Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp tục thuật
lại sinh hoạt của Đức Giê-su tại hội đường Na-da-rét trong ngày hưu lễ. Đức
Giê-su, các môn đệ và bà con trong làng tụ họp với nhau để cử hành việc thờ phượng.
Họ hát Thánh ca, nghe sách Thánh và cầu nguyện. Họ đã nghe danh tiếng, những lời
giảng dậy và các việc Đức Giê-su làm tại các nơi khác, cho nên ai cũng háo hức
và nôn nóng đến nghe Người giảng.
Sau khi công bố Lời Chúa trong sách ngôn
sứ I-sa-ia, tiên báo về vai trò của Đấng Mê-si-a, Đấng được Thần Khí Thiên Chúa
xức dầu tấn phong để trở thành Đức Kitô. Nhiệm vụ của Đấng Thiên Sai là rao giảng
Tin Mừng cho người nghèo, loan báo niềm vui được giải thoát cho những ai bị
giam cầm, cởi trói cho những ai đang bị gông cùm và đem đến cho con người một nền
tự do đích thật. Quan trọng hơn cả là công bố và thiết lập năm hồng ân của
Thiên Chúa nơi bản thân và sứ vụ của Người. Đức Giêsu đọc xong thì ngồi xuống và
nói cho họ biết rằng những điều mà tai họ vừa nghe đã ứng nghiệm nơi bản thân
và sứ vụ của Người. Vắn gọn, rõ ràng và đi thẳng vào trọng tâm của sứ điệp.
Thái độ và phản ứng của thính giả
trong hội đường khiến chúng ta ngạc nhiên. Thoạt đầu họ đều tán thành và khâm
phục những lời hồng ân thốt ra từ miệngNgười. Nhưng tại sao mọi người đang từ
chỗ tán thành và ca tụng, đột ngột chuyển sang chống đối, rồi mức độ đối kháng
tăng dần cho đến độ tất cả “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng
dậy, lôi … kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.”
Nguyên do nào khiến cho phản ứng của
các thính giả trong hội đuờng ngày hôm đó lại biến chuyển như thế, từ thán phục
đến chống đối và có ý định thủ tiêu Người?
Hình như nội dung bài giảng của Đức
Giê-su không phải là nguyên nhân tạo nên sự phẫn uất của những người đồng hương.
Thật ra, dựa vào trình thuật hôm nay thì chúng ta chưa hề nghe trọn vẹn nội
dung bài giảng của Chúa. Người chỉ vừa mở đầu bài giảng bằng câu “hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Quả thật đây là câu then chốt. Giả
như Đức Giê-su là một trong các vị tư tế hay có vai trò lãnh đạo trong hội đường
thì việc loan báo ứng nghiệm lời Kinh Thánh hôm nay còn có cơ may được họ chấp
nhận. Nhưng vị trí của Đức Giê-su trong kinh nghiệm và ý nghĩ của họ không phải
như thế! Họ biết quá rõ về gia thế, địa vị và các phần tử trong gia đình của
Chúa. Chẳng có gì sáng giá! Bần cùng, nghèo hèn. Tất cả đều rất bình thường.
Người chỉ là con bác thợ mộc Giu-se mà họ đều quen biết. Như vậy làm sao họ có
thể chấp nhận được việc Người quả quyết là Lời Chúa mà ngôn sứ I-sa-ia đã loan
báo lại có thể được thực hiện nơi bản thân Người.
Từ lối suy nghĩ đó, họ cho Chúa một
cơ hội là hãy làm cho họ thấy những gì mà Người đã làm ở các nơi khác. Quả thật,
yêu cầu này không phải là điều quá đáng. Nhưng Đức Giê-su đã không chiều theo sở
thích của họ. Trái lại, Đức Giê-su mà Thánh Luca đã trình bầy ở đây không phải
là một con người dễ dàng bị trói buộc bởi đám đông hay bởi bất cứ một hệ thống
nào. Người không lo tìm kiếm sự hỗ trợ và tôn vinh của dân chúng, cũng không vịn
vào sự thành công bởi các việc Người làm. Người cũng không làm các phép lạ để tạo
sự tín nhiệm và gây thanh thế kéo đám đông về phe mình. Người hoàn toàn tự do để
thực hiện ý định mà Thiên Chúa muốn Người thực hiện, cho dù gặp chống đối hay
thất bại.
Số phận của ngôn sứ là thế. Chỉ biết
phục vụ Lời. Người nói “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê quán
mình.” Điều này có nghĩa là Người biết ơn gọi của Người là gì, và Người chấp nhận
số phận của một ngôn sứ giống như số phận mà các ngôn sứ trong truyền thống đã
phải lĩnh nhận. Tuy kết quả là như thế; nhưng không một ngôn sứ nào có thể từ
khước nhiệm vụ đã được trao ban ngay khi còn trong lòng thân mẫu; và chính Thiên
Chúa không chỉ ở cùng ngôn sứ, mà còn là thành trì bảo vệ ngôn sứ để chiến thắng
kẻ thù, như trong trường hợp của ngôn sứ Giê-rê-mi-a mà bài đọc một đã mô tả.
Như vậy, qua việc loan báo ơn gọi
ngôn sứ và chấp nhận sự từ khước của dân chúng, Đức Giê-su đã cho chúng ta thấy
mục tiêu cuộc sống của Người là làm đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, thay vì làm cho
họ được hài lòng thì Đức Giê-su lại làm khác. Người trích dẫn và nhấn mạnh đến sứ
mạng mà các ngôn sứ như Ê-li-a và Ê-li-sa đã thực hiện tại Si-don và Xy-ria, là
các vùng của dân ngoại. Mục tiêu mà Đức Giê-su trích dẫn hai vị ngôn sứ này là muốn
cho những người đồng hương biết rằng Người không đến để thực hiện và ban phát hồng
ân cho riêng họ mà thôi. Người còn có trách nhiệm đem tin vui, loan báo Năm Hồng
Ân cho những con chiên lạc của nhà Is-ra-en nữa. Thật tuyệt diệu khi chúng ta
nhận ra ý tưởng truyền giáo và đem Tin Mừng ra khỏi biên cương Do Thái giáo được
đề cập một cách thật khéo léo ở đây.
Kính thưa anh chị em,
Sự sai lầm của những người thuộc làng
Na-da-rét khi xưa có thể là sai lầm của chúng ta hôm nay. Chúng ta nhiều lần vịn
vào tư cách như đã được rửa tội, đã sống đạo lâu năm, đã góp công góp của xây dựng cơ sở Giáo Hội, gia
đình mình có nhiều con cháu là tu sĩ, làm linh mục, v.v… rồi buộc Chúa phải trả
công bội hâụ. Thiên Chúa không phải là ông chủ ngân hàng, để rồi chúng ta gửi
vào đó những công việc để sinh lời rồi sau này buộc ông chủ phải trả lại cả vốn
lẫn lời cho chúng ta. Những suy nghĩ đó phát sinh từ việc chúng ta quên rằng tất
cả đều là hồng ân. Và Thiên Chúa hoàn toàn tự do ban phát các ân huệ cho chúng
ta, ngay từ khi chúng ta chưa thuộc về Ngài. Trước sự giầu sang và đại lượng của
Thiên Chúa, chúng ta mãi mãi là những người nghèo, thiếu thốn và luôn luôn cần đến
sự quan tâm và yêu thương của Ngài.
Bài học và hành động từ chối đón nhận
Chúa của dân làng Na-da-rét khi xưa luôn là lời cảnh giác cho mỗi người chúng
ta hôm nay. Chúng ta không được phép bắt Người phải quan tâm và dành cho chúng
ta một sự chiếu cố đặc biệt. Tuy nhiên, chính sự từ khước của dân làng
Na-da-rét khi xưa không làm Chúa buồn, trái lại Người coi đó như là dấu chỉ dẫn
Đức Giê-su nhận ra con đường của Người. Một con đường chông gai, đầy sỏi đá… cuối
cùng bị khước từ và chết tủi nhục trên Thập Giá để cứu độ con người. Nhưng đó lại
là một con đường tình mà Thiên Chúa đã dọn cho Người, để Người tự do thực hiện
Lời Người đã phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy,
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng
là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
Tất cả đều được xuất phát từ lòng mến,
đó là ơn cao trọng nhất và cũng là con đường hoàn hảo nhất mà Thánh Phao-lô
trong bài đọc thứ hai hôm nay nhấn mạnh. Theo Thánh nhân thì cái lợi duy nhất
mà con người cần đạt được là ở lại trong lòng mến của Thiên Chúa. Đó chính là
thước đo, là nến tảng của mọi công việc của chúng ta trong cuộc sống chứng
nhân.
Cái khác biệt giữa lời của ngôn sứ với
tất cả lời của bất cứ bậc hiền triết hay các nhà thông thái và khôn ngoan nào
đó, chính là trong Lời của ngôn sứ có chứa đựng và truyền tải một sức mạnh yêu
thương dẫn chúng ta đến Chúa, nguồn ơn cứu độ. Đó là điều mà Đức Giê-su đã thực
hiện tại Na-da-rét và Người muốn mọi tín hữu hãy lập lại những gì mà chúng ta
lĩnh nhận hôm nay để cho dù có gặp khó khăn hay bị từ khước chúng ta vẫn hiên
ngang chu toàn ơn gọi ngôn sứ của mình, vì chính Chúa là thành trì bảo vệ và
giúp ta chiến thắng mọi nghịch cảnh làm chúng ta đi ngược lại Ý muốn của Chúa. Amen!
No comments:
Post a Comment