Wednesday, 20 November 2024

HIÊN NGANG CHỜ NGÀY CHÚA ĐẾN.


Khởi đầu bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su loan báo cho các môn đệ về ngày quang lâm của Đức Chúa, ngày Người đến qui tụ muôn dân. Trước khi ngày đó xẩy đến sẽ có những biến cố kinh hoàng. Trái đất sẽ bị bao phủ bởi màn đêm tăm tối, mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống. Nói chung rằng sẽ có những dấu chỉ báo cho chúng ta biết về ngày đó, còn khi nào ngày đó thật sự sẽ xẩy đến thì Chúa lại nói: “… không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người, có nghĩa là chính Đức Giê-su cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”.

Tuy nhiên, con người luôn cố gắng tìm cách giải thích ý nghĩa của các dấu chỉ cho nên mỗi khi thấy những biến cố hay các tai ương, dịch bệnh xẩy ra trên thế giới thì không thiếu những người tín hữu vội vàng tiên đoán đó là các dấu chỉ của ngày tận thế. Lối suy đoán này đã từng xẩy ra trong lịch sử. Mỗi một giai đoạn trong dòng lịch sử, người ta lại có các kiểu đoán khác nhau.

Ở đây chúng ta nên nhớ lại lời của Thánh Augustinô đã nói như sau: “Chúng tôi cũng không biết bao giờ sẽ tận thế. Bởi vì, đó không phải là việc của chúng ta biết khi nào ngày đó sẽ xẩy đến; việc đó nằm trong quyền hạn của Chúa Cha.” Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại cuối cùng. Thời đại đó đã được bắt đầu từ thời các Thánh Tông Đồ, và sẽ còn tiếp tục sau cả thời của chúng ta nữa. Ngày tận thế còn cách xa chúng ta bao lâu, điều đó tôi cũng chẳng hề biết. Nhưng trong lúc này chúng ta hãy cứ sống trong niềm mong đợi về ngày đó. Và Ngài nhận thấy hiện có ba cách nhìn đã gây ảnh hưởng trên lối sống của các tín hữu thời đó trước những tin đồn về ngày tận thế như sau:

Có một số người quan niệm là hãy sống trong tỉnh thức và cầu nguyện, vì ngày Chúa đến sắp xẩy ra.

Một nhóm khác lại chủ trương là hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì đời sống của con người thì quá ngắn ngủi và bấp bênh và ngày Chúa đến hãy còn xa lắm.

Vì thân phận con người rất là yếu đuối và mỏng giòn, nên chúng ta hãy sống trong tỉnh thức và cầu nguyện trong niềm mong chờ ngày Chúa đến sẽ xẩy ra vào bất cứ lúc nào.

Đối với Thánh Augustinô thì lối sống thứ ba này là thích hợp nhất.

Dù rằng các lời tiên đoán về ngày tận thế đều không xẩy ra như người ta đoán già đoán non. Vì thế, chúng ta không nên quá chú trọng đến việc tiên đoán ngày nào sẽ là ngày tận thế. Nhưng hãy lưu ý đến nội dung của sứ điệp mà họ muốn nói đến là thời đại mà chúng ta đang sống là thời cuối cùng của lịch sử nhân loại, rồi đây vũ trụ sẽ bị tàn phá và sụp đổ để nhường cho việc Chúa đến trong quyền năng; và ngày đó có thể đang gần đến. Tuy nhiên, khi nào ngày ấy đến thì đó không phải là việc của chúng ta. Bởi vì, ngày đó là “Ngày của Chúa” và những gì của Chúa thì hãy để cho Chúa định liệu.

Chúng ta thường có quan niệm nhìn ngày tận thế rất tiêu cực. Ngày tận diệt, ngày phá hủy. Ngày khiến con người sống trong lo âu và sợ hãi. Thật là mâu thuẫn, bởi vì chúng ta đều gọi ngày đó là ngày quang lâm; không lẽ trong ngày hiển thắng của Đức Chúa quang lâm lại chỉ bao trùm chết chóc, sợ hãi và huỷ diệt hay sao! Đâu là sứ điệp vui mừng trong bữa tiệc cánh chung, đâu là hình ảnh ngóng đợi chàng rể đến để hợp hoan, đem vui mừng đến cho mọi người.

Quả thật, trong bài diễn từ về ngày cánh chung hôm nay có hàm chứa một biến cố lịch sử đã xẩy ra cho dân tộc Do Thái, đó chính là việc Đền thờ Giê-ru-sa-lem đã bị huỷ diệt thành bình địa. Nhân dựa vào biến cố lịch sử này, các Thánh sử đều muốn nhắm đến sứ điệp là một thời đại đã qua đi để nhường chỗ cho những gì mới sẽ xẩy đến. Giê-ru-sa-lem cũ đã qua đi để nhường chỗ cho một Giê-ru-sa-lem mới. Và cho dù trời đất này phải qua đi thì Trời mới đất mới sẽ xuất hiện. Và một cảnh sống hoà bình sẽ đuợc thành hình như lời loan báo của ngôn sứ I-sa-i-a như sau: “Trong ngày đó, sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta.”

Hình ảnh mà ngôn sứ I-sa-i-a loan báo quả thật vô cùng đẹp đẽ và an bình. Qua đó, chúng ta tin rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự bình an, của sáng tạo, của sự sống chứ không phải huỷ diệt và sư chết. Có nghĩa là từ khởi thủy, Thiên Chúa đã sáng tạo muôn loại, và sẽ đưa muôn loài đến cùng đích trong sự viên mãn và thành toàn nơi Người. Bởi thế, trong ngày của Chúa, mọi sự sẽ được đổi mới toàn diện; ngày mà chúng ta thấy rõ dung nhan vinh hiển của Chúa, mà trong hiện tại chúng ta chỉ thấy mờ mờ.

Trạng thái lo âu và sơ hãi không có chỗ đứng trong hành trang của người tín hũu đang ngóng chờ Ngày Quang Lâm vinh hiển của Đức Chúa. Nhưng không vì thế, mà chúng ta lại đi vào thái cực khác là coi thường, thờ ơ rồi sống như không có ngày chung kết, rồi trong hiện tại con người lại tác oai, tác quái muốn làm gì thì làm, thậm chí kể cả các hành vi vô đạo  và bất lương cũng không từ. Trái lại, chúng ta phải nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của một người quản lý mà Chúa đã giao phó cho việc trông coi và phát triển vũ trụ này trở thành Trời Mới và Đất Mới.

Như vậy, thái độ tích cực nhất của chúng ta là hãy sắp xếp cuộc sống của mình cho phù hợp với các nhiệm vụ đã được giao phó nơi trần thế. Khi thi hành các trách vụ đó, chúng ta không mong tìm được lợi ích cho bản thân mình mà thôi, nhưng quyết tâm chu toàn bổn phận của một chứng nhân cho dẫu hy sinh mạng sống để thể hiện lòng mến của Thiên Chúa nơi mình.

Khi nói tới đây, chúng ta không quên việc cử hành lễ trọng tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào cuối tuần này. Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận gương can đảm, chấp nhận mọi khổ hình mà cha ông chúng mình đã trải qua. Sử sách đã ghi lại bao nhiêu loại cực hình khác nhau đã đuợc dùng để tra tấn các ngài như: nhẹ thì gông cùm, giam tù, bỏ đói; nặng hơn một chút là cho voi dầy, phơi nắng và ném xuống sông; quyết liệt hơn thì bị chặt đầu, bị thắt cổ hay bị đốt cháy; man rợ và hiểm độc nhất là bị phân thây ra từng mảnh hay là tùng sẻo… Chỉ cần tuởng tượng những cực hình nói trên cũng khiến cho con người ngày nay run sợ hãi hùng.

 Tất cả các cực hình đó không nhắm đến các nỗi thống khổ về phần xác; nhưng tất cả đuợc áp dụng để thử lòng trung tín với Chúa của các ngài. Vì thế, thật là thiếu sót, nếu chúng ta chỉ nhấn mạnh đến những nét hào hùng, những tấm gương can đảm, những cực hình mà cha ông chúng ta đã phải gánh chịu mà quên đi động lực chính đã giúp tổ tiên mình đi đến cùng; đó chính là lòng yêu mến Chúa Giê-su của các ngài. Vì yêu mến mà cha ông chúng ta đã từ khước tất cả và chấp nhận chết cho tất cả.

Thật vậy, sự hiểu biết giáo lý hay những tín điều về Thiên Chúa của các ngài thật nông cạn. Các ngài cũng không có những suy tư cao siêu về thần học. Nhưng khi trở thành tín hữu, các ngài đã yêu Chúa bằng tất cả con người của các ngài. Đỉnh cao của tình yêu nơi các ngài được thể hiện qua việc chấp nhận cái chết không vì phần thưởng đã dành sẵn cho những ai trung tín với Chúa mà thôi; nhưng qua hành vi tự hiến các ngài đã noi gương Chúa Giê-su, Đấng đã hiến thân để bày tỏ lòng mến tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân lọai. Tiến ra pháp truờng bằng niềm tin và lòng mến cho nên tâm hồn cha ông của chúng ta rất thư thái và bình an, miệng các ngài vang lên những lời tha thứ và trên môi là nụ cuời hân hoan của niềm vui sắp đuợc đoàn tụ với Chúa Giêsu, Đấng mà các ngài cả đời yêu mến và trông đợi.

Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi sống trọn vẹn và sống cho đến giây phút cuối cùng bằng lòng mến. Đó chính là tâm huyết của cuộc sống. Và đó cũng là bổn phận để làm giàu các ân huệ và khả năng mà Chúa đã trao ban để sinh lợi cho Chúa. Rồi, cũng giống như cha ông mình, các bậc tiền bối đã sống trọn vẹn lòng mến vì danh Chúa Kitô, mỗi người chúng ta đến lúc đó, sẽ nhận đuợc Lời Chúa phán rằng: “Hỡi con yêu dấu, hãy vào mà hưởng niềm vui với Ta.”

 Như vậy, chủ đề “Ngày Chúa đến” trong phần phụng vụ Lời Chúa tuần thứ 33 của Mùa Thường Niên và việc tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam có một mối liên hệ thật sâu sắc. Sự chết của cha ông chúng ta phản ánh niềm tin mạnh mẽ của các ngài vào sự sống vĩnh cửu, công lý và sự cứu rỗi trong Ngày Chúa Đến. Các Ngài đã hiến dâng mạng sống như của lễ hy sinh để minh chứng sự can trường của một niềm tín sâu sắc và một lòng mến tha thiết với Chúa. Ngoài ra, các Ngài còn đại diện cho toàn thể Hội Thánh hy vọng vào sự thay đổi của thế giới này trong Ngày Chúa đến.

Sau cùng, cha ông chúng ta, các Thánh Tử Đạo thật đáng tôn vinh và chúng ta nguyện noi gương niềm tin sắt son và lòng mến thiết tha của các Ngài nơi tình yêu Chúa trong ngày Chúa đến, Amen!

No comments:

Post a Comment