Hình ảnh ‘người
chăn chiên’ đã được các ngôn sứ thời Cựu Ước dùng để ám chỉ đến các vị lãnh đạo
về phần đời cũng như trong đạo của người Do Thái. Khái niệm này đã bắt đầu xuất
hiện khi dân Do Thái bị lưu đầy bên Ba-by-lon. Đó là giai đoạn đau khổ. Họ mất đi
tất cả, sống lưu đầy và chịu nhiều khổ dịch như những con người nô lệ. Trong hoàn
cảnh cơ cực như thế, họ dành nhiều thời gian để ôn lại bàn tay của Thiên Chúa đã
thể hiện trong quá khứ và nhìn về tương lai với niềm hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ
giải thoát và đưa họ trở về cố hương.
Một trong những
khuôn mặt sáng giá xuất hiện trong thời lưu đầy, đó là ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Ngôn
sứ đã khơi lên niềm hy vọng cho dân bằng cách trình bầy Thiên Chúa là Người
chăn chiên tốt lành, là Mục tử nhân hậu, là Đấng dẫn đường để dẫn dắt đàn
chiên, tìm chỗ cho chiên ăn, dẫn lại về đàn các con chiên lạc đường và cứu
chiên thoát khỏi các cạm bẫy, các hiểm nguy của các thợ săn và thú dữ.
Trong bài đọc thứ
nhất hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã thẳng thắn nói ra những sai lầm của các
nhà lãnh đạo thời bấy giờ, đó chính là thay vì quy tụ, họ lại làm cho đàn chiên
bị phân tán; thay vì chăm sóc họ lại xâu xé đàn chiên! Nhưng Thiên Chúa vẫn là
chủ. Vì thế cho dù các vị lãnh đạo có sai lầm khiến cho đàn chiên của Chúa bị
tan tác. Sau cùng Ngài cũng qui tụ đàn chiên và trao vào tay một vị mục tử duy
nhất, từ dòng giống Đa-vít. Người được sai đến để cất đi các nỗi lo sợ rồi dắt họ
về đồng cỏ xanh tươi và đầy mầu mỡ.
Đức Giê-su trong
bài Tin Mừng hôm nay đã áp dụng cho chính Người một cách thật tự nhiên hình ảnh
vị Mục Tử mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo.
Kính thưa quí
ông bà và anh chị em.
Trình thuật trong
bài Tin Mừng tuy ngắn gọn nhưng diễn tả dung mạo của Đức Giê-su thật thân tình,
gần gũi và đầy tình người. Người cho chúng ta biết tâm tình của vị mục tử ấy. Đức
Giê-su không chỉ tin và trao cho các ông chia sẻ sứ mạng với Người; nhưng Đức
Giê-su còn dậy cho họ biết một điều sâu thẳm nữa là các ông chỉ có thể trao ban
cho người khác điều mà các ông phải nhận lãnh trước. Muốn lo cho người khác thì
trước tiên các ông cũng cần lo cho bản thân mình. Trong tâm tình yêu mến, với một
thái độ rất ân cần trong việc chăm sóc các Tông đồ, Người đã khuyên họ: “Anh em
hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Khi đưa cho họ lời
khuyên này, Đức Giê-su nói lên lòng quan tâm của Người đến toàn bộ con người của
người môn đệ hơn là công việc, Người muốn các ông noi gương Người khi yêu cầu họ
nghỉ ngơi. Cả các con nữa hãy dành những giây phút để lắng đọng tâm hồn, để múc
lấy nguồn năng lực rồi mới có thể trao ban. Có nghĩa là, muốn cho công việc rao
giảng được bền lâu các Tông đồ cần ý thức rằng nghỉ ngơi cũng là một phần của sứ
vụ. Trong giây phút đó họ không hưởng thụ, nhưng nạp thêm sức lực để công việc
phục vụ được hữu hiệu và lâu dài hơn.
Tuy ý định của Đức
Giê-su thật tốt, nhưng mọi nỗ lực, cố gắng để tìm một giây phút cho tâm hồn được
thư dãn và thân xác được nghỉ ngơi cũng không thực hiện được. Cùng với nhóm 12,
Đức Giê-su đã lên thuyền, nhưng đám đông dân chúng đã chạy đến trước nơi Thầy
trò sắp đến.
Trước cảnh tượng
đó, lòng dạ của Đức Giê-su rối bời. Người sững sờ nhìn họ. Những khuôn mặt mệt
nhọc, những bước chân lê thê trên đường tìm Người. Cảnh tượng trước mắt khiến
cho tâm hồn của Chúa bị rung động một cách mãnh liệt hơn. Người biết họ đang
khao khát điều gì. Người không thể bỏ rơi khiến họ phải bơ vơ và lạc bước. Với
tấm lòng của người mục tử, trái tim Chúa đau nhói vì đám đông theo Người như bầy
chiên không người chăn dắt. Người không thể để họ bơ vơ, cho nên đã tiếp tục dậy
dỗ họ.
Nhìn lại lịch sử
giáo hội, chúng ta thấy rất nhiều gương sáng của các đấng đã noi gương Đức
Giê-su, sẵn sàng hy sinh tất cả để ra đi phục vụ đàn chiên bị bỏ rơi, không người
chăm sóc.
Như trường hợp của
Cha Thánh An Phong. Trước tiên ngài là linh mục triều. Sau nhiều ngày tháng miệt
mài nhiệt tâm phục vụ tại các họ đạo khiến ngài bị kiệt sức. Vì thế bác sĩ buộc
ngài và các bạn đồng hành phải đi dưỡng sức tại Scala, thuộc xứ Naples. Vị trí
và phong cảnh của Scala thật trữ tình. Nó nằm trên một ngọn núi hướng ra mặt biển,
không khí thật trong lành. Quả là nơi lý tưởng để nghỉ ngơi.
Tuy nhiên, phong
cảnh trữ tình và không khí trong lành như thế cũng không quyến rũ được ngài.
Trái lại, chính những ngọn gió đó đã làm thay đổi đời ngài. Vì vừa đến nơi
Thánh An Phong đã nhận thấy những người nông dân, kẻ chăn chiên và dân chúng tại
Scala là những người bơ vơ, không ai đoái hoài, không ai quan tâm và chăm sóc
cho họ.
Quả thật, số
giáo sĩ tại vương quốc Naples lúc đó không thiếu. Dựa trên một bản thống kê
tương đối chính xác thì tại Naples có 130 giám mục, 56.000 linh mục triều, 31.000
nam tu sĩ bao gồm các cha và các thầy và 26.000 nữ tu. Với một con số đông như
thế, mà không một ai tình nguyện ra đi để lo cho họ hay giả như có ai được sai
đến thì cũng tìm cách khước từ. Họ chọn những nơi có những ‘con chiên béo’ để
làm thịt. Chắc hẳn thịt của những ‘con chiên béo’ này thơm và ngon hơn!
Như Đức Giê-su, thay
vì nghỉ ngơi và dưỡng sức, cha An-Phong và các bạn đồng hành lập tức mở lớp
giáo lý buổi tối tại tư gia để dậy dỗ và chuẩn bị cho họ lĩnh nhận các bí tích.
Nghe tiếng ngài, dân chúng thuộc các vùng lân cận lũ lượt kéo đến để nghe giảng
dậy. Qua kinh nghiệm này, ngài nhận rõ con đường phải đi nên đã sáng lập một
nhà dòng mà ngày nay chúng ta gọi là Dòng Chúa Cứu Thế, chuyên lo cho những người
bị bỏ rơi, bơ vơ không nơi nương tựa, những người nghèo khó.
Trong tinh thần
nói trên, xin mời anh chị em cùng nghe một kinh nghiệm.
Số là, cho đến
nay, tôi sống với các cha, các thầy trong cộng đoàn hưu dưỡng này cũng gần được
3 năm. Người ta nói đạt đến tuổi 70 đã là hiếm, nhưng tu sĩ nhỏ tuổi nhất trong
cộng đoàn này đã được 79, dĩ nhiên không kể đến tôi. Thời gian làm việc của các
ngài đã trôi qua. Mọi vinh dự và thử thách cũng là những chuyện của quá khứ. Hiện
nay, chúng tôi về đây để chuẩn bị cho bước nhẩy kế tiếp, bước nhẩy sau cùng để
san sẻ hào quang và ánh sáng Phục Sinh với Chúa. Vì thế, trong giai đoạn này,
anh em cố gắng tạo một bầu khí yêu thương, giúp nhau sống trong vui vẻ rồi hân
hoan nhẩy bước sau cùng này. Tinh thần và sự chăm sóc này cũng được nới rộng và
trải dài cho quí cha, quí thầy đang ở trong các nhà dưỡng lão.
Trong nhà dưỡng
lão, họ được chăm sóc rất cẩn thận, ân cần và đôi khi chuyên biệt hơn những người
bình thường. Nói chung, nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt.
Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời. Tuy
nhiên, không mấy người lại vui vẻ và chấp nhận sống trong môi trường đó. Ngày
ngày, họ trông mong sẽ có người đến thăm. Lúc nào sắc diện và khuôn mặt của họ cũng
trầm tư và suy nghĩ. Không biết ai sẽ đến thăm tôi hôm nay? Con trai hay con
gái? Hay là một đứa cháu nào đây? Nhưng ngày này qua ngày khác, vẫn không một
ai. Thật đau thương!
Chính vì biết
như vậy nên chúng tôi dành nhiều thời gian đến thăm anh em tại các nhà dưỡng
lão. Chúng tôi cố gắng làm tốt công tác này. Tuy là như thế, qua những lần viếng
thăm tôi mới nhận ra một điều là cho dù các cha, thầy được chăm sóc thật chu
đáo, nhưng dường như anh em vẫn khao khát điều gì đó mà các chuyên viên, dù tài
giỏi và ân cần trong việc chăm sóc cũng không đem lại cho họ được. Phải chăng đó
là tình gia đình, nghĩa huynh đệ của anh em cùng Dòng?
Giống như người
mục tử biết từng con chiên thì anh em có cùng một chí hướng, chia sẻ một hướng
đi, cùng chung một đặc sủng cũng biết về nhau nên sự quan tâm và hiện diện bên
nhau cũng đặc biệt hơn.
Vì thế, đừng cho
ai có cảm tưởng là họ đang sống bơ vơ, bị bỏ rơi và không ai quan tâm đến họ.
Tâm trạng của người bị bỏ rơi và bơ vơ là một trong những hình thức đau khổ nhất
mà con người phải gánh chịu. Đức Giê-su hôm nay bức xúc vì đám đông theo Người
như bị bỏ rơi, không ai chăm sóc nên Người đã hy sinh chuyện nghỉ ngơi để chăm
lo và dậy dỗ cho họ.
Từ trải nghiệm
nói trên, tôi chợt nhớ lại một san sẻ khác của một cha cố, tuy ngài đã khuất,
nhưng điều mà ngài nói vẫn lưu lại như sau: “Muốn công việc phục vụ người tất bạc,
bơ vơ, nghèo khổ được hữu hiệu, anh em chúng mình, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế
cần phải có con tim rung cảm, con tim bị bốc cháy bằng trái tim nhân hậu và rực
cháy lửa yêu mến của Chúa.” Và điều này cần được áp dụng cho anh em mình trước
tiên. Đừng bỏ rơi ai và đừng để ai bị bơ vơ!
Còn chúng ta thì
sao? Tôi không phải là Chúa. Tôi không thuộc về nhóm 12. Và tôi cũng chẳng phải
là Thánh An-Phong. Tôi không phải là cha, thầy hay một tu sĩ nào đó. Tôi chỉ là
một con người thật bình thường.
Đúng vậy, xin bạn
đừng lo! Bởi vì Chúa không đòi chúng ta trao ban hơn điều chúng ta có thể nhận
lĩnh. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng mọi chương trình mục vụ của chúng ta phải được xuất
phát từ lòng từ bi và nhân hậu của Đức Giê-su.
Vì thế, với niềm
vinh dự của người môn đệ, nhân danh Chúa chúng ta ra đi. Và, trước khi ra đi,
chúng ta hãy tập để đôi mắt của chúng ta nhận ra dấu chân của những con người đang
bơ vơ, lạc bước và không ai đoái hoài bằng đôi mắt từ bi, nhân hậu và luôn
thương xót của Chúa. Amen!
No comments:
Post a Comment