Thursday, 22 March 2018

TÂM TÌNH TUẦN THÁNH



Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Đây vừa là nền tảng vừa là cao điểm trong cuộc sống mà chúng ta cần nhắm đến. Vẫn biết rằng, chúng ta không chỉ được mời gọi để đồng hành và chia sẻ sự chết của Con Chúa mà thôi. Với lòng xác tín, qua sự chết của chính mình, chúng ta cũng sẽ được thông hiệp vào giây phút mà Thiên Chúa đã tôn vinh Đức Ki-tô trong Mầu Nhiệm Phục Sinh mà chính Người đã lĩnh nhận và chia sẻ cho chúng ta.

Trong tuần này, chúng ta sẽ sống cùng với Đức Giê-su hiên ngang buớc vào Tuần Thuơng Khó. Cùng với Đức Giê-su, chúng ta can đảm và mạnh dạn bước vào ‘thời điểm – giờ’ của Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng qua đó, Thiên Chúa sẽ bộc lộ trọn vẹn mối tình của Thiên Chúa cho chúng ta như thế nào!

Tất cả đều vì yêu.

Truyện kể rằng: Có ông chồng kia thật là diễm phúc khi được vợ cùng đến văn phòng bác sĩ để khám bịnh. Sau khi kiểm tra sức khỏe cho ông, các bác sĩ mới gọi người vợ vào văn phòng rồi báo cho bà nhà biết rằng: “Thưa bà, chồng của bà đang bị căng thẳng, tình hình rất nghiêm trọng. Nếu bà không làm những điều mà chúng tôi đề nghị sau đây, hẳn nhiên ông nhà nhất định sẽ chết.” Nghe thấy thế, bà ta nhanh chóng nói, “Thưa bác sĩ, hãy nói cho tôi biết những việc mà tôi cần làm”. Bác sĩ trả lời, “mỗi buổi sáng, bà hãy chuẩn bị cho ông một bữa ăn sáng lành mạnh; ban trưa bà cố nấu những món gì mà ông thích và trong bữa ăn tối, bà và con cái hãy tạo cho ông cảm nhận tình yêu và sự hỗ trợ của gia đình qua bữa cơm tối. Bà hãy nhớ là đừng chất thêm gánh nặng hay tạo sự căng thẳng trong cuộc sống ông. Quan trọng nhất, đừng cằn nhằn ông nhà. Nếu bà có thể làm các điều này trong khoảng thời gian từ 10 tháng đến một năm thì sức khỏe của ông sẽ hồi phục hoàn toàn.”

Trên đường về nhà, người chồng nhìn thấy vẻ mặt trầm tư và đau khổ của vợ mới hỏi “các bác sĩ đã cho em biết về tình trạng sức khỏe của anh như thế nào?” Bà nhìn chồng mình rồi nói: “Anh yêu ơi! họ nói rằng darling của em ơi, anh sẽ chết.”
Câu chuyện dừng lại ở đó và không có kết luận.

Như người vợ trong truyện kể, anh chị em chúng mình sẽ chọn lựa thế nào để diễn tả một cách thật cụ thể tình yêu của mình với những người đang chung chia cuộc sống với mình đây?

Yêu mà không thể hiện bằng hành động thì tình yêu đó rồi cũng mai một đi và dẫn con người đến nấm mồ mà thôi.

Lẽ ra, trong cuộc đời và nhất là Tuần Thánh này, chúng ta cố gắng sống và trao ban cho nhau trọn vẹn lòng yêu mến của Đấng đã trao cho chúng ta quà tặng tình yêu đó. Nhưng, thực tế chúng ta lại mang lấy tâm trạng của những kẻ nhút nhát và phản bội như các môn đệ: ông này chối Chúa, ông kia bán Người; lại có ông bỏ rơi Người trong giây phút Người cần sự đồng cảm và hỗ trợ của các ông… Rồi chúng ta cũng có thể lại đồng ý với dã tâm và lòng thâm độc của các nhà lãnh đạo tôn giáo, đã bày mưu giết Người; rồi một cách nào đó, chúng ta cũng đồng ý với các hành động tàn nhẫn của quân lính khi hành hình Chúa tôi!

Những cực hình về mặt thể xác và tinh thần mà Đức Giê-su đón nhận một cách hiên ngang và tự nguyện vì yêu thuơng sẽ không làm cho cảnh vật buồn thảm hơn.

Vào tối thứ Năm, đôi bàn tay của Chúa đã rửa và lau sạch mọi thứ bụi trần còn dính vào đôi chân của những kẻ theo Người. Việc làm này không chỉ nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ như một người tôi tớ; nhưng qua nghĩa cử yêu thuơng hạ mình thâm sâu đó, Người muốn phá tan mọi hàng rào ngăn cách giữa thầy và trò, chủ và tôi tớ, người với người.

Rồi sang ngày thứ Sáu, Đức Giê-su đã dâng hiến tinh thần, thân xác và sứ vụ của Người như lễ vật hy sinh vào tay Chúa Cha. Người mở tay ra để trao phó, còn đôi bàn tay của Thiên Chúa, Cha Người cũng mở ra để đón nhận. Một giao ước được ký kết, giao ước của Tình Yêu nói lên đích điểm của việc trao ban và đón nhận. Giao Uớc này thay thế cho mọi giao ước trước. Vì thế, ngày thứ Sáu sẽ không còn là ngày buồn thảm và tang thương như một số người chủ trương. Nhưng đó là “Good Friday – Ngày Thứ Sáu Tốt-Đẹp.” Trong ‘ngày và giờ’ đó tình yêu của Chúa được thể hiện một cách thật trọn vẹn qua con đường Người đã đi.

Sự thinh lặng trong ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phận ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Nhưng, chính vào lúc đó Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng chúng ta.

Vì thế, các nghi thức phụng vụ mà chúng ta cử hành trong những ngày này, cách xử thế trong cuộc đời và lối sống đạo của chúng ta rất cần được dẫn dắt bởi mối tình cao cả mà Con Thiên Chúa đã thực hiện.

Vẫn biết là sống đạo như thế mới là sống đích thật. Nhưng trở về để đối diện với thực tế, tôi tự hỏi mình rằng: đã bao lần tham dự các nghi thức trong Tuần Thánh, đã bao lần suy niệm về con đường Thập Tự của Đức Giê-su; thế mà các biến cố đã xẩy ra trên con đường của Chúa, nhất là sự chết của Người đã có ảnh hưởng gì trên hành trình niềm tin và lối sống đạo của tôi?

Rồi lại, nếu nay mai có người hỏi tôi rằng: anh hay chị đã yêu Chúa như Chúa yêu chưa? Có lẽ, chẳng có mấy người trong chúng ta dám mạnh dạn trả lời ‘có’. Giả như có một số người thật dũng cảm khi trả lời có thì câu trả lời ‘có’ đó cũng chỉ là từ ngữ; bởi vì, sau đó khi được yêu cầu liệt ra các việc làm cụ thể của yêu thương thì chúng ta lại ấp úng, rồi cười xoà cho xong.

Nhưng nếu nói về việc phê phán hay nhận định về cách thế bộc lộ tình yêu và lòng mến của người khác thì chúng ta giỏi lắm. Rồi vẫn còn một số người thường ‘suy bụng ta ra bụng người’ nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội để tìm ra ý nghĩa sâu sắc của việc làm nào đó của tha nhân!

Hãy nhớ lại. Mary, chị của Lazarô đã dùng dầu thơm hảo hạng để xức chân Đức Giêsu; thế mà cũng có người cảm thấy bị xúc phạm rồi phê phán ‘thật là hoài của và lãng phí, tại sao lại không dùng tiền đó mà cho người nghèo!’ Với Chúa thì khác, Người nhìn thấy tấm lòng của chị ta. Chúa xác định một cách thật chắc chắn rằng, hãy để chị ta làm việc của chị ấy, đừng xía miệng vào chuyện của người khác. Việc làm của cô thật tuyệt diệu; qua hành vi này cô đã bộc lộ tấm lòng quí mến của cô dành cho Thầy.

Chúng ta nên đến với nhau bằng tấm lòng độ lượng và đôi tay mở ra, chứ đừng hoài nghi hay phê phán các việc tốt của người khác đã và đang làm. Trái lại, chúng ta cũng không nên quá cẩn thận và e dè khi cần làm một điều thiện cho tha nhân. Tất cả đều được đánh giá bằng lòng yêu mến. Hành vi của lòng nhân hậu phát sinh bởi ý ngay lành đều là những hành vi Thánh Thiện. Những gì càng nhỏ bé và dấu kín và một khi được bộc lộ thì giá trị càng cao. Sự thánh thiện đích thật thường được giấu trong cái vỏ bình thường bên ngòai. Và với lòng yêu mến, việc phục vụ tha nhân chính là phụng sự Thiên Chúa vậy.

Với tâm tình như thế, cầu chúc anh chị em bước vào Tuần Thánh với tấm lòng yêu mến để múc thêm năng lượng mà phục vụ và trở thành của lễ cho Thiên Chúa và sinh nhiều ích lợi cho nhau.




Friday, 16 March 2018

HẠT GIỐNG ĐI VỀ ĐÂU?



Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Trong bài Tin Mừng tuần trước, Thánh Gio-an đã diễn tả cho chúng ta biết về Tình yêu của Thiên Chúa như sau Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Có người cho rằng đây chính là toát yếu của toàn bộ Tin Mừng và cũng là trọng tâm của đời sống tín hữu.

Chúng ta còn được mời gọi suy gẫm và thực thi giao ước Tình Yêu này trong cuộc sống. Tình yêu là cho đi, là ban phát. Thật vậy, Đức Giê-su là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Người đã đến để làm chứng cho Tình Yêu, không bằng chữ viết hay ngôn từ, nhưng còn bằng chính cuộc sống của Người. Cả cuộc đời của Người hướng về đích điểm đó, đích điểm diễn tả một cách thật cụ thể Tình Yêu Của Thiên Chúa, mà hôm nay theo Tin Mừng của Thánh Gio-an gọi là ‘giờ’.

Trong khi thi hành sứ vụ, bao nhiêu người đã ngộ nhận về mục tiêu, đích điểm, giờ của Đức Giê-su; nhưng Người luôn luôn nói: “Giờ Ta chưa đến”. Giờ mà Đức Giê-su đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trong tiệc cưới tại Cana. Giờ mà Người đến để Chúa Cha thành toàn và tôn vinh. Nhưng, trước tiên ngay bây giờ và cũng như trong mọi khoảnh khắc của sứ vụ, Người cần vâng phục trọn vẹn ý định của Chúa Cha. Nói như thế có nghĩa là mọi cử chỉ của Người, mọi thái độ và cách hành xử của Người đều hướng về giờ đó. Đức Giê-su ý thức và biết rất rõ các việc Người làm dẫn Người đến cái chết. Nhưng cũng chỉ vì việc này mà Người đã đến.

Thật là hào hùng và can đảm cho ai biết rõ việc mình làm sẽ đem đến tai họa cho bản thân; nhưng vì lợi ích của người khác mà Người vẫn hân hoan thực hiện chỉ để làm chứng rằng Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho chúng ta được sống.

Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Người cuối cùng cũng phải xác định giờ đó sắp diễn ra. Người muốn nói ở đây là giờ nào vậy? Và, làm thế nào tâm tình của chúng ta có thể biến chuyển từ quan điểm cho rằng đó là thời điểm của thất bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì làm sao chúng ta có thể nhìn nhận giờ chết của một người sắp bị hành hình trên ghế điện hay là bị xử tử lại có thể là giây phút đem lại vinh quang cho người đó. Lối suy nghĩ và đặt vấn đề như thế cũng không xa lạ gì với cách nhìn vấn đề về cái chết trên Thập Giá của những người cùng thời với Đức Giê-su. Đó là án chết dành cho các tử tội. Đức Giê-su không nằm chết giữa hai cây nến trên bàn thờ; nhưng là treo trên thập giá giữa 2 tên trộm cướp, nằm trên một ngọn đồi đầy sọ người mà người ta gọi là núi sọ.

Chết như thế mà dám gọi là vinh quang hay sao? Để đáp trả cho câu hỏi này, Đức Giê-su như một vị thầy khôn ngoan, Người đã không tiếp tục giải thích về sự nối kết giữa ‘giờ vinh quang’ và cái chết mà Người sắp đón nhận. Người dùng ví dụ mà người đương thời hay những ai có kinh nghiệm trong việc trồng cấy điều hiểu ngay điều Chúa muốn nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”

Ý nghĩa của ví dụ về sự phát triển của hạt giống trở nên rõ nghĩa hơn khi Đức Giê-su nhấn mạnh đến việc yêu thương và hy sinh cuộc sống mình vì lợi ích của người khác. Ai trong chúng ta cũng có trải nghiệm này là sống cho bản thân, chỉ lo cho mình là một lối sống tự diệt. Một Tình Yêu chỉ được thăng hoa khi người đó dám yêu và dám sống cho người khác. Tuy đó là hy sinh nhưng sự hy sinh đó là việc cần thiết vì nó đem lại ích lợi cho tha nhân. Cho nên đó là một lối sống giầu có và được thăng hoa để có thể chạm đến nguồn suối yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều đó đã được thể hiện qua cuộc sống từ bỏ, chấp nhận trong hân hoan để được chết đi, trở thành bánh hằng sống nuôi dưỡng những ai đang đói khát nguồn ơn cứu thoát. Thật, đúng như thế, vì Thiên Chúa đã không sai Con của Ngài đến để luận tội và xét xử thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu thoát.

Như vậy, thưa anh chị em,

Qua tấm lòng vâng phục, ngay cả sự chết cũng không làm Đức Giêsu chùn bước; cho nên Thiên Chúa đã siêu tôn Người vượt lên trên mọi sự. Nhưng, sao mà Đức Giê-su có thể vượt qua mọi sự, ngay cả nỗi cô đơn, vuợt qua muôn vàn thử thách, ngay cả sự chối bỏ của những người bạn cùng đồng hành với Người, để trung thành và chấp nhận sự chết như thế? Chỉ có một câu trả lời xác đáng rằng sức mạnh mà Đức Giê-su có được, hoàn toàn phát sinh từ mối dây hiệp thông mật thiết với Chúa Cha, chỉ muốn làm hài lòng Cha. Có nghĩa là cái chết của Đức Giê-su cho thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa trong Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho thế gian.

Còn một điều khác vừa kỳ diệu vừa thách thức bản thân khi chúng ta lại được nghe qua môi miệng của Chúa, Đấng sẵn sàng nối kết cái chết của chính Người vào với sự chết của mỗi người chúng ta. Vẫn biết rằng sự chết của Đức Giê-su chỉ một lần là đủ lắm rồi; nhưng không vì thế mà Chúa chỉ muốn chết một mình. Bởi vì, qua sự chết Người không bị biến mất nhưng thấm vào lòng đất để thông chia sự sống cho các hạt giống khác. Người tha thiết mời gọi chúng ta cùng tham dự vào sự chết của Người, như những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo trồng cần bị mục nát, cần chết đi để sinh hoa lợi cho người khác. Và như thế, chỉ những ai kết hiệp với Người khi phục vụ thì sẽ được Thiên Chúa chấp nhận và cho phép chia sẻ vinh quang với Con của Ngài sau này.

Đây là giây phút cao quí nhất của những ai theo và noi gương để chết đi như Đức Giê-su. Đây là giây phút tập trung lại tất cả những gì Đức Giê-su đã thực hiện khi còn sống và đuợc tiếp tục qua lối sống tự hạ của chúng ta là những người sẵn sàng chấp nhận mất đi cho nhau được sống. Như Đức Giê-su, cuộc đời của chúng ta cũng được dẫn đưa đến giây phút được tôn vinh với Chúa.

Và trong tâm tình đó và cũng để kết thúc, tôi xin mời anh chị em cùng nhìn về một vài gương sáng.

Trước hết là cuộc đời của mục sư Martin Luther King. Ông là một con người đã dùng cả cuộc đời để tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen; và sau cùng, ông đã bị ám sát chết vào ngày 4 tháng 4 năm 1968. Trước cái chết vô cùng tang thương, trước sự mất mát thật to lớn của nhân loại; có ai trong chúng ta dám nói lúc ông bị ám sát là giây phút vinh quang của đời ông? Hay là chúng ta chỉ biết than khóc cho một con người đã hết lòng vì người khác. Đây phải chăng là một sự thảm bại mà ông phải chịu khi dám đứng ra để chống lại một thế lực quá lớn không hỗ trợ cho phép người da đen được bình đẳng.

Tuy nhiên, ngày hôm nay sau 50 năm, chúng ta đều nhận ra một điều là qua sự chết, ông đã đạt được giấc mơ đem lại quyền bình đẳng giữa người da mầu và da trắng. Đó chính là giây phút vinh quang mà ông muốn nhắm đến. Qua sự chết, ông đã truyền sức sống cho những hạt giống ở các thế hệ kế tiếp.

Qua sự chết của cố mục sư Martin Luther King làm chúng ta nhớ lại cái chết của vị cha già dân tộc Ấn là Mahatma Gandhi. Người ta cũng không thể quên cái chết của linh mục dòng Phan-xi-cô, cha Maximilianô Kônbê đã tình nguyện chết thay cho người bạn tù. Hoa quả của cái chết mà Ngài để lại là tình thân ái, yêu thương và chia sẻ của những người bạn tù còn sống sót trong trại giam. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.

Đó là những mẫu gương phi thường đòi hỏi một cố gắng đem đến kết quả cũng phi thường. Nhưng đối với chúng ta, hãy nhìn vào cuộc sống gia đình, chúng ta vẫn nhận ra rằng còn có những người cha và mẹ sẵn sàng hy sinh bản thân, chấp nhận là người thua cuộc chỉ vì họ yêu con cái của họ và người bạn đời hơn yêu chính bản thân.

Còn bao nhiêu người đang âm thầm chết để bộc lộ tình yêu và gầy dựng tương lai cho các thế hệ mai sau. Trong Chúa, họ rất đáng được ca ngợi và tôn vinh.


Friday, 9 March 2018

TIN CHÚA, YÊU CHÚA, SỐNG VỚI CHÚA




Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Chủ đề chính của bài Tin Mừng hôm nay là Lòng Mến hay còn được gọi là Tình yêu của Thiên Chúa. Đây vừa là trọng tâm của Tin Mừng mà Đức Giê-su đem đến và cũng là bản chất của Thiên Chúa.

Vẫn biết Tình Yêu là trọng tâm của cuộc sống và chỉ có ai ở trong nguồn suối yêu thương của Thiên Chúa thì mới có thể tìm được hướng giải quyết cho những vấn nạn, tìm ra những giải pháp cho các bất hạnh và khổ đau của kiếp con người.

Nhưng, trong mấy ngày qua, khi suy tư về chủ đề này, lòng tôi cảm thấy thật chua xót khi nhớ đến các nạn nhân của các vụ lạm dụng. Họ đã trao mối tình, phó thác cuộc sống cho những người mà họ hết lòng tin tưởng, để rồi chính họ lại trở thành nạn nhân bị lạm dụng. Họ được lại những gì: Phải chăng là một con tim tan nát? Phải chăng hành trình còn lại của họ chỉ là những mảnh vụn của đổ vỡ? Trong cơn đau khổ dường như không thể chịu đuợc như thế, có một số người không tìm được lối thoát. Chỉ muốn được giải thoát để cho cuộc sống tinh thần và thể xác của họ bớt đau hơn!

Còn chúng ta, làm thế nào để diễn tả cho họ thấy được Tình Yêu và lòng bao dung của Thiên Chúa?

Giả như, họ nhận ra rằng họ không phải là những người đau khổ nhất. Trên thế gian này còn bao nhiêu người đang chịu nhiều cảnh tai ương khác nhau. Đau khổ vẫn là người bạn không mời mà vẫn đến trong cuộc đời chúng ta. Không ai có thể tránh thoát được.

Một điều kỳ diệu mà chúng ta cần khám phá là Thiên Chúa đã không yêu chúng ta bằng quyền năng. Ngài làm được mọi chuyện. Nhưng Ngài lại chọn cách yêu thương chúng ta bằng cách từ bỏ ngôi vị đồng hàng với Thiên Chúa, trút bỏ năng quyền chấp nhận nỗi đau khổ và trở nên giống hệt chúng ta để đi vào thế gian này. Đây chính là tin vui cho tất cả mọi người: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con một mình, để tất cả những ai tin vào Con Ngài thì được sống đời đời. Bởi vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”. Tin vui trọng đại này đã được diễn tả một cách thật trọn vẹn qua sứ vụ và cuộc đời vâng phục của Đức Giê-su.

Thật ra để chuẩn bị cho dân chúng đón nhận được mầu nhiệm cao cả này, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc để bộc lộ sự quan tâm, săn sóc và thương yêu của Ngài cho đám dân đó.

Đúng vậy! Tình yêu của Thiên Chúa không phải là mớ giáo thuyết, cũng không lệ thuộc vào các trải nghiệm của con người. Nhưng, tất cả đều có thể được kiểm chứng qua các biến cố lịch sử; trong đó con người có thể nhận ra bàn tay can thiệp của Thiên Chúa. Một cách cụ thể, trong bài đọc 1 mà chúng ta nghe hôm nay. Với thái độ bao dung và nhân từ của Vua Ky-rô, người đã cho phép dân Israel được hồi hương, trở về tái thiết xứ sở, và việc đầu tiên là việc xây dựng lại Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Qua hành động của Vua Ky-rô này, dân Do Thái và chúng ta nhận ra lòng yêu thương của Thiên Chúa được tỏ hiện trong viêc Ngài đã can thiệp để cứu thoát dân riêng của Ngài.

Nhìn chung lại lịch sử Israel, chúng ta nhận ra việc Thiên Chúa đã bầy tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài như thế nào:

Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi cảnh nô lệ bên Ai cập, dẫn họ tiến về Đất hứa. Đến khi gặp một vài thử thách trong Sa Mạc, họ chẳng còn nhớ đến ơn Ngài, lại còn đòi quay về Ai cập, cho dù ở nơi đó họ bị đối xử khắc nghiệt như những kẻ nô lệ, nhưng lại có thịt để ăn; bây giờ được tự do, ở sa mạc lại lâm vào cảnh chết đói. Dân chúng mọi thời vẫn thế. Được voi đòi tiên. Đến với Thiên Chúa theo ước muốn của riêng mình. Đến khi gặp thử thách thì lại trách móc. Tuy nhiên, Thiên Chúa của chúng ta luôn trung tín, không bao giờ thất hứa. Ngài ban cho họ Man-na để khỏi bị chết đói, cho họ nước uống để khỏi chết khát.

Sau khi được no nê và không bị chết khát, họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Mai-sen. Với thái độ bất trung và phản bội như thế, một hiện tượng đã xẩy ra cho dân, đó là biến cố rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Trong nguy cơ đó, họ mới biết sợ và năn nỉ tổ phụ Mai-sen xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Mai-sen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.

Con rắn đồng ở đây như là hình ảnh của Tình Yêu, quan tâm, chăm sóc. Đó là dấu chỉ của một con tim biết yêu thương, luôn tha thứ và mở rộng để đón nhận tất cả.

Sau khi nhắc lại về sự tích con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ”. Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương và muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình.

Thiên Chúa luôn yêu thương, kiên tâm chờ đợi việc quay về nẻo chính đường ngay của con người. Các câu chuyện trở về được kể lại trong Sách Thánh cho chúng ta thấy rằng: Khi trở về, Thiên Chúa không kể lể các hành vi bất trung của con người. Trở về với giao ước để đầu phục Ngài là Thiên Chúa duy nhất và chúng ta là thần dân của Ngài là đủ rồi. Về trong nhà của Thiên Chúa, con người sẽ tìm thấy tất cả những gì đã đánh mất trong thời gian đi hoang.

Anh chị em thân mến,

Vẫn biết là Đức Giê-su đã hoàn tất dự án của Thiên Chúa, đã bộc lộ cho thế gian nhận biết Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian đến dường nào. Nhưng, tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng không vì thế mà lợi ích của chúng ta lại thua kém những người cùng thời với Người.

Thật ra, họ cũng giống như chúng ta, phải chờ đến ánh sánh Phục Sinh, nhất là dưới quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần rồi mới nhận ra, nơi Người ơn cứu độ chứa chan cho những ai Tin vào Đức Giê-su. Như thế, Đức Tin là một việc làm đáp trả hồng ân không chỉ bằng lời nói, nhưng qua cách sống, một lối sống hoàn toàn phụ thuộc vào quyền năng của Đức Ki-tô, mà với lòng tin, chúng ta tôn vinh Người là CHÚA.

Thật đúng như lời bảo đảm của Chúa nói hôm nay: “Ai tin thì sẽ không bị lên án, còn ai không tin sẽ bị kết án.” Những người không tin không bị kết án bởi Thiên Chúa, mà chính họ tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố, bướng bỉnh, chỉ muốn tự mình làm chủ và loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của họ.

Nhưng, với trải nghiệm trong cuộc sống, anh chị em đều hiểu rằng lòng tin cần được chứng tỏ bằng việc làm của mình, như lời của Thánh Gia-cô-bê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải được biểu lộ trong cuộc sống của một con người đến để phục vụ.

Nói cho cùng thì Tin rồi Yêu và càng yêu thì càng tin. Đó chính là lối sống của người môn đệ. Chúng ta không bộc lộ, không diễn tả tình yêu của riêng mình. Nhưng, tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trong mọi tình huống, trong mọi giai đoạn, ngay cả những lúc yếu đuối nhất… để mà bước đi và quảng bá cho thế gian biết rằng Tình yêu của Chúa vẫn trường tồn trong lối sống của mình.

Thật vậy, trong thân phận của những người môn đệ, chúng ta hãnh diện và xác tín rằng: chỉ có tình yêu mới làm cho con người luôn sống trong hy vọng về một tương lai tươi đẹp hơn những gì mà chúng ta, cùng với toàn thể Giáo Hội - kẻ có tội hay không có tội đều thuộc về Thân Thể Chúa - đang đối diện.

Tình yêu luôn mở ra các cơ hội để con người đến với nhau.

Tình yêu là cánh cửa mở ra cho bàn tay và khối óc của mỗi người bước vào.

Tình yêu là động lực giúp ta cùng bước để loan báo bằng chính cuộc sống mình rằng: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng sống vì người mình yêu".

Đức Giêsu đã tuyên bố như thế và Người đã sống chính Lời Người nói ra bằng việc đi đến cùng con đường Người tự chọn để thể hiện Tình Yêu của Người. Cái chết trên thập giá diễn tả mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng... Chết cho Tình Yêu để rồi sống mãi cho Tình Yêu.

Với niềm tin vào sự hiện diện của Đức Kitô, chúng ta xác tín rằng: Chúa Giêsu mong muốn lối sống hy sinh, yêu thương và phục vụ hết mình này được tiếp tục qua cuộc sống của mỗi tín hữu, trong đó có bạn và tôi, kẻ có tội cũng như kẻ bị lạm dụng, không ai bị loại trừ.


Friday, 2 March 2018

ĐỀNTHỜ: NƠI THỜ PHƯỢNG hay HANG TRỘM CƯỚP?




Các hành động của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng theo Thánh Gio-an hôm nay là một ‘dấu chỉ’. Qua dấu chỉ này, Đức Giê-su muốn dậy cho chúng ta biết rằng Đền Thờ đích thật chính là Thân Thể của Người. Giống như hoàn cảnh của chúng ta, các môn đệ phải nhờ đến ánh sáng Phục Sinh, có nghĩa là sau khi Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, hmới hiểu thấu ý nghĩa của việc Chúa làm hôm nay.

Như chúng ta được biết, đền thờ Giê-ru-sa-lem là trung tâm, giữ một vai trò quan trọng trong việc thiết lập và phát triển đạo Do Thái. Đó còn là dấu chỉ nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa và với sự tồn tại của đền thờ, những người Do Thái còn hãnh diện được làm dân riêng của Thiên Chúa, dòng giống mà Thiên Chúa đã tuyển chọn.

Thưa anh chị em,
Theo thông lệ, hàng năm, vào dịp lễ Vượt qua, mọi công dân Do Thái buộc lên đền thờ Giê-ru-sa-lem tham dự các nghi lễ theo luật dậy. Mỗi gia đình phải dâng tế phẩm cho Thiên Chúa, nộp vào đền thờ các phần hoa lợi trong năm, đồng thời thi hành các tục lệ và mừng Đại Lễ Vượt qua, làm sống lại việc can thiệp của Thiên Chúa cứu thoát dân vượt qua Biển Đỏ.

Một điều đáng cho chúng ta lưu tâm là dân từ khắp nơi tuôn về; và các phương tiện di chuyển thời đó không nhanh chóng và thuận tiện như chúng ta ngày nay. Nói chung, họ phải đi bộ mấy ngày đường thì làm sao có thể mang theo của lễ theo như luật dậy. Vì thế, người ta buôn bán những vật liệu cần thiết cho việc tế tự và xử dụng các loại tiền riêng để nộp thuế đền thờ. Nghĩa là, dịch vụ buôn bán và đổi chác là các phương tiện cần thiết giúp cho dân thực hành việc tế lễ.

Nhưng, thay vì xử dụng chức vụ để phục vụ nhu cầu tế tự của dân chúng. Trái lại, để kiếm lợi, các thầy thượng tế và hàng ngũ tư tế đã tổ chức các bàn đổi tiền ngay tại sân đền thờ, đồng thời buôn bán những con vật để làm của lễ như chiên, bò và chim câu. Họ độc quyền trong việc áp dụng bảng giá thật khắt khe để thu lợi nhiều hơn. Dân đen vẫn là đám thua thiệt và bị chèn ép.

Đó là điều Đức Giêsu không thể chấp nhận, Người nổi giận vì tâm địa tàn ác, óc não vụ lợi, xử dụng chức quyền vào mục đích riêng tư của cá nhân và phe nhóm họ. Khi xua đuổi những người đổi tiền và những người buôn bán ra khỏi đền thờ là Đức Giêsu đã đụng chạm đến quyền lợi, uy danh của tầng lớp thế lực là các thượng tế và luật sĩ. Thiên Chúa không còn là đối tượng của việc thờ phượng cho nhóm họ, trái lại Thiên Chúa đã trở thành bình phong cho các mưu đồ riêng tư của cá nhân và phe nhóm họ.

Đức Giê-su đã không chỉ vì an toàn cho bản thân mà làm ngơ trước hành vi sai trái của họ. Đức Giê-su còn biết rất rõ là họ sẽ chống đối và tìm cách tiêu diệt Người. Nhưng vì lòng yêu mến Thiên Chúa và những người dân vô tội, Đức Giêsu đã hành động quyết liệt:  xô đổ bàn ghế, lấy dây làm roi xua đuổi chiên bò và còn ra lịnh cho họ: hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi nơi đây và đừng biến nhà Cha Người thành hang trộm cướp.

Thưa anh chị em,
Qua hành động rất quyết liệt của Đức Giêsu khiến chúng ta có thể nghĩ rằng: Người làm như thế không chỉ đơn giản là việc xua đuổi mấy con buôn; nhưng Người muốn thay đổi một quan điểm, lật nhào một hệ thống tôn giáo đã mất gốc và đem đến một luồng gió mới, phục hồi lại bản chất đích thực của việc thờ phượng, tái tạo một lối sống đạo, trong đó Thiên Chúa là gốc và cùng đích của mọi sinh hoạt. Và, không có một tà thần nào có thể thay thế Thiên Chúa. Không có một kiểu thờ ngẫu tượng nào thay thế một tâm hồn chân chính trong việc phụng thờ Thiên Chúa được. Điều này đã đuợc thể hiện thật rõ ràng qua Lời Người phán “các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người nói như thế để ám chỉ đến Đền Thờ mới là Thân Thể Người. Nhưng, họ đã không hiểu. Làm thế nào họ có thể hiểu được khi con tim và đôi mắt của họ chỉ nhắm đến việc thu vén tiền của và củng cố uy quyền mà thôi.

Theo tinh thần của Đức Giê-su thì tôn giáo hay đạo không chỉ dựa trên một hệ thống giáo điều và các việc tế tự tập trung vào trong tay của giai cấp lãnh đạo đền thờ mà thôi. Đạo chính là con đường, là lối sống đuợc xây dựng trên các mối tương quan giữa những kẻ tin với nhau. Và trong niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta nhớ lại lời dậy bảo của Chúa: Người muốn việc làm của chúng ta được phát sinh bởi lòng mến, lòng thương xót đối với người khác chứ không bằng hy lễ hay các nghi thức tế tự mà thôi. Hy lễ tuy cần thiết, nhưng nếu các điều đó không được phát sinh bởi tình yêu và lòng thương xót thì các nghi thức tế lễ cũng chỉ có tính chất trình diễn, nặng về mặt hình thức và chúng ta vẫn bị luẩn quẩn trong các nghi thức chết và không có sức sống (Mt 9: 13).

Đền thờ tuy cần thiết cho tôn giáo, nhưng nếu đền thờ không còn mang ý nghĩa là tụ điểm của yêu thương, không còn là nơi để con người thờ phượng Chúa và chia sẻ tình huynh đệ thì cho dù đền thờ có nguy nga, tráng lệ và bền vững đến đâu cũng chẳng còn ích lợi gì cho lối sống đạo của chúng ta nữa. Ngoài ra, nếu cách biểu lộ việc sống đạo của chúng ta chỉ còn được diễn tả bằng các hình thức tế tự tại các đền thờ và quên đi tình yêu và lòng thương xót mà Đức Giê-su đã làm gương, thì lối sống đạo hình thức đó còn đem lại giá trị và hậu quả gì nữa đây!
Thật vậy, lối sống của Chúa là lối sống mở ra để đón nhận mọi người. Trong tình yêu thì không có biên cương, không bị giới hạn và trói buộc bởi hệ thống giáo điều, cơ cấu hay đền đài. Sự sống của Người là lối sống chia sẻ, nghĩa là sống cho và sống với người khác; đặc biệt là những ai bị bỏ rơi, những ai bị liệt vào hạng tội lỗi. Tất cả đều được mời gọi đồng bàn với Người; và khi đồng bàn với Người thì Người ban cho họ sức mạnh đổi mới, mời gọi họ chia sẻ con đường và lối sống của Người. Đến lúc đó, chúng ta có thể hãnh diện làm chứng rằng chính thật chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa.

Thưa anh chị em,
Trong tâm tình đó, chúng ta hãy dành đôi phút để nhìn vào thực tế những gì mà Giáo Hội tại các nước Tây Phương, đặc biệt tại Úc đang phải đối diện. Làm sao chúng ta không đau lòng khi đọc bản báo cáo của Uỷ Ban Hoàng Gia điều tra về các vụ lạm dụng tình dục trẻ em, cho rằng có 60% những vụ lạm dụng xẩy ra trong các tổ chức của Giáo Hội Công Giáo. Họ đã bị lạm dụng bởi vì họ đã trao niềm tin của họ cho một vài người thuộc giai cấp lãnh đạo, để rồi chính họ đã phải ôm một mối hận trong lòng mà không làm sao có thể thoát ra được.

Những sự kiện này được gọi là ‘xâm phạm hay lạm dụng tình dục’. Cụm từ tuy ngắn gọn, nhưng ảnh hưởng và sự thiệt hại của nó rất lớn. Nó ám chỉ đến hành vi phản bội về mặt tinh thần, tâm lý và sinh lý của một người có chức quyền đối với người kém thế hơn; đặc biệt là đối với trẻ em. Nó để lại trong tâm hồn và đời sống của các nạn nhân những vết thương và sự thù ghét Giáo hội. Đôi khi, họ còn mang mặc cảm bị khước từ. Họ cắn răng chịu đựng trong tủi nhục. Có một số người lại lâm vào trạng thái ‘trầm cảm’ và nghĩ là mình không còn xứng đáng thuộc về cộng đồng mà họ mong muốn là một thành viên.

Có một số người trong chúng ta cho rằng Uỷ Ban Hoàng Gia được thành lập để khai thác và làm mất uy tín của các tổ chức trong Giáo Hội Công Giáo, đặc biệt là công kích hàng ngũ lãnh đạo. Cái nhìn như thế xem ra không chính xác. Thật ra, những người trong Uỷ Ban tuy có trình độ chuyên môn riêng, nhưng họ làm việc theo nhóm. Dù nhiều người trong ủy ban có khả năng về luật pháp, nhưng họ chỉ đề nghị với các nhà lãnh đạo của các tổ chức liên hệ tìm cách chấm dứt tình trạng mà chúng ta ngày nay coi như là ‘tội ác’ này. Họ không kết tội. Họ giúp chúng ta thanh lọc và yêu cầu mọi người tôn trọng công lý để bảo vệ mọi thành phần có cuộc sống an vui. Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người miễn là chúng ta nhận ra bàn tay và sự can thiệp của Thiên Chúa nơi các con người đó.

Khi nhìn vào những vết sẹo, những nỗi hằn do các chi thể trong Thân Thể của Đức Kitô tạo ra, cũng là dịp giúp chúng ta nhận ra tính mỏng dòn và yếu đuối của con người. Tuy nhiên, chúng ta không nhìn lại các sự kiện xẩy ra trong quá khứ, đôi khi bị coi là tội ác đó, bằng cái nhìn mặc cảm, chán nản, thất vọng và buông xuôi. Trái lại, qua đó chúng ta nhận ra được một điều là chỉ Trong Chúa, con người mới được đổi mới. Với Đức Ki-tô, chúng ta mới tìm thấy cách thức thờ phượng Thiên Chúa đích thật.

Phần chúng ta, hãy tiếp tục nỗ lực đổi thay bằng cách xây dựng cuộc đời và lối sống đạo của mình trên nền tảng của Đức Ki-tô Phục Sinh; nghĩa là xây dựng hình ảnh Đức Ki-tô trong đời mình đến mức hoàn hảo hơn.