Tuần
trước, trong lần về thăm cố hương Na-da-rét, Đức Giê-su đã không nhận được nhiều
thuận lợi như tại các nơi khác. Họ chào đón Người bằng môi miệng, nhưng lòng
trí của họ không hề bị đánh động bởi Lời giảng của Người. Họ còn không tin. Đức
Giê-su rất đỗi kinh ngạc về thái độ không tin của họ, nhưng thái độ bất cộng
tác và không tin của họ lại giúp Người nhận ra rằng Người phải ra đi, vì còn
nhiều người tại các nơi khác cần được nghe Người giảng dậy.
Hôm
nay, Đức Giê-su rời Na-da-rét, tiếp tục lên đường để hoàn tất nhiệm vụ mà Cha
đã trao phó cho Người. Trong lần ra đi này, Đức Giê-su bắt đầu sai các Tông đồ
ra đi làm nhân chứng, thay mặt Người kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Còn phần
các ông thì được trao ban cho quyền trừ quỷ và chữa lành bịnh nhân.
Vì
đây là chuyến đi đầu tiên của các Tông đồ, cho nên Đức Giê-su đã căn dặn các
ông những lời chỉ dẫn rất cụ thể như không mang gì đi đường, ngoại trừ cây gậy;
không mang của ăn thức uống, không mang tiền trong túi; chân được đi dép nhưng
không được mang hai áo. Nói chung, chỉ thị của Đức Giê-su ban cho các Tông đồ
và các môn đệ là phải sống nghèo, ra đi cũng nghèo. Cuộc sống và hành trang của
người môn đệ chỉ lệ thuộc vào sự giầu sang và phong phú của Thiên Chúa, Đấng
sai các ông ra đi. Muốn được như thế, các môn đệ cần ghi nhớ rằng chúng ta được
sai đi để tiếp nối sứ vụ của Chúa, chứ sứ vụ không hẳn là của chúng ta.
Thật
vậy, Chúa là Đấng được Chúa Cha sai đến; và chúng ta, giống như các Tông đồ và
các môn đệ khi xưa, là những người được sai. Người đuợc sai không thể cao trọng
hơn kẻ sai phái, và những ai được sai đi cũng không thể tiếm quyền kẻ sai mình.
Xin anh chị em hãy nhìn lại sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử.
Thưa
anh chị em,
Nhìn
vào lịch sử cứu độ, trong những ngày đầu tiên và trải dài theo dòng lịch sử, Thiên
Chúa đã không ngừng sai các sứ giả của Người đến với chúng ta; và sau cùng qua
Mầu Nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người mà lưu ngụ giữa chúng
ta. Vì thế, chúng ta có thể xác tín rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi con người,
dù hành vi và cách ứng xử của chúng ta có như thế nào vẫn không làm lay chuyển
lòng thương xót của Người. Và, giống như Đức Giê-su, Đấng đã được Chúa Cha sai
đến như thế nào, thì hôm nay Người cũng muốn sai các Tông đồ ra đi như vậy. Vì
thế, hiệu quả sứ vụ của các Tông Đồ nói riêng và chúng ta nói chung hoàn toàn
tuỳ thuộc vào sự gắn bó của chúng ta với Chúa.
Có
Chúa trên hành trang là có tất cả, và đó cũng là điều mà Đức Giê-su căn dặn các
Tông đồ hôm nay. Để nhẹ nhàng mà lo việc Chúa, các Tông đồ tuy sống vào lòng hiếu
khách và rộng rãi của tha nhân, nhưng không được dính bén với bất kỳ môt ai.
Các ông cũng không để cho bất kỳ một quyền lực nào ảnh hưởng trên hành trang của
người môn đệ. Ngay cả cơm ăn, áo mặc và nơi cư trú là những điều cần thiết cho
cuộc sống, nhưng các ông cũng không nên lo lắng thái quá. Mọi sự đó Chúa sẽ ban
tặng. Phần các ông, hãy trao hết mọi sự cho Người và chỉ cần ra đi với một lòng
tín thác vào Người là đủ.
Nói
khác đi, yêu cầu mà Chúa mời gọi các môn đệ hôm nay là biết chấp nhận thân phận
nghèo của mình. Nghèo ở đây không chỉ thu tóm vào đời sống vật chất hay tinh thần
cho bằng nhấn mạnh đến việc chúng ta phải lệ thuộc vào Chúa như thế nào! Điều
này có nghĩa là người được Chúa sai đi luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng, bằng
lòng từ bỏ dần dần và trọn vẹn để cho sự giầu có và phong phú của Thiên Chúa được
biểu lộ.
Như
vậy, sống nghèo là sống dựa vào Chúa chứ không dưạ vào bất cứ một thứ quyền lực
nào, cho dù đó là thứ thần quyền của một tổ chức, ngay cả tổ chức đó là giáo hội.
Sống nghèo là mệnh lệnh mà Chúa dành cho ai muốn trở thành môn đệ đích thực của
Người. Với lối sống như thế thì lời rao giảng của người môn đệ sẽ trở thành Tin
Vui cho mọi người. Đó đích thực là lối rao giảng của Chúa.
Trái
với các điều ấy có thể là sự giàu có của giáo hội; lòng tham lam thích vơ vét của
hàng giáo sĩ; sự bủn xỉn, thiếu đại lượng, không đủ bao dung của những ai làm
môn đệ… tất cả đều làm cho lời rao giảng trở nên cằn cỗi, nghèo nàn, thiếu sức
thuyết phục và không đủ sức để chữa lành các vết hằn hoặc không đủ hấp lực để
thu hút tâm hồn người nghe.
Tuy
nhiên, có một sự thật mà chúng ta không thể chối cãi đó là thân phận mỏng dòn với
muôn ngàn yếu đuối đã là nguyên nhân khiến các môn đệ của Chúa muốn tháo lui. Thật
ra thân phận và ơn gọi của chúng ta, xuất phát từ Chúa, cho nên giống như Chúa,
chúng ta sẽ bị khước từ. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta hãy nhớ lại chính Đức
Giê-su đã bị ruồng rẫy trước. Người đã bị khước từ. Nhưng không vì sự khước từ
đón nhận của họ lại có thể ngăn cản Người chu toàn sứ mạng. Chúng ta, các môn đệ
của Chúa cũng thế, cần được đổi mới và chính tâm tình đổi mới này sẽ là nguồn động
lực giúp chúng ta tiếp tục tiến bước vượt qua mọi khó khăn, ngay cả việc chấp
nhận thất bại, miễn sao sứ vụ được chu toàn.
Muốn
được như vậy, người môn đệ cần sống điều mình sẽ công bố. Đức Ki-tô phải là tin
vui cho người môn đệ trước khi họ giới thiệu và chia sẻ cho người khác. Triều đại
Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã rao giảng phải là vương quốc của người môn đệ trước
khi họ ra đi loan báo cho người khác.
Đây
cũng chẳng phải là điều gì mới lạ, vì chính Đức Giê-su, khi bắt đầu sứ vụ đã kêu
gọi các Tông đồ và các môn đệ tham gia vào sứ mạng của Người. Lời mời gọi đó vẫn
còn khẩn thiết và có thể đuợc minh hoạ trong câu chuyện sau đây.
Số
là, trong cuộc chiến tại Hàn Quốc, có một ngôi làng nhỏ nằm ngay trên làn mưa đạn
của các trận pháo kích. Trong làng, có một ngôi nhà thờ. Bên ngoài nhà thờ, có
một bức tượng Chúa Giê-su Kitô đuợc đặt trên một cái bệ. Và, sau cuộc chiến,
người ta chỉ thấy cảnh tang hoang và đổ nát. Bức tượng cũng không ngoại lệ. Nó
nằm chung số phận, bị đổ xuống và vỡ thành từng mảnh vụn tung tóe trên nền nhà
thờ.
Xẩy
ra là có một nhóm lính Mỹ đến thu dọn. Thấy cảnh tượng như thế, một cách thận
trọng, họ đã thu thập các mảnh vụn rồi ráp lại thành gần như một pho tượng, chỉ
thiếu đôi tay. Họ đề nghị với cha sở của họ đạo đó cho phép họ đem pho tượng về
Mỹ để gắn thêm đôi tay vào cho hoàn chỉnh. Nhưng vị linh mục đó đã từ chối. Người
nói: Tôi nghĩ chúng ta cứ để nguyên pho tượng thiếu hai tay như thế, rồi ghi dưới
bệ của bức tượng hàng chữ “bạn ơi, làm
ơn cho Tôi mượn đôi tay của bạn”. Với cách thức đó, pho tượng thiếu đôi tay
của Chúa sẽ loan báo cho những ai đi qua nơi này nhớ lại rằng giờ đây Chúa đang
cần đôi tay của bạn để nâng dậy những ai bị vấp ngã, những ai đang cần bạn ôm ấp
để bớt cô đơn và vơi đi nỗi phiền sầu.
Không
chỉ có thế, Chúa còn cần đôi chân bạn để đi tìm những ai bị lạc lối. Chúa lại cần
bờ vai của bạn để làm chỗ dựa cho những ai lao đao và vất vả. Chúa cần đôi mắt
của bạn để nhìn ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những con người bé mọn và bị
coi thuờng. Chúa cần con tim của bạn để cảm thông nỗi thất vọng của người tội lỗi. Sau cùng, Chúa rất cần mọi chi thể của bạn để
nối kết những nguời mà bạn đã gặp và cùng nhau xây dựng Nước Trời, nơi đó chỉ
có bình an, hoan lạc, niềm vui và tất cả những gì Chúa muốn dựng xây.
Quả
thật, đó là niềm vinh dự dành cho những ai đuợc tham gia vào việc rao giảng của
Đức Giê-su, kiến tạo trời mới đất mới! Và, hạnh phúc thay cho ai đã được Thiên
Chúa trao ban cho nhiệm vụ cao quí như thế!
Trong
tâm tình đó, hãy dâng lời ngợi khen với tâm tình cảm tạ vì lòng tín thác của Đức
Giê-su, khi Người trao ban cho chúng ta được phép tham gia vào sứ mạng của Người,
dù chúng ta còn chưa xứng đáng. Amen!
No comments:
Post a Comment