Monday, 31 March 2025

HÃY RA VỀ VÀ VUI SỐNG

 

Anh chị em thân mến,

Tiếp theo dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’, câu chuyện người đàn bà bị bắt quả tang đang ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nhằm đề cao lòng nhân hậu hay thương xót và luôn tha thứ của Thiên Chúa dành cho mọi người, đặc biệt đối với những người tội lỗi.

Câu chuyện này rất quen thuộc. Chúng ta đã nghe nhiều lần. Nhưng bài học và ý tưởng của câu chuyện có ảnh hưởng như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?

Truyện kể vào lúc Đức Giê-su ở trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Trong khi dân chúng tuôn đến nghe Người giảng dậy thì mấy ông kinh sư và những người thuộc phái Pha-ri-sêu lại đến kiếm chuyện. Họ dắt một người phụ nữ bị bắt quả tang đang ngoại tình đến để chất vấn về lối sống và giáo huấn của Đức Giê-su. Họ dùng tội của bà như một cái cớ để buộc tội Chúa. Bởi vì họ biết rằng Đức Giê-su luôn bênh vực và đứng về phía kẻ tội lỗi. Nếu Chúa tha cho bà thì Người không tuân theo luật lệ của tiền nhân. Theo luật thì bà phải bị ném đá cho đến chết. Còn giả như Đức Giê-su lên án tội của bà thì Người đi ngược lại với giáo huấn của Người. Chính vì thế, mục tiêu mà họ đến gặp Chúa không phải để xin chỉ dậy, nhưng họ đến để gài bẫy và tìm bằng chứng để tố cáo Người. Chúng ta hãy nghe họ nói: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người.”

Trước những lời cáo buộc của họ, Đức Giê-su đã im lặng, cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Sự im lặng mà Đức Giê-su thể hiện ở đây không có ý coi thường họ, cho bằng tạo một khoảng trống để họ nhìn lại những việc họ đã làm. Họ chỉ biết dán mắt vào luật mà không để ý đến hoàn cảnh cũng như các nguyên nhân, sâu thẳm bên trong cũng như bên ngoài, khiến bà có thể không còn tự chủ mà phải vi phạm vào điều mà chính bà biết rõ là sẽ dẫn bà đến cái chết! Có ai trong nhóm họ đã tự hỏi là họ có cần hy sinh một khoản luật để cứu bà ta hay là hy sinh người phụ nữ để giữ luật! Căn bản là họ thiếu lòng thuơng xót.

Đức Giê-su không nói bà này vô tội, nhưng bằng cái nhìn xót thương và tấm lòng nhân hậu, Người đã nhìn vào cả con người của bà. Bà bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Đó là chứng cớ hiển nhiên mà họ đưa ra trước mắt Người. Hãy để bà đứng yên đấy. Bà không đến nỗi hư hỏng như các ông nhìn thấy. Các ông hãy nhìn lại đời sống của các ông; có ai trong các ông thấy mình sạch tội thì đá ở đây, hãy cầm lấy mà ném vào bà này trước đi.

Khi phán như thế, Đức Giê-su tạo cơ hội giúp họ hồi tâm và nhận ra con người yếu đuối và tội lỗi của họ. Những câu hỏi có thể liệt kê như sau: Người phụ nữ có tội vì bị các ông bắt đang phạm tội ngoại tình, còn các ông thì sao? Người đàn ông đồng phạm với bà ấy đâu? Phải chăng các ông để cho ông ta chạy thoát? Hay đây là cái bẫy mà các ông đã cùng với người đàn ông đó giăng ra để làm cớ mà buộc tội bà ta? Lòng dạ các ông có ngay thẳng và chính trực như các ông thường tự phụ hay không? Hay là các ông ác ý, bàn mưu tính kế, để loại trừ những người mà các ông không ưa và để đạt được mục tiêu các ông có thể hy sinh những ai làm cản buớc đường danh vọng và vị trí mà các ông đang nắm giữ… Nếu các ông sạch tội thì ném đá bà ấy trước đi. Kết quả là kẻ trước người sau, trước tiên là những người lớn tuổi và sau cùng là mọi người đi hết bởi vì không ai là không có tội. Đó là một sự thật hiển nhiên mà nhiều khi chính chúng ta cũng hay bị quên.

Đối với người phụ nữ. Đức Giê-su khéo léo và tế nhị khi không đề cập đến quá khứ và hoàn cảnh hiện tại của chị. Họ đem chị đến trong lúc chị đang ngoại tình. Đó là chứng cớ mà họ tố cáo. Đức Giê-su không muốn tạo thêm áp lực làm tăng mặc cảm tội lỗi mà bà đang phải gánh chịu. Người khuyên bà đừng sống mãi với quá khứ. Quá khứ đã qua rồi. Hiện tại, Chúa Giê-su cũng không lên án bà và Người nói với bà hãy đi và kể từ nay đừng phạm tội nữa.

Theo Đức Giê-su thì tội lỗi và thánh thiện không là kết quả hay thước đo dựa trên lối sống và việc làm của con người. Con người chỉ khám phá ra sự thật của bản thân mình trong mối dây tương quan với Thiên Chúa. Sự Thánh Thiện của con nguời hoàn toàn dựa vào nguồn Thánh Thiện của Thiên Chúa. Và tội lỗi là việc cắt đứt hay gián đoạn mối tương quan giữa Thiên Chúa và mình.

Như vậy, qua bản văn Tin Mừng hôm nay chúng ta khám phá một cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su với kẻ có tội và những người tự nhận mình là người công chính… Tất cả đều nhận đuợc ơn. Những ai tự nhận mình là công chính, đang nắm giữ vai trò lãnh đạo cộng đoàn nhận được ơn là khám phá ra sự giới hạn của bản thân để thông cảm, bớt lên án và dễ dàng đến với tha nhân hơn. Còn ai có tội thì nhận đuợc tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa.

 Thưa anh chị em,

 Đó là bài học cho tất cả chúng ta, những ai đang nghe Lời Người hôm nay. Bài học về Lòng Thương Xót, về lòng khoan dung và hay tha thứ của Thiên Chúa đã xuất hiện từ khi tạo dựng. Cho dù con người có bất trung với Thiên Chúa và bất nghĩa đối với nhau như thế nào thì cũng không làm cản trở nguồn ơn tái tạo và đổi mới của Thiên Chúa vẫn âm thầm hoạt động trong con người.

Hãy quên đi các lỗi lầm của nhau. Chúa hiện diện để tái tạo một thế giới mới. Phán quyết của Chúa là sự tha thứ, không giam cầm tội nhân, không giữ họ bị mặc cảm qua các sai phạm của quá khứ mà giúp họ vững tin và vươn lên với niềm hy vọng, tin tưởng bước đi trong Chúa, tin nhau và tin vào chính khả năng đã được trao ban để tha thứ và nâng đỡ nhau mỗi khi bị té ngã. Và, chúng ta hãy nhớ rằng Chúa đang chờ ta, nâng ta dậy chứ Người không kết án chúng ta đâu.

Thật vậy, Đức Giê-su hiện diện để nâng và vực chúng ta dậy mỗi khi bị vấp ngã. Hãy đi và làm cho người khác được chỗi dậy như chúng ta đã được chỗi dậy bởi Chúa. Hãy thương xót, bộc lộ lòng nhân từ và luôn tha thứ nhau. Đó là cách thức duy nhất mà Chúa mời gọi chúng ta cùng nhau xây dựng trời mời đất mới ngay trong hoàn cảnh sống của chúng ta, không chỉ trong Mùa Chay này, mà là mọi ngày trong cuộc sống. Đó cũng là điều mà thế giới ngày nay đang thiếu hụt và trông chờ. Hãy bước đi và vui sống trong hồng ân, lòng thương xót và hay tha thứ của Chúa. Amen!

 

LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA

 

Lòng nhân hậu, sự bao dung và lòng thương xót của Thiên Chúa là các chủ đề chính trong dụ ngôn hôm nay. Tuy nhiên, lối hành xử và cách đón nhận của hai cậu con cũng đáng cho chúng ta phải lưu tâm.

Trước hết là truyện về người con thứ. Anh muốn tìm kiếm một lối sống trưởng thành và tự lập. Anh đến gặp cha và thưa rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.” Anh không tham lam, chỉ xin những gì thuộc về anh theo qui định mà thôi. Lời thỉnh nguyện này có ẩn ý là anh muốn tự lập.

Hậu quả của việc tìm kiếm để đạt được ước muốn sống tự lập đã dẫn anh đi vào ngõ cụt. Vì không có cha bên cạnh, không được cha dậy bảo nên anh đã tiêu pha hết tài sản một cách phung phí. Anh đã mất trớn, đi quá đà và trôi dạt vào những bến bờ vô định. Anh đã mất tất cả.

Thậm chí, môi trường mà anh đang sống cũng chống lại anh. Nạn đói trong vùng càng làm cho anh thêm túng quẫn. Hơn thế nữa, anh muốn công việc của một hạ nhân là chăn nuôi heo để có thể ăn mót phần thực phẩm của heo mà cũng không ai thèm cho. Mọi cánh cửa dường như đã khép lại. Và chính trong cảnh khốn cùng như thế anh bắt đầu hồi tâm và tìm cho mình một lối thoát.

Quá trình trở về được khởi đầu bằng việc nhìn lại chính mình: “Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ - He came to himself.” Nhìn lại chính mình không phải để trách móc hay than thân trách phận, nhưng là để đặt mình trong tương quan với cha và ôn lại các kỷ niệm khi còn ở nhà với cha; anh nhớ lại rằng ngay những kẻ ăn người ở trong nhà cũng có được một cuộc sống cơm dư gạo thừa, còn anh thì lại chết đói. Mái nhà xưa đã không đủ ấm cúng để giữ chân anh, thì giờ đây lại là mục đích mà anh hướng đến. Nếu trước đây ‘cái tôi’ đã làm anh mù quáng và sống trong mơ mộng và chỉ nghĩ đến tham vọng của bản thân, thì giờ đây nhờ việc anh đặt mình trong tương quan với cha anh và các thành viên khác trong gia đình đã giúp anh thay đổi. Sự thay đổi này được diễn tả không chỉ trong tư tưởng mà còn ở việc làm của anh nữa.

Anh khám phá rằng chính lúc mất tất cả, mất luôn quyền thừa tự lại là lúc anh cảm nhận được diễm phúc làm con, một người con chỉ mang nghĩa là người con đích thật khi anh biết sống nương tựa vào sự che chở của cha. Việc nhận ra sự thật này là điều căn bản giúp anh có được một chọn lựa chính đáng, đó là chọn sự sống hầu thoát khỏi cái chết. Anh cũng biết rằng quyền được làm con hoàn toàn tùy thuộc vào lòng thương xót của cha anh.

 Với những tâm tình này, anh con thứ đã dọn cho mình một lối về. Vì thế, chúng ta ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh người cha vội vã ra đón mừng anh, còn anh thì không! Anh không hề ngạc nhiên khi  thấy cha vui mừng chạy ra đón mừng anh, vì anh biết rằng niềm vui của cha cũng là niềm vui của chính anh. Qua sự biến đổi khi trở về tổ ấm, Thánh Luca đã gọi anh là ‘người con trưởng thành’, một cách nói để so sánh lối suy nghĩ và cách sống vẫn còn ‘trẻ con’ của người con cả.

Tôi cảm phục lòng can đảm kiếm tìm một lối sống của người con thứ. Anh đã thành thật và sống trọn vẹn với các suy tư của anh. Và khi đã mất tất cả thì anh lại tìm thấy điều quí giá nhất, đó là mối tương quan đích thật của tình cha con.

Hành trình nào lại không có những va chạm, đổ vỡ! Cuộc sống nào chẳng có thử thách! Con người nào lại chẳng có tội! ... Có lẽ các điều đó không quan trọng. Điều thiết yếu là chúng ta có đủ can đảm và dùng mọi cố gắng để tìm kiếm một lối thoát trong sự đổ vỡ đó hay không? Cứ can đảm tìm kiếm và thực hiện các dự tính của mình. Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng của Người vẫn đang chiếu soi trên các buớc chân của chúng ta.

Còn người cha thì sao?

Theo tôi nghĩ thì ông thuộc loại người giầu tình cảm, luôn rung động trước những nhu cầu của kẻ khác. Ông giáo dục con cái bằng cách chấp nhận các sáng kiến của họ, và luôn chờ đợi và chấp nhận các sai lầm của chúng bằng tấm lòng nhân hậu và khoan dung để qua đó có thể giúp cho con cái cảm nhận được tình thương của ông và cũng là cơ hội giúp cho con cái được trưởng thành hơn qua các kinh nghiệm đau thương mà chúng đã trải qua.

Với tâm tình ấy, từ ngày con ông bỏ đi, ông hằng mong cậu trở về. Ông đau khổ đêm ngày mỗi khi tưởng nhớ đến cậu. Chính vì thế, khi cậu còn ở đàng xa - hình dáng của cậu lúc này có lẽ khác trước: gầy còm vì thiếu ăn, tiều tụy vì lo lắng; thế mà ông vẫn nhận ra con của mình. Niềm đau buồn thương nhớ nay biến thành niềm hạnh phúc. Điều này được diễn tả bằng các chi tiết vô cùng sống động mà ít người cha nào có thể thực hiện được. Ông chạy ra, ôm chầm lấy con, hôn lấy hôn để. Thái độ của ông được xem như là một ngoại lệ, không phù hợp với tập tục của người phương Đông thời bấy giờ. Tuy nhiên, qua việc xử sự như thế, người cha đã biểu lộ một cách mãnh liệt tình thương mà ông hằng ôm ấp đối với con ông. Qua ánh mắt, cả hai đều cảm nhận được những đau khổ chồng chất, và những thay đổi trong cuộc sống từ ngày hai cha con họ xa nhau. Hơn nữa, thái độ của ông - chạy, ôm cổ, hôn lấy hôn để - còn diễn tả tâm tình của một người mẹ.

Tình thương và sự vui mừng đã đạt đến cao điểm khi ông cắt đứt dự định thú tội của người con thứ khi cậu muốn được đối xử như người tôi tớ trong nhà mà thôi. Ông không cho cậu có cơ hội nói lên điều đó. Bởi vì, dù quá khứ của cậu có xấu xa đến đâu chăng nữa, nhưng bây giờ, trong giây phút này, trước mặt ông, trong lòng ông cậu vẫn là con trong nhà; mà đã làm con thì không bao giờ được coi như kẻ làm công, ông không cho phép cậu tự hạ mình xuống hàng tôi đòi, vì như thế tức là xúc phạm đến tình cha con. Con muôn đời vẫn là con yêu quí của cha. Hãy quên đi quá khứ của mình mà mặc lấy con người mới. Quyền thừa kế và vinh dự cũng được trao lại cho con. Con đừng để các mặc cảm tội lỗi dầy vò cuộc sống mà hãy vui với niềm vui của cha. Hai cha con đã thông chia cùng một tâm tình khi họ xa nhau, tình trạng này được gọi là ‘tâm linh tương thông’. Đã như vậy, thì giờ đây cha con chúng mình hãy bước vào để dự tiệc vui, tiệc đoàn tụ nói lên sự hiệp nhất và yêu thương của gia đình mình. Bởi vì, theo cha, từ ngày con rời nhà ra đi thì trong gia đình của chúng mình có một khoảng trống mà không ai có thể bù đắp được, ngoại trừ con. Giờ đây, con đã tìm về sự sống với gia đình. Vậy chúng ta phải hân hoan và ăn mừng chứ. Tiệc vui đã dọn sẵn.

Đến phiên ông con cả?

Người con cả lúc này đang ở ngoài đồng, lo việc cho Cha. Khi về gần đến nhà, anh chẳng thèm bước vào để hỏi cha xem chuyện gì đã xẩy ra mà nhà này lại vui như thế. Anh còn thua cả người giúp việc nữa, bởi vì tuy là kẻ tôi đòi, nhưng họ cũng nhận được niềm vui của ông chủ khi nghe ông báo rằng: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe.” Điều này, có nghĩa là phần chúng tôi đây, cho dù phận làm tôi, nhưng cũng được thông phần vào sự vui mừng với ông chủ qua việc chuẩn bị tiệc vui này cho thật chu đáo. Mọi người đều vui.

Người con cả đã được báo tin vui. Nhưng phản ứng của anh thì khác. Anh nổi giận, không tiếp nhận tin vui; trái lại còn biểu lộ sự bất mãn bằng cách tiếp tục đứng lỳ bên ngoài.

Người cha bước ra năn nỉ mà người anh cả vẫn không nhận ra được nỗi lòng của cha. Trái lại, anh còn kể lể công lao, phân bì, ghen tương, lên án và đặt điều nói xấu cậu em qua lời hờn dỗi sau đây: Cha coi, con hầu hạ cha suốt cuộc đời, chưa bao giờ có ý định hay phản kháng lại ý cha, thế mà đã bao giờ cha cho phép con đuợc tổ chức tiệc mừng với bạn bè chưa? Rõ khổ, người cha bị anh loại bỏ trắng trợn; vị trí của mấy ông bạn còn cao trọng hơn mối tương quan với cha. Rồi anh tiếp tục: còn thằng con của cha cho đến nay, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm; nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Không biết ông anh cả lấy chi tiết này ở đâu mà dám tăng thêm tội cho em mình là phung phí tài sản với các cô gái như thế hay là cậu cả nhà mình lại gán cho cậu em điều mà cậu cả hằng mơ uớc!

Cậu cả muốn nghĩ sao cũng được, vấn đề ở đây là việc ông cha mời cậu cả cùng chung chia niềm vui gia đình với ông; vì dù thế nào cậu vẫn là một thành viên trong gia đình này.

Công việc hầu hạ và không dám trái lịnh cha của người con cả là một điều tốt. Nhưng các việc anh làm lại không đem lại ích lợi gì cho anh vì anh làm trong tư thế của kẻ làm công. Anh làm để mong được thưởng và chia sẻ phần thưởng đó với bạn bè, chứ không phải với cha anh. Anh tuy sống trong nhà, nhưng thật ra con tim và lối sống của anh đã không thuộc về gia đình nữa, anh đã thoát ly và đi xa hơn người em. Anh đã đánh mất tình cha con, và tình anh em cũng không còn. Vì thế, khi nghe người cha nhắc đến cậu con thứ, anh liền lên tiếng xác nhận ngay ‘đó là thằng con của cha, có nghĩa là nó là con cha mà không phải là em con.’ Tuy ở chung một nhà, thế mà có bao giờ anh đã nhận ra sự đau khổ của cha khi mất cậu em. Riêng cậu cả đã coi như em mình đã chết tính từ ngày em cậu rời nhà ra đi.

Người con cả trong trình thuật là thế đó. Dường như dòng máu của người anh vẫn chảy trong thân xác của chúng ta, nên lối hành sử của chúng ta có nhiều điểm giống như anh con cả! Như anh con cả, chúng ta có thể đang là những người giữ luật nhưng chưa sống đạo, nhất là chưa cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mình cho nên chưa biết vui mừng khi người khác hoán cải trở vể và được Chúa xót thương.

Sau cùng, cao điểm và trọng tâm của dụ ngôn vẫn là cách sống và lối xử sự của người cha. Ông là hình ảnh tuyệt diệu của lòng nhân ái, tình yêu thương của Thiên Chúa. Ông yêu thương và tôn trọng các con theo cá tính khác biệt của mỗi người con. Ông hiểu và thông cảm các tính tốt cũng như tật xấu của mỗi người con. Chúng được ông yêu thương bằng nhau.

Đối với ông, cuộc sống của họ thật đáng quí trọng. Vì thế, một lần nữa, ông bước ra để xác nhận với người con cả, mang quyền thừa tự rằng “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha (tiền tài, vinh dự, niềm vui, nỗi buồn... cuộc sống của cha) đều là của con.”

Bài học dành cho chúng ta hôm nay là tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn là điều tuyệt hảo nhất mà chúng ta cần có kinh nghiệm. Tình yêu này chúng ta đã không xin mà có, vì thế hãy hân hoan đón nhận và chia sẻ niềm vui được ơn trở về nhà Cha cho nhau. Amen!

 

 

Thursday, 20 March 2025

THƯƠNG XÓT: CÁNH CỬA CỦA SÁM HỐI

 


Truyền thống của người Do Thái dưới thời Chúa Giê-su cho rằng chiến tranh, tai ương là hậu quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân nói riêng và của cộng đồng nói chung. Vẫn biết quan niệm của người Do Thái là như thế, nhưng có một sự thật mà chúng ta không thể chối cãi, đó là lòng tham, tính hận thù, hành vi bạo lực, ích kỷ và những hành vi tác hại như thế có thể là hậu quả gián tiếp của tội lỗi! Bởi vì khi con người xa rời Thiên Chúa, họ dễ gây ra những bất công, bạo lực và chiến tranh.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bác bỏ quan niệm này và hướng con người đến sự hoán cải nội tâm. Đức Giê-su còn nhìn ra thâm ý của họ khi đến kể lại cho Người nghe biến cố mới xẩy ra cho người Ga-li-lê. Họ muốn xem thái độ và cách hành xử của Đức Giê-su trước những biến cố thời sự đang xẩy ra như thế nào?

Vì thế, việc đầu tiên mà chúng ta cần làm là hãy đặt biến cố mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay vào hoàn cảnh và môi trường chính trị thời Đức Giê-su đang sống. Thánh Lu-ca tường thuật là máu của họ hoà lẫn với máu của các con vật mà họ dùng để tế lễ. Chi tiết này cho chúng ta biết những người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết hại hôm nay là những người đang tham dự các nghi thức phụng vụ tai đền thờ. Họ có thể là thành phần của một nhóm yêu nước muốn nổi dậy để đòi quyền tự chủ hay là những người dân vô tội đã vô tình xuất hiện ngay vào lúc có cơn càn quét các nhóm chống đối chính quyền Rô-ma. Vậy nếu Đức Giê-su binh vực họ thì Người sẽ chống lại quân lính của Phi-la-tô và khuyến khích họ đi vào những cuộc nổi dậy không lối thoát. Ngược lại, nếu đồng ý với cách cư xử tàn ác của Phi-la-tô thì Đức Giê-su xem ra lại đứng về phe của những kẻ có thế lực đang dầy xéo và tạo nên bao nhiêu cảnh lầm than cho dân chúng.

Đức Giê-su xác định rõ lập trường của Người, đó là Người đến để thi hành ý muốn của Chúa Cha là ban ơn cứu độ, giải thoát con người khỏi căn nguyên của tội lỗi. Vì thế, Người đã không để cho bất cứ một tham vọng chính trị nào ảnh hướng trên sứ vụ của Người.

Đức Giê-su đã vặn lại bằng cách hỏi họ rằng “các ông tưởng những người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?” Qua cách đặt vấn đề như thế, Đức Giê-su muốn lôi họ ra thoát khỏi quan niệm của họ khi cho rằng tai hoạ là hình phạt của Thiên Chúa giáng xuống kẻ có tội.

Thưa anh chị em,

Thật ra, không hẳn là như thế. Anh chị em còn nhớ trong phép lạ chữa người mù từ thủa mới sinh, các môn đệ đã lập luận với Thầy mình về tình trạng của người mù. Anh đã làm gì nên tội mà bị mù ngay từ lúc vừa chào đời; và nếu án phạt là hậu quả của tội lỗi thì việc anh bị mù là tội của ai? Đức Giê-su đã trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội (mà anh bị mù). Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ thấy quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

Theo Đức Giê-su thì tai hoạ không phải là hậu quả trực tiếp của tội lỗi; vì thế Người mới nói thêm về số phận của những người bị tháp Si-lô-ác đè chết, họ cũng không phải là những người mang tội nặng hơn những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem đâu! Tương tự như thế, không lẽ ngày nay có ai trong chúng ta dám nói rằng những nạn nhân đã chết trong các cuộc chiến hay do thiên tai lại là những người có tội hơn chúng ta hay sao!

Sau đó, Đức Giê-su đã khuyến cáo họ, lời khuyến cáo này rất khẩn thiết và quan trọng vì trong một đoạn văn rất ngắn mà Thánh sử đã lập lại hai lần, Đức Giê-su phán rằng “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” có nghĩa là số phận của họ không giống như các ông nghĩ là do tội của họ mà ra. Người tiếp tục “… nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy.”

Như vậy lời khuyến cáo của Đức Giê-su là lời mời gọi chúng ta hãy sám hối.

Đây cũng không phải là điều gì mới mẻ. Ngay từ lúc khai mạc sứ vụ Đức Giê-su đã phán “hãy hối cải và Tin vào Tin Mừng.” Hối cải không chỉ là một lịnh truyền cần được nhắc đi nhắc lại từng giây từng phút trong cuộc sống của người môn đệ mà thôi; nó còn là một sự chọn lựa bộc lộ bằng hành động của mình. Muốn hối cải, con người cần trở về với chính mình để nhận ra tình thương của Chúa hoạt động trong chúng ta mãnh liệt dường bao. Và nếu chúng ta không biết hối cải thì cho dù còn sống nhưng thật ra đã chết!  

Việc hối cải không chỉ là nỗ lực riêng của con người; nhưng phát sinh từ Thiên Chúa, Đấng trung tín với sự bất trung và bội tín của con người. Ngài luôn kiên tâm và chờ đợi con người như ý nghĩa trong dụ ngôn cây vả mà chúng ta nghe hôm nay. Người làm vườn đầy tình thương và chờ đợi để nó sinh hoa trái như lời ông ta năn nỉ ‘Thưa ông chủ, xin cứ để nó lại năm nay nữa.’ Còn tình thương và lòng quảng đại nào vĩ đại hơn điều chúng ta vừa nghe. Đã bao nhiêu lần ‘xin cứ để’, và bao nhiêu thời hạn ‘một năm’ đã trôi qua; Chúa vẫn lặng thinh, âm thầm và chờ đợi con người mở lòng ra để đón nhận lòng thương xót của Ngài.

Suy niệm tới đây, tôi nhớ đến một truyện ngắn đã xẩy ra trong cuộc đời của Vua Na-po-le-on, vị hoàng đế vĩ đại một thời của nước Pháp. Khi mang trách vụ Tổng chỉ huy quân đội, Đại đế Na-po-le-on đã công bố một điều luật là nếu ai vắng mặt không có phép mà bị bắt thì sẽ bị xử tử vào giờ ăn sáng của ngày hôm sau.

Có một chú lính kia, mới 17 tuổi, đã chứng kiến các bạn đồng đội bị bắn khi vi phạm khoản luật nói trên. Vì quá sợ hãi, cậu chạy trốn; không may cho cậu là trốn không thoát nên số phận của cậu cũng sẽ bị định đoạt trong bữa ăn sáng của ngày kế tiếp.

Có một sự việc xẩy ra rất tình cờ, đó là cậu này lại là con trai bà bếp của nhà vua. Bà xin gặp và van xin lòng thương xót của vua. Sau khi nghe lời van xin thống thiết của bà mẹ; Vua Napoleon vẫn giữ ý định của mình và đuổi bà ra khỏi dinh. Trước khi đuổi bà đi, Vua phán “Bà hay đi, vì con bà không xứng đáng đón nhận lòng thương xót cuả tôi.” Khi nghe như thế, người phụ nữ mới đáp lại: “Thưa Vua, Ngài nói chí phải. Con của tôi không xứng đáng đón nhận lòng thương xót của Ngài. Bởi vì, nếu nó xứng đáng, thì Lòng Thương Xót không còn mang đặc tính của Lòng Thương xót được ban tặng nhưng không cho những ai không xứng đáng đón nhận nữa.” Nghe đến đó, nhà Vua ngồi trầm ngâm suy nghĩ…

Truyện không có đoạn kết. Đó là điều mà chúng ta cần khám phá và thực thi trong cuộc sống và trong mối tương quan của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Như vậy, trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay không chỉ cảnh báo chúng ta về hậu quả của tội lỗi, mà còn nhấn mạnh đến lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa chờ đợi con người hoán cải, như người làm vườn xin chủ nhân cho cây vả thêm một cơ hội.

Vì thế, tuy chúng ta bất xứng thế mà Chúa vẫn yêu thương, kiên tâm chờ đợi, tìm mọi cách thế để kéo chúng ta trở về nguồn suối yêu thương phát sinh từ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Vậy còn chần chờ gì nữa, hãy trở về để đón nhận tình yêu, sự tha thứ của Thiên Chúa mà chia sẻ, thứ tha và trao cho nhau điều mà chúng ta đã nhận lĩnh. Amen!

Wednesday, 12 March 2025

HIỂN DUNG: GẶP CHÚA ĐỂ ĐI TIẾP.

 

Anh chị em thân mến,

Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể lại biến cố Chúa Giê-su tỏ vinh quang cho các môn đệ. Cho dẫu là một con người nhưng Đức Giê-su còn ý thức Người là Con Thiên Chúa, là Đức Mesia, được Thiên Chúa sai đến để chu toàn ý của Thiên Chúa. Và ý của Thiên Chúa muốn Chúa Giê-su thực hiện là hy sinh để cứu độ muôn người. Vì thế, biến cố Hiển Dung hôm nay thật quan trọng. Nó được coi như ‘trình thuật bản lề’ trong hành trình sứ mạng của Đức Giê-su. Biến cố này chấm dứt giai đoạn rao giảng của Đức Giê-su tại Ga-li-lê và mở ra con đường lên Giê-ru-sa-lem của Chúa.

Tại Giê-ru-sa-lem Chúa sẽ bị chối từ, bị đánh đập và cuối cùng bị chết. Đó là điều mà các môn đệ không thể chấp nhận được việc Thầy mình đi vào ngõ cụt. Vì thế, các ông đã lên tiếng ngăn cản Thầy lên Giê-ru sa lem để chịu thống khổ và bị chết. Nhưng các ông có biết đâu rằng quan niệm của các ông về vai trò của Đấng Mesia sai với ý của Thiên Chúa. Các môn đệ nghĩ rằng vai trò của Đấng Mesia là giải thoát dân khỏi ách nô lệ của đế quốc Roma cho nên các ông đã không nhận ra ý của Thiên Chúa muốn Thầy mình phải vượt qua: Đó là phải vượt qua đau khổ mới được vinh quang.

Vì thế, hôm nay qua biến cố hiển dung, Đức Giê-su đã hé mở cho các ông nhìn thấy trước vinh quang Phục sinh mà Người sẽ đón nhận từ tay Thiên Chúa để các ông đủ sức chấp nhận và đồng hành với Người trên con đường khổ nạn và chết đi trên Giê-ru-sa lem.

Sau này, biến cố hiển dung của Đức Giê-su còn đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình đức tin và đời sống của các tín hữu thuộc về các cộng đoàn tiên khởi và chúng ta ngày hôm nay. Quả thật, chúng ta không nên quên thực trạng đời sống của các tín hữu thời sơ khai. Họ đã để lại cho chúng ta một mẫu gương gắn bó với Đức Giê-su và với nhau. Cho dù họ bị chối từ, bị coi thường, bị theo dõi, bị săn lùng và thậm chí bị giết chết; nhưng vẫn quyết tâm và thành tín để trao đổi cho nhau qua việc chia sẻ và nói về Đức Giê-su. Trong số những san sẻ đó có chuyện tích hiển dung hôm nay.

Khi nói về biến cố này, họ đã cảm nghiệm có một sự thay đổi nơi con nguời của họ. Ánh vinh quang cuả Thiên Chúa đã chiếu toả để cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi các tín hữu được rõ ràng hơn. Một con người có Chúa là như thế, dung mạo sẽ toát lên một sức mạnh mà chỉ có nhưng ai ở trong Chúa mới có được. Sự hiện diện của Thiên Chúa là thế!

Như vậy, biến cố hiển dung của Đức Giê-su không chỉ nâng đỡ và hỗ trợ cho các môn đệ đủ can đảm đối diện với các thử thách và đau khổ trong khi thi hành sứ vụ; nó còn chất chứa một lời mời gọi tất cả những ai tin vào Chúa là hãy sẵn sàng tham dự vào những gì mà Đức Giê-su đã thực hiện trong cuộc sống. Chúng ta không được phép thụ hưởng, cho dù đó là những giây phút tuyệt diệu nói lên mối dây thân tình giữa ta và Chúa.

Các kinh nghiệm mật thiết đó không làm chúng ta quên đi sứ mạng của chính mình; nhưng đem chúng ta đến vì phần ích và niềm vui của người khác. Tâm tình này cũng giống như uớc muốn của thánh Phao-lô. Kể từ ngày gặp Chúa Giê-su, ngài đã không còn sống cho riêng mình nữa nhưng chỉ sống cho Chúa, chỉ hành động vì danh Chúa, và khao khát được ở với Đức Ki-tô. Nhưng vì ích lợi của các tín hữu mà ngài đã chấp nhận ở lại để chu toàn trách nhiệm là đem niềm vui đức tin cho mọi tín hữu.

Kinh nghiệm gặp gỡ với Chúa lúc ẩn lúc hiện. Ngay lúc chúng ta tưởng như là Người đang hiện diện trước mắt khiến chúng ta vui quá nên đã muốn dựng lều như ý định của Phê-rô hôm nay, lại là lúc Người vụt mất để nhường chỗ cho quyền năng cuả Thiên Chúa được thể hiện qua sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Ngài “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Và sau lời tuyên phán cuả Thiên Chúa thì các ông bừng tỉnh, trở về với thực tế và chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. 

Như vậy, qua Lời Chúa phán hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng Đức Giê-su không chỉ là Đấng Cứu Thế. Người còn là Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ngôi thứ và nhiệm vụ của Người thì vượt xa so với tổ phụ Mai-sen và truyền thống các ngôn sứ mà E-li-a là người đại diện đã xuất hiện hôm nay. Tiếng cuả Thiên Chúa còn yêu cầu chúng ta hãy lắng nghe và vâng theo Lời Đức Giê-su; có nghĩa là hãy nhớ lại các lời tiên báo mà Người sẽ thực hiện tại Giê-ru-sa-lem trong hành trình sắp tới; đó là việc Đức Giê-su sẽ phải chịu muôn vàn thống khổ, bị loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Và, đây có thể là nội dung của cuộc bàn luận của Đức Giê-su với Mai-sen và E-li-a về những gì mà Người sẽ chu toàn tại Giê-ru-sa-lem.

Để tuân theo và hoàn tất ý định của Cha Người, Đức Giêsu sẽ đạt được vinh quang như đã có từ trước với Chúa Cha, khi Người sẵn lòng đón nhận và đi vào các nỗi thống khổ của thế gian để chữa lành và phục hồi những khuôn mặt đã bị biến dạng bởi bạo lực, bởi lòng tham muốn và ích kỷ mà trên thực tế các điều ghê sợ đó vẫn tồn tại trong môi trường của chúng ta đang sống.

Đó chính là con đuờng mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Đức Giê-su, Con yêu dấu của Ngài và dĩ nhiên cho cả chúng ta nữa. Hành trình càng gian khổ bao nhiêu thì ánh vinh quang càng toả sáng bấy nhiêu. Sứ vụ của Đức Giê-su và cũng là sứ vụ của chúng ta hôm nay không dừng lại ở chốn đau khổ, cũng không chỉ nhắm về tương lai mà quên đi các thử thách và gian nan trong hiện tại. Hai mặt đau khổ và vinh quang cần được nối kết với nhau. Không trải qua gian khổ, không đón nhận cái chết thì vinh quang có được cũng là giả tạo, không bền vững.

Vì thế, trình thuật hiển dung hôm nay không chỉ cần cho chúng ta trong Mùa chay này mà thôi; nhưng ứng dụng của nó cần được thể hiện trong hành trình và sứ vụ của người môn đệ. Đời sống của chúng ta rất cần những giây phút “hiển dung” – những lúc cầu nguyện sốt sắng, cảm nhận tình yêu Chúa, nhưng chúng ta không dừng lại ở đó. Đức tin đích thực không chỉ là những cảm xúc thiêng liêng. Chúa hiển dung để giúp chúng ta biến đổi chính mình. Từ bỏ những thuận lợi của thế gian, ra khỏi tháp ngà của bản thân, dấn thân và hy sinh phục vụ tha nhân.

Như vậy, chúng ta không thể né tránh con đường thập giá. Thử thách, gian nan và đau khổ là một phần trong hành trình của sứ vụ. Nhưng nếu chúng ta cứ mãi mê nhìn và chiến đấu với các khó khăn cũng làm cho chúng ta mệt nhoài. Hãy ôn lại các lần gặp gỡ giữa Chúa và ta, hãy nhớ lại việc Chúa can thiệp để biến đổi chúng ta… tất cả những kinh nghiệm của những lần gặp gỡ Chúa sẽ là những cuộc hiển dung của Thiên Chúa nhằm giúp chúng ta mạnh dạn, can đảm buớc đi và đi mãi cho đến cùng của hành trình Thương Khó, chết đi cho những biến dạng của thế tục và mãi để cho hình ảnh của Thiên Chúa được bộc lộ một cách thật rõ ràng qua thân xác vinh hiển của Đức Ki-tô phục sinh, Đấng đã cho các môn đệ nếm hưởng ánh vinh quang Phục Sinh trong biến cố hiển dung hôm nay. Amen!

Monday, 3 March 2025

CHỌN AI?

 

Để bắt đầu bài suy niệm, chúng ta cùng nghe một chia sẻ do người bạn của tôi đã kể rằng: Vào mùa chay năm ấy, mấy người con gái của anh chị đã lau chùi, sắp xếp lại phòng ốc cho ngăn nắp, khang trang và sạch sẽ hơn. Các cháu còn đưa ra quyết tâm sẽ kiêng thịt trong suốt mùa chay. Đây không phải là điều gì mới mẻ, các cháu đã từng làm như thế vào các mùa chay trước đây.

Nghe xong chia sẻ của anh chị, tôi cảm thấy vô cùng thích thú. Xem ra các bạn trẻ tuy lười đến nhà thờ, không siêng năng tham dự Thánh lễ, nhưng vẫn nhớ các việc làm cần thiết như hy sinh để chuẩn bị tâm hồn hầu tham dự vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa một cách xứng đáng hơn.

Mùa chay là thế. Lau chùi và sắp xếp lại phòng ốc của cuộc sống sao cho phù hợp với yêu sách của Tin Mừng, nhất là sẵn sàng thông phần vào mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Giê-su.

Anh chị em thân mến,

Cho dù là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã chịu bao cơn cám dỗ và đau khổ để vâng phục ý của Thiên Chúa. Và trong bài Tin Mừng của Chúa nhật thứ nhất Mùa chay năm nay, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy gẫm ba cuộc thử thách tiêu biểu trong muôn vàn cám dỗ mà Đức Giê-su đã phải đối diện. Và đây cũng là các thử thách mà các môn đệ và mọi thành phần trong cộng đoàn của các môn đệ sẽ gặp, trong đó có cả chúng ta nữa.

Cám dỗ thứ nhất được bắt đầu bằng lời chất vấn của ma quỷ, đó là: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá thành bánh. Cơm ăn áo mặc là nhu cầu chính đáng của con người; nhất là sau khi đã nhịn đói 40 đêm ngày thì giờ đây chính là cơ hội để cho mọi người thấy quyền năng của Con Thiên Chúa, Đấng có thể biến đá thành bánh khiến cho họ sáng mắt sáng lòng. Nhưng, đó là cạm bẫy đi ‘con đuờng tắt’ để bộc lộ vinh quang, cho nên Chúa đã từ chối thực hiện phép lạ vì ích lợi riêng cho bản thân mình.

Vẫn biết bánh và của ăn thì cần thiết cho việc nuôi dưỡng cơ thể; nhưng sự sống của con người hoàn toàn không chỉ lệ thuộc vào của ăn mà thôi. Nói như thế, có nghĩa là cho dù phải đói khát, Đức Giê-su tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lo cho Người, Cha Người sẽ cung cấp lương thực nuôi dưỡng Người. Phần Người hãy lo tìm kiếm và thực hiện ý Cha trước.

Như vậy, đối diện với thử thách thứ nhất, Đức Giê-su hôm nay và trong cuộc sống đã khước từ các gợi ý của ma quỷ đưa ra. Người chỉ biết bám lấy ý định và việc dậy bảo của Thiên Chúa. Chính đó là lẽ sống và là sức mạnh giúp Người thực hiện sứ mạng.

Thử thách hay còn gọi là cám dỗ thứ hai là cơn cám dỗ về việc sở hữu quyền lực. Đây lại là một cạm bẫy của ma quỷ. Vinh quang và quyền quý luôn là các ước mơ của con người; tuy nhiên phuơng thức để đạt đuợc các điều đó khiến cho con người trở thành nạn nhân của thứ vinh quang hão huyền, để rồi khi đạt được, con người có thể sẽ mất đi chính họ.

Như chúng ta đã từng kinh nghiệm, quyền lực thì thống trị và đi ngược lại với uy quyền. Ở đây ma quỷ đưa ra một lời thỏa hiệp trắng trợn. Thói vinh hoa trong cám dỗ này thuộc quyền sở hữu của thần dữ. Và một khi con người chấp nhận thỏa hiệp này thì chính mình lại trở thành nạn nhân cho chúng. Đức Giê-su đã quyết liệt từ khước lề thói thỏa hiệp do ma quỷ đề nghị. Người khẳng định niềm tin và sự chọn lựa đứng về bên Thiên Chúa, cho dù phải kinh qua đau khổ Người vui lòng chấp nhận miễn sao cho Lời Chúa được ứng nghiệm. Đó chính là vũ khí tối hậu để chống trả các cơn cám dỗ.

Đức Giê-su đã không dùng quyền lực để lôi kéo đám đông. Nhưng bằng vâng phục, Người đã thiết lập một vương quốc yêu thương, vĩnh cửu và an bình. Đức Giê-su chỉ đón nhận vuơng quyền từ Thiên Chúa mà vuơng quyền đó được thể hiện qua việc hiến dâng và trở thành tôi tớ của muôn người. Đó mới là vuơng quyền đích thật không do tay người phàm tạo ra, nhưng được xuất phát và ban tặng bởi Thiên Chúa.

Cuộc cám dỗ cuối cùng là thả mình xuống khỏi đỉnh cao của đền thờ. Ma quỷ đưa ra một lời đề nghị thật hoành tráng cho những ai nghĩ rằng mình có quyền, rồi dùng quyền để làm cho mọi người phải qui phục. Đã nghĩ như thế thì hãy thả mình xuống để thử coi Thiên Chúa có cứu họ hay không? Thật thú vị cho lối suy nghĩ bắt Chúa làm theo ý mình.

Đức Giê-su đã có thái độ ngược lại, Người không dám thử thách uy quyền cuả Thiên Chúa và buộc Ngài phải thực hiện những phép lạ để bảo vệ Người. Trái lại, những gì mà Người trải nghiệm trên Giê-ru-sa-lem sẽ là sự từ khước, nỗi xấu hổ và bị nhục mạ. Nhưng chính qua các trải nghiệm và cho đi tận cùng của Con Thiên Chúa, ngay cả khi trần trụi trên Thập Giá, Đức Giê-su đã chẳng đòi hỏi hay cầu xin Thiên Chúa ra tay cứu Người. Người tin vào Thiên Chúa sẽ hoàn thành chương trình của Ngài trong việc Người làm. Vì thế, Thiên Chúa đã suy tôn Người, nâng Người dậy và ban cho Người một danh hiệu để cả gầm trời này phải quì xuống mà suy tôn Người là Chúa.

Hôm nay, khi suy niệm về các cuộc cám dỗ mà Đức Giê-su đã trải qua, chúng ta nhớ lại điều mà tác giả thư Do Thái đã viết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người,” (Dt 6:8-9)

Phần chúng ta cũng thế. Là tín hữu của Hội Thánh và là con yêu dấu của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi sống và tuân theo ý định của Thiên Chúa, không được phép dùng Chúa hay Lời của Người như một công cụ để đáp ứng nhu cầu riêng mình. Nhưng trên thục tế vẫn còn một số viên chức, đã nhân danh hai chữ uy quyền để buộc ngưòi khác làm theo ý mình. Các đấng bề trên, những người lãnh đạo thay vì giúp người khác nhận ra ý Chúa mà thi hành; trái lại vẫn còn một số người, cho dù là rất ít, đã lạm dụng hai chữ ‘vâng lời’ để bắt người khác phải vâng theo sự khôn ngoan của các ngài. Cuối cùng, uy quyền không được dùng như một khí cụ để bộc lộ tình yêu, mà đã biến thành luỡi gươm của quyền lực để chà đạp và gây tổn thương cho các phần tử bé nhỏ, mỏng dòn và yếu đuối khác.

Có một thực tế rất hiển nhiên mà chúng ta nên can đảm nhìn nhận. Thử thách hay còn gọi là cám dỗ là điều không thể thiếu vắng trong đời sống của các kẻ tin nói riêng và đời sống cộng thể nói chung. Và, không một ai trong chúng ta có thể tránh thoát được các cạm bẫy của ma quỷ hay các quyền lực của sự dữ ẩn núp duới các chiêu bài khác nhau để lôi kéo chúng ta đi ngược lại Ý Chúa. Cạm bẫy đó xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh của cuộc sống. Nhiều lúc nó đã đến với chúng ta dưới nhãn hiệu ‘nhu cầu mục vụ’ hay ‘giúp đỡ kẻ khác’, v.v..

Cám dỗ nào cũng ngọt ngào và hấp dẫn. Thử thách nào cũng đòi chúng ta phải biện phân và chọn lựa. Chỉ có sự hiện diện của Chúa, Đấng đã đối diện và chiến thắng thần dữ mới giúp và mở lòng cho chúng ta nhận ra đâu là Ý Chúa mà học cho được vâng phục. Thánh Ý của Ngài luôn vuợt qua những đắng cay và đau khổ mà chúng ta phải đối diện và gánh chịu khi chọn lựa.

Như vậy, chúng ta hãy chọn Chúa để vâng phục và tôn thờ, chứ đừng bắt Chúa làm theo ý riêng mình. Và một khi đã chọn Chúa làm gia nghiệp thì chúng ta sẽ yêu thương và phục vụ anh em hơn là yêu chính mình rồi làm tổn thương người khác.  

Sau cùng, xin Thiên Chúa chúc lành và giúp chúng ta chọn đúng. Amen