèo nàn. Bà cần giúp đỡ. Điều bà cầu xin nói lên tâm tư của một người mẹ, sẵn sàng làm tất cả mọi sự cho con mình. Cô con gái đó là nguồn vui, lẽ sống và là mọi sự của bà. Thế mà giờ đây, cô bị bịnh nan y, như bị quỉ ám. Bà cần làm tất cả cho con bà. Tình yêu, lòng thuơng xót của bà dành cho cô ta thúc đẩy bà vuợt qua mọi ranh giới.


Bà biết mình đâu có thể hưởng những đặc ân dành cho dân Is-ra-el. Tuy nhiên, trong lòng một cơn khát vô bờ bến. Bà muốn được cứu rỗi. Tuy phận là phận của người ngoại giáo, nhưng bà lại xưng hô với Đức Giêsu theo cách của người Do Thái thưa chuyện với Đức Mêsia, kêu cu rằng: “Lạy Ngài là Con vua Đa-vít”. Bà đã tôn thờ Đức Giêsu như người ta bái lạy Thiên Chúa. Niềm xác tín của bà thật vĩ đại, dù là chó con, bà cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn của chủ rơi xuống.


Còn Đức Giêsu?
Người đến để thi hành ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, với thân phận của một con người, Người cũng bị giới hạn về phong tục, địa dư, bối cảnh mà Người đã được sai đến. Người có được sai đến vẫn là cho dân Is-ra-el truớc hết.

Cho dù là như thế, chúng ta cũng không hài lòng về thái độ của Đức Giêsu. Người thinh lặng và xem ra coi thường lời van xin của người đàn bà Ca-na-an. Thật ra, không hẳn là như thế. Bởi vì, khi mô tả và trình bầy Đức Giêsu như thế, Thánh sử muốn đưa chúng ta đi từ ngạc nhiên, có thể gọi là bất đồng về thái độ của Chúa… Nhưng, khi gặp đuợc lòng kiên định và xác tín của bà; Chúa lại có cơ hội phá tung và quét sạch mọi cấm kỵ, mọi qui uớc, mọi lề luật do ‘tính bè phái’ của con người (nhỏ nhen, ích kỷ) tạo ra.

Quả thật cũng không sai khi chúng ta cho rằng nhờ vào lòng can đảm của người đàn bà ngọai giáo Ca-na-an này mà Đức Giêsu đã có cơ hội bộc lộ chân tuớng đích thật của Đấng Thiên Sai (Me-si-a); Đấng được sai đến không chỉ dành cho người Do Thái mà thôi. Người đến để đem nguồn vui và ơn cứu độ cho muôn dân.

Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, còn một nhóm người nữa. Họ là các môn đệ (có thể là mỗi người chúng ta). Chỉ vì quyền lợi riêng; không muốn bị quấy rầy; chỉ muốn được bình an (cho dù là giả tạo) nên họ mới can thiệp và xin Chúa thực hiện yêu cầu của bà ta để cho bà ấy đi (cho khuất mắt).

Khi nghe câu chuyện này, chúng ta dễ nhận ra thân phận mình trong thân phận của người đàn bà Ca-na-an. Cũng như bà, chúng ta chạy đến với Chúa để xin ơn, cho dù là ơn cứu độ. Nhưng, chúng ta đã tin Chúa như bà? Và thay vì xin cho nhu cầu của riêng mình; chúng ta có quảng đại trong lời cầu, xin cho những người được Chúa gửi đến trong vòng tay yêu thương của chúng ta hay chưa?

Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi để hoàn thành ý định của Thiên Chúa, Đấng đã trao ban cho chúng ta nguồn ơn cứu độ. Người còn khao khát muốn chúng ta rao truyền Tin Vui đó cho muôn dân.

Muốn đạt được nguyện ước này, chúng ta cần có một trái tim quảng đại và nhậy cảm trước các nhu cầu thể chất và tinh thần của tha nhân mà chúng ta thường gặp. Họ không chỉ là những người đồng đạo, cùng chia sẻ một tín ngưỡng, cùng chung một quan điểm với chúng ta. Thật ra, còn có nhiều người mà chúng ta liệt họ vào ‘phe khác’; nhưng họ lại có lối sống và niềm tin mãnh liệt hơn chúng ta. Họ xứng đáng đón nhận phần thực phẩm từ trên bàn của chủ, như chúng ta.  Nhưng, đã nhiều lần, chỉ vì óc bè phái, tinh thần thủ cựu, khư khư ôm giữ truyền thống và tục lệ mà chúng ta đã ngăn cản họ đồng bàn và cùng chia sẻ hồng ân với mình. Chúng ta còn tự nhốt mình vào pháo đài của giai cấp, địa vị rồi tự cao tự đại, kiêu căng cho rằng chỉ có mình mới là kẻ xứng đáng rồi khinh chê người khác. Thật ra, không ai trong chúng ta lại không có một chút ‘huyết thống’ với những người mà chúng ta gọi là dân ngọai. Thế mà lại lên vênh váo. Thật xứng đáng để suy nghĩ, như lời cảnh giác của Chúa: “Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. (Mt 15:7-9)

Hãy nhớ rằng: Lòng can đảm, sự hy sinh và niềm xác tín của người phụ nữ Ca-na-an hôm nay đã tạo nên một cơ hội mà Đức Giêsu đã dùng để bộc lộ Tình Thuơng phổ quát của Thiên Chúa. Cũng thế, những ‘lũ chó con’ mà chúng ta gặp trong cuộc sống không là những trở ngại, mà còn là cơ hội để chúng ta nhận ra sự phong phú của Thiên Chúa, Đấng không chỉ họat động nơi các kẻ tin mà còn âm thầm tác động nơi họ; để tất cả muôn dân đều được cứu độ.