Chúng ta cùng với toàn
thể Hội Thánh mừng Lễ Chúa Phục Sinh. Sứ điệp mà chúng tôi cảm nhận là nguồn hy
vọng của Chúa Phục Sinh, Đấng đem lại bình an cho thế giới. Trong niềm hy vọng,
chúng ta tin rằng thế giới sẽ đổi mới, cộng đoàn giáo xứ, gia đình và người người
sẽ đổi mới. Hy vọng là thế đấy, ngóng chờ trong hy vọng. Tuy nhiên, trên thực tế,
bộ mặt của thế gian này dường như vẫn như thế. Tội ác vẫn tiếp tục xẩy ra. Con
người vẫn sống trong lo sợ. Không biết chỗ nào mới là chốn an toàn đây! Hiện
tình thế giới là thế. Chiến tranh bên Ukraine vẫn còn. Những vụ thảm sát và giết
hại những người tin vào Đức Kitô vẫn xẩy ra. Ngay từ đầu, Hội Thánh đã bị bách
hại.
Trong niềm hiệp thông,
chúng ta cầu nguyện cho các nạn nhân. Trong tình liên đới chúng ta san sẻ nỗi
đau buồn bằng tinh thần và vật chất đến gia đình họ. Và chúng ta xác tín rằng
những hành vi tàn ác này sẽ không thể dập tắt ánh sáng và niềm hy vọng của
chúng ta vào Chúa Phục Sinh, Đấng đã khải hoàn và chiến thắng quyền lực của sự
dữ cũng như mọi hình thức tội ác của nó. Tuy nhiên, chúng ta không thể chối bỏ
tâm trạng lo sợ trước quyền lực của sự dữ vẫn đang hoành hành và xem ra thống
trị tại một vài nơi trên thế giới. Nỗi lo sợ này khiến chúng ta nhớ lại tâm
tình và sự sợ hãi của các môn đệ của Đức Giê-su sau ngày Người tử nạn.
Phản ứng của nhóm môn đệ
thật bình thường. Đứng trước các diễn tiến và các biến cố mà các ông đã chứng
kiến hay được nghe về Thầy mình trong mấy ngày qua khiến các ông sợ hãi. Thầy
mình với quyền năng cả thể như thế mà còn bị giết, phương chi là chúng mình,
thân cô thế cô và không nơi nương tựa.
Chúng ta hiểu được nỗi
lo sợ của các ông. Ông nào cũng có hoài bão và tham vọng riêng. Chúng ta không
thể đặt kỳ vọng quá cao nơi họ để rồi mất đi niềm cảm thông về cách cư xử mang
thật tính người của họ. Họ không thể vì theo Chúa mà mất đi bản tính riêng. Họ
đến với Chúa bằng con người thật và những gì thuộc về họ.
Thế giới mà họ ước mong
được chia phần đã sụp đổ và còn chống lại các môn đệ nữa. Cho nên, họ sợ người
Do Thái, và có thể họ còn sợ Chúa sẽ khiển trách họ về cách cư xử như nộp Người
và trối Chúa của một số người trong nhóm họ nữa.
Anh chị em thân mến,
Tuy nhiên có một chi tiết
mà Thánh sử ghi lại hai lần ở đây khiến cho chúng ta cần quan tâm, đó là tính cộng
đoàn của các môn đệ. Tuy các ông đã thất vọng về các biến cố mà các ông đã chứng
kiến trong mấy ngày qua. Thầy mình đã chết thật. Nhưng không vì thế mà các ông
bị tan tác. Các môn đệ tụ họp lại với nhau trong một căn phòng mà nhiều người
đã giải thích là các ông họp nhau để cầu nguyện. Và, điều này thật cần thiết
cho các môn đệ trong giai đoạn mất mát lớn lao này.
Khi Thầy mình còn sống
các ông đã để cho tham vọng, cái tôi và sự yêú hèn trong thân phận làm người ảnh
hưởng trên lối hành xử của các ông. Đằng sau tất cả các tham vọng, hoài bão và
ước mơ của các môn đệ là một con người yếu đuối, nghèo nàn và bất an. Nhưng
trong giây phút này, khi mọi sự không còn; các ông không còn biết bám vào đâu,
chỉ biết liên kết trong thinh lặng và nhất là trong suy tư. Chính các điều này
đã giúp các môn đệ trở về chính mình mà nhận ra các nỗi yêú đuối của bản thân
mà hỗ trợ và củng cố cho nhau.
Trong bối cảnh như thế,
chắc hẳn các môn đệ đã căng thẳng khi nhận ra sự xuất hiện của Thầy mình, Đấng
đang hiện diện trước mặt họ. Họ có đủ mọi lý do để mong nhận được sự khiển
trách của Thầy, xem họ như là những kẻ ngỗ ngược và bất trung; thậm chí họ có
thể bị đuổi ra khỏi nhóm.
Thế mà, chúng ta nghe
được Chúa nói gì với họ đây? Người nói: “Bình an cho anh em! “ Nói xong,
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy
Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã
sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các
ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai,
thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Lời Chúa vừa phán và
hành động Người vừa làm có nghĩa gì?
Hình như, Người muốn
nói rằng Thầy rất hiểu và thông cảm cho lối suy nghĩ của các con. Anh em đã ân
hận về cách cư xử của anh em đối với Thầy hay sao? Thầy biết, anh em đã trải
qua một giai đoạn đầy bi thương. Thầy biết rằng giữa anh em và trong lòng anh
em có những vết thương cần được chữa lành.
Người ta tưởng là đã giết
được Thầy. Anh em không thấy sao, đây là lỗ đinh đóng vào tay Thầy; đây là vết
giáo người ta đâm. Tất cả đau thương này bao gồm cả sự chết tủi nhục mà anh em
đã chứng kiến đều là Thánh Ý của Cha. Thầy vui lòng đón nhận. Đó là con đường
mà Chúa Cha dọn sẵn cho Thầy. Vì thế, anh em đừng buồn nữa, hãy vui với Thầy vì
Thầy đã hoàn tất sứ mạng mà Cha trao phó. Thầy vui cho nên anh cũng vui với Thầy,
vì Thầy đi về cùng Cha, và giờ đây Thầy trở lại để cùng sống với anh em. Không
khí trong phòng giờ này tràn ngập niềm vui bởi vì các môn đệ đã nhận ra đích thực
là Thầy.
Tuy nhiên, Thầy còn biết
rằng anh em chưa thể đón nhận nên tự trách mình đã không chia sẻ Thánh Giá với
Thầy. Đừng để những ý tưởng đó dầy vò và
làm cho anh em bị đau khổ và sống trong lo sợ nữa. Sai lầm là bản tính của con
người, tuy nhiên sự tha thứ lại thuộc về Thiên Chúa và Chúa Giê-su Phục sinh sẵn
sàng trao ban quyền năng tha thứ cho các môn đệ. Sự tha thứ mà các ông vừa được
trao ban là động lực giúp các ông đối xử với nhau một cách khoan dung và thông
cảm cho nhau hơn. Cách sống khoan dung sẽ giúp cho họ bỏ đi ước muốn tranh dành
địa vị, quyền lực và thống trị. Lòng khoan dung và thông cảm giúp họ dễ dàng đến
với nhau hơn, dễ dàng chấp nhận các điểm yếu của nhau và giúp nhau thăng hoa
cái tốt, những điều thiện hảo của nhau. Tất cả là ân phúc của Chúa Phục Sinh.
Chúng ta còn nhiều việc
phải làm. Và để thể hiện ý định đó, Chúa Giê-su đã thổi hơi, nghĩa là thổi thêm
sinh khí, ban thêm năng lực và sức sống mới cho các môn đệ, các điều này không
ban cho họ để hưởng thụ, mà trao ban để thi hành sứ mạng. Sứ mạng tha cho nhau
phải được thể hiện bởi quyền năng của Đấng Phục Sinh. Và chỉ có Thần Khí của
Chúa Phục Sinh mới làm cho các môn đệ thi hành và hoàn tất sứ mạng cao cả này.
Thưa anh chị em,
Trong lần hiện ra thứ nhất này chúng ta không hiểu tại sao Tô-ma lại vắng
mặt? Các môn đệ khác đã kể lại cho ông biết về việc này: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, nhưng họ đã
không làm chứng về điều họ tuyên xưng cho nên làm sao Tô-ma có thể tin
vào lời loan báo của các bạn mình được. Họ vẫn đóng kín vì sợ hãi. Cho dù Thần
khí và năng quyền đã đuợc trao ban, nhưng các bạn của Tô-ma đã không để cho sức
mạnh của Thần Khí tác động, họ vẫn chưa ra khỏi vùng an toàn, vẫn dựa vào các
cánh cửa đã đuợc đóng kín để bảo vệ, chưa sẵn sàng ra đi rồi vịn cớ là không biết
đi đâu! Lời loan báo của họ không đi đôi với việc làm như thế thì làm sao có thể
truyền lửa cho Tô-ma đuợc.
Còn Tô-ma, ông muốn niềm tin của ông phải dựa trên trải nghiệm của cá
nhân; ông muốn giác quan (xúc giác) của ông có thể chạm vào các thương tích
trên thân thể của Chúa, nên đáp rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin.” Tô-ma
muốn có một trải nghiệm riêng. Nhờ Tô-ma, chúng ta thấy tình thương của Chúa
cao cả dường nào. Như Tô-ma, chúng ta đưa ra các điều kiện, vòi vĩnh để được thấy
Chúa mà tin vào Chúa. Chúa bao dung nên sẵn sàng chấp nhận để trao ban cho
chúng ta một kinh nghiệm. Người muốn tỏ mình theo cách thế riêng cho từng người
để một cách riêng biệt, chúng ta nhận biết Người.
Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra với các ông, lần
này có mặt Tô-ma. Trước tiên, Người cũng ban bình an cho các môn đệ rồi quay
sang Tô-ma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra
mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tô-ma đã đáp trả
bằng một niềm xác tín rằng Người là Chúa và là Thiên Chúa của ông. Sau đó qua Tô-ma,
Chúa đã trao ban cho chúng ta thêm mối phúc nữa là “Phúc thay những người không
thấy mà tin.”
Niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh không phải
là việc dễ làm, đôi khi tiến trình dẫn chúng ta đến niềm tin này kéo dài trong
suốt đời mình. Chúng ta cần được Chúa Phục Sinh củng cố và thúc đẩy luôn để
chúng ta tin và tin một cách vững chắc hơn vào sự hiện diện của Người trong mọi
ngày của cuộc sống.
Tin vào Chúa Phục Sinh, Đấng đang đồng hành và
hiện diện với chúng ta là hiệu quả của ơn bình an. Nói khác đi, đây chính là ơn
đầu mùa mà Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ. Người không chỉ ban một lần,
nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Người đã lập lại đến ba lần ‘Bình an cho anh
em.'
Đó chính là ân huệ đầu mùa của Chúa Phục Sinh
dành cho các môn đệ. Không ai hiểu trò bằng thầy. Đức Giê-su thấu hiểu lòng trí
hoang mang và các nỗi sợ hãi của các môn đệ, cùng nhau co rúm và trốn trên lầu
vì sợ người Do Thái. Vì thế họ cần được bình an để thoát khỏi nỗi âu lo này.
Hơn nữa, tâm hồn và lòng trí của các môn đệ cũng cần được thanh thản, bình an, ổn
định để nhận ra người đang hiện diện với các ông là Chúa Giê-su, người thầy yêu
dấu của họ. Trong lúc lĩnh nhận ơn bình an này các môn đệ cũng hiểu rằng họ
cũng được mời gọi trao ban cho người khác điều mà họ vừa lĩnh nhận, nghĩa là trở
thành sứ giả bình an cho nhân loại.
Cầu chúc anh chị em chúng mình là sứ giả bình
an của Chúa Phục Sinh, vì chính Người là nền tảng và cùng đích làm cho chúng ta
được an bình rồi ra đi để chu toàn sứ mạng làm hòa với Thiên Chúa và với nhau.
Bình an là sứ mạng mà Đức Ki-tô Phục Sinh đã
đem đến, chúng ta hãy ra đi mà trao cho nhau ân phúc tuyệt vời này.
Bình an của Chúa Phục Sinh ở cùng anh chị em.
Amen!
No comments:
Post a Comment