Lòng nhân hậu, sự bao
dung và lòng thương xót của Thiên Chúa là các chủ đề chính trong dụ ngôn hôm
nay. Tuy nhiên, lối hành xử và cách đón nhận của hai cậu con cũng đáng cho
chúng ta phải lưu tâm.
Trước hết là truyện về người con thứ. Anh muốn tìm kiếm một
lối sống trưởng thành và tự lập. Anh đến gặp cha và thưa rằng: “Thưa cha, xin
cho con phần tài sản con được hưởng.” Anh không tham lam, chỉ xin những gì thuộc
về anh theo qui định mà thôi. Lời thỉnh nguyện này có ẩn ý là anh muốn tự lập.
Hậu quả của việc tìm
kiếm để đạt được ước muốn sống tự lập đã dẫn anh đi vào ngõ cụt. Vì không có cha
bên cạnh, không được cha dậy bảo nên anh đã tiêu pha hết tài sản một cách phung
phí. Anh đã mất trớn, đi quá đà và trôi dạt vào những bến bờ vô định. Anh đã mất
tất cả.
Thậm chí, môi trường
mà anh đang sống cũng chống lại anh. Nạn đói trong vùng càng làm cho anh thêm
túng quẫn. Hơn thế nữa, anh muốn công việc của một hạ nhân là chăn nuôi heo để
có thể ăn mót phần thực phẩm của heo mà cũng không ai thèm cho. Mọi cánh cửa dường
như đã khép lại. Và chính trong cảnh khốn cùng như thế anh bắt đầu hồi tâm và
tìm cho mình một lối thoát.
Quá trình trở về được
khởi đầu bằng việc nhìn lại chính mình: “Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ - He
came to himself.” Nhìn lại chính mình không phải để trách móc hay than thân
trách phận, nhưng là để đặt mình trong tương quan với cha và ôn lại các kỷ niệm
khi còn ở nhà với cha; anh nhớ lại rằng ngay những kẻ ăn người ở trong nhà cũng
có được một cuộc sống cơm dư gạo thừa, còn anh thì lại chết đói. Mái nhà xưa đã
không đủ ấm cúng để giữ chân anh, thì giờ đây lại là mục đích mà anh hướng đến.
Nếu trước đây ‘cái tôi’ đã làm anh mù quáng và sống trong mơ mộng và chỉ nghĩ đến
tham vọng của bản thân, thì giờ đây nhờ việc anh đặt mình trong tương quan với cha
anh và các thành viên khác trong gia đình đã giúp anh thay đổi. Sự thay đổi này
được diễn tả không chỉ trong tư tưởng mà còn ở việc làm của anh nữa.
Anh khám phá rằng
chính lúc mất tất cả, mất luôn quyền thừa tự lại là lúc anh cảm nhận được diễm
phúc làm con, một người con chỉ mang nghĩa là người con đích thật khi anh biết sống
nương tựa vào sự che chở của cha. Việc nhận ra sự thật này là điều căn bản giúp
anh có được một chọn lựa chính đáng, đó là chọn sự sống hầu thoát khỏi cái chết.
Anh cũng biết rằng quyền được làm con hoàn toàn tùy thuộc vào lòng thương xót của
cha anh.
Với những tâm tình này, anh con thứ đã dọn cho mình một lối
về. Vì thế, chúng ta ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh người cha vội vã ra đón mừng
anh, còn anh thì không! Anh không hề ngạc nhiên khi thấy cha vui mừng chạy ra đón mừng anh, vì anh
biết rằng niềm vui của cha cũng là niềm vui của chính anh. Qua sự biến đổi khi
trở về tổ ấm, Thánh Luca đã gọi anh là ‘người con trưởng thành’, một cách nói để
so sánh lối suy nghĩ và cách sống vẫn còn ‘trẻ con’ của người con cả.
Tôi cảm phục lòng can đảm
kiếm tìm một lối sống của người con thứ. Anh đã thành thật và sống trọn vẹn với
các suy tư của anh. Và khi đã mất tất cả thì anh lại tìm thấy điều quí giá nhất,
đó là mối tương quan đích thật của tình cha con.
Hành trình nào lại không
có những va chạm, đổ vỡ! Cuộc sống nào chẳng có thử thách! Con người nào lại chẳng
có tội! ... Có lẽ các điều đó không quan trọng. Điều thiết yếu là chúng ta có đủ
can đảm và dùng mọi cố gắng để tìm kiếm một lối thoát trong sự đổ vỡ đó hay
không? Cứ can đảm tìm kiếm và thực hiện các dự tính của mình. Thiên Chúa sẽ
giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng của Người vẫn đang chiếu soi trên các buớc
chân của chúng ta.
Còn người cha thì sao?
Theo tôi nghĩ thì ông
thuộc loại người giầu tình cảm, luôn rung động trước những nhu cầu của kẻ khác.
Ông giáo dục con cái bằng cách chấp nhận các sáng kiến của họ, và luôn chờ đợi
và chấp nhận các sai lầm của chúng bằng tấm lòng nhân hậu và khoan dung để qua
đó có thể giúp cho con cái cảm nhận được tình thương của ông và cũng là cơ hội
giúp cho con cái được trưởng thành hơn qua các kinh nghiệm đau thương mà chúng
đã trải qua.
Với tâm tình ấy, từ
ngày con ông bỏ đi, ông hằng mong cậu trở về. Ông đau khổ đêm ngày mỗi khi tưởng
nhớ đến cậu. Chính vì thế, khi cậu còn ở đàng xa - hình dáng của cậu lúc này có
lẽ khác trước: gầy còm vì thiếu ăn, tiều tụy vì lo lắng; thế mà ông vẫn nhận ra
con của mình. Niềm đau buồn thương nhớ nay biến thành niềm hạnh phúc. Điều này
được diễn tả bằng các chi tiết vô cùng sống động mà ít người cha nào có thể thực
hiện được. Ông chạy ra, ôm chầm lấy con, hôn lấy hôn để. Thái độ của ông được
xem như là một ngoại lệ, không phù hợp với tập tục của người phương Đông thời bấy
giờ. Tuy nhiên, qua việc xử sự như thế, người cha đã biểu lộ một cách mãnh liệt
tình thương mà ông hằng ôm ấp đối với con ông. Qua ánh mắt, cả hai đều cảm nhận
được những đau khổ chồng chất, và những thay đổi trong cuộc sống từ ngày hai cha
con họ xa nhau. Hơn nữa, thái độ của ông - chạy, ôm cổ, hôn lấy hôn để - còn diễn
tả tâm tình của một người mẹ.
Tình thương và sự vui
mừng đã đạt đến cao điểm khi ông cắt đứt dự định thú tội của người con thứ khi
cậu muốn được đối xử như người tôi tớ trong nhà mà thôi. Ông không cho cậu có
cơ hội nói lên điều đó. Bởi vì, dù quá khứ của cậu có xấu xa đến đâu chăng nữa,
nhưng bây giờ, trong giây phút này, trước mặt ông, trong lòng ông cậu vẫn là
con trong nhà; mà đã làm con thì không bao giờ được coi như kẻ làm công, ông
không cho phép cậu tự hạ mình xuống hàng tôi đòi, vì như thế tức là xúc phạm đến
tình cha con. Con muôn đời vẫn là con yêu quí của cha. Hãy quên đi quá khứ của mình mà mặc
lấy con người mới. Quyền thừa kế và vinh dự cũng được trao lại cho con. Con đừng
để các mặc cảm tội lỗi dầy vò cuộc sống mà hãy vui với niềm vui của cha. Hai
cha con đã thông chia cùng một tâm tình khi họ xa nhau, tình trạng này được gọi
là ‘tâm linh tương thông’. Đã như vậy, thì giờ đây cha con chúng mình hãy bước
vào để dự tiệc vui, tiệc đoàn tụ nói lên sự hiệp nhất và yêu thương của gia
đình mình. Bởi vì, theo cha, từ ngày con rời nhà ra đi thì trong gia đình của chúng
mình có một khoảng trống mà không ai có thể bù đắp được, ngoại trừ con. Giờ
đây, con đã tìm về sự sống với gia đình. Vậy chúng ta phải hân hoan và ăn mừng
chứ. Tiệc vui đã dọn sẵn.
Đến
phiên ông con cả?
Người con cả lúc này đang
ở ngoài đồng, lo việc cho Cha. Khi về gần đến nhà, anh chẳng thèm bước vào để hỏi
cha xem chuyện gì đã xẩy ra mà nhà này lại vui như thế. Anh còn thua cả người
giúp việc nữa, bởi vì tuy là kẻ tôi đòi, nhưng họ cũng nhận được niềm vui của
ông chủ khi nghe ông báo rằng: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê
béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe.” Điều này, có nghĩa là phần chúng tôi đây,
cho dù phận làm tôi, nhưng cũng được thông phần vào sự vui mừng với ông chủ qua
việc chuẩn bị tiệc vui này cho thật chu đáo. Mọi người đều vui.
Người con cả đã được báo
tin vui. Nhưng phản ứng của anh thì khác. Anh nổi giận, không tiếp nhận tin
vui; trái lại còn biểu lộ sự bất mãn bằng cách tiếp tục đứng lỳ bên ngoài.
Người cha bước ra năn nỉ
mà người anh cả vẫn không nhận ra được nỗi lòng của cha. Trái lại, anh còn kể lể
công lao, phân bì, ghen tương, lên án và đặt điều nói xấu cậu em qua lời hờn dỗi
sau đây: Cha coi, con hầu hạ cha suốt cuộc đời, chưa bao giờ có ý định hay phản
kháng lại ý cha, thế mà đã bao giờ cha cho phép con đuợc tổ chức tiệc mừng với
bạn bè chưa? Rõ khổ, người cha bị anh loại bỏ trắng trợn; vị trí của mấy ông bạn
còn cao trọng hơn mối tương quan với cha. Rồi anh tiếp tục: còn thằng con của
cha cho đến nay, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm; nay trở về
thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Không biết ông anh cả lấy chi tiết này ở đâu mà
dám tăng thêm tội cho em mình là phung phí tài sản với các cô gái như thế hay
là cậu cả nhà mình lại gán cho cậu em điều mà cậu cả hằng mơ uớc!
Cậu cả muốn nghĩ sao cũng
được, vấn đề ở đây là việc ông cha mời cậu cả cùng chung chia niềm vui gia đình
với ông; vì dù thế nào cậu vẫn là một thành viên trong gia đình này.
Công việc hầu hạ và không
dám trái lịnh cha của người con cả là một điều tốt. Nhưng các việc anh làm lại
không đem lại ích lợi gì cho anh vì anh làm trong tư thế của kẻ làm công. Anh
làm để mong được thưởng và chia sẻ phần thưởng đó với bạn bè, chứ không phải với
cha anh. Anh tuy sống trong nhà, nhưng thật ra con tim và lối sống của anh đã
không thuộc về gia đình nữa, anh đã thoát ly và đi xa hơn người em. Anh đã đánh
mất tình cha con, và tình anh em cũng không còn. Vì thế, khi nghe người cha nhắc
đến cậu con thứ, anh liền lên tiếng xác nhận ngay ‘đó là thằng con của cha, có
nghĩa là nó là con cha mà không phải là em con.’ Tuy ở chung một nhà, thế mà có
bao giờ anh đã nhận ra sự đau khổ của cha khi mất cậu em. Riêng cậu cả đã coi
như em mình đã chết tính từ ngày em cậu rời nhà ra đi.
Người con cả trong trình
thuật là thế đó. Dường như dòng máu của người anh vẫn chảy trong thân xác của
chúng ta, nên lối hành sử của chúng ta có nhiều điểm giống như anh con cả! Như
anh con cả, chúng ta có thể đang là những người giữ luật nhưng chưa sống đạo,
nhất là chưa cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mình cho nên
chưa biết vui mừng khi người khác hoán cải trở vể và được Chúa xót thương.
Sau
cùng, cao điểm và trọng
tâm của dụ ngôn vẫn là cách sống và lối xử sự của người cha. Ông là hình ảnh
tuyệt diệu của lòng nhân ái, tình yêu thương của Thiên Chúa. Ông yêu thương và
tôn trọng các con theo cá tính khác biệt của mỗi người con. Ông hiểu và thông cảm
các tính tốt cũng như tật xấu của mỗi người con. Chúng được ông yêu thương bằng
nhau.
Đối với ông, cuộc sống của
họ thật đáng quí trọng. Vì thế, một lần nữa, ông bước ra để xác nhận với người con
cả, mang quyền thừa tự rằng “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì
của cha (tiền tài, vinh dự, niềm vui, nỗi buồn... cuộc sống của cha) đều là của
con.”
Bài học dành cho chúng ta
hôm nay là tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn là điều tuyệt hảo nhất
mà chúng ta cần có kinh nghiệm. Tình yêu này chúng ta đã không xin mà có, vì thế
hãy hân hoan đón nhận và chia sẻ niềm vui được ơn trở về nhà Cha cho nhau.
Amen!
No comments:
Post a Comment