Wednesday, 30 August 2023

MÔN ĐỆ: SỐNG TỪ BỎ VÌ YÊU.


Sau lời tuyên xưng Đức Ki-tô là Chúa và là Con Thiên Chúa thì lập tức Thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu tán thưởng và cho thánh nhân biết lời tuyên xưng của Phê-rô là hồng ân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã soi sáng cho thánh nhân biết chân tướng đích thật của Chúa Giê-su. Nhờ vào hành động tin yêu và phó thác nên Chúa đã trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho Phê-rô. Không chỉ có thế, Chúa còn muốn đặt ông làm đá tảng cho tòa nhà Hội Thánh mà Chúa muốn xây dựng trên nền tảng đó.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta khám phá ra mặt khác của thánh nhân. Sự thấu hiểu và nhận biết của Phê-rô về Chúa vẫn là cái biết theo nghĩa thế gian, vì thế sau khi đuợc Chúa tỏ ra cho ông biết là Người phải đi lên Giêrusalem để chịu đau khổ và sau cùng bị giết thì Phêrô lại lên tiếng can ngăn Thầy đừng đi. Ông còn xin Thiên Chúa bảo vệ Thầy mình khỏi bị giết chết nữa. Tấm lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Ông nghĩ rằng Thầy là Chúa, và ông vừa đuợc Thầy tấn phong để làm ‘boss’ thay mặt Thầy, làm đá  tảng cho người ta dựa. Thế mà Chúa lại nói Người sẽ bị đau khổ, rồi bị giết chết thì ông và nhóm 12 biết nuơng tựa vào ai đây! Nghe đến đâu lòng ông xốn xang đến đó. Vì thế, với tính bộc trực, nghĩ sao nói vậy, Phê-rô đã lên tiếng ngăn cản ý định của Thầy. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Như chúng ta đã biết, Phêrô đuợc đặt làm tảng đá nền móng để Chúa xây Hội Thánh của Người. Chúa xây chứ không phải Phêrô, và Hội Thánh là của Chúa chứ không phải của Phêrô. Vì thế, các góc cạnh của tảng đá đó cũng cần đuợc mài dũa để trở thành chỗ dựa cho các thành phần trong Hội Thánh Chúa. Trong tinh thần đó, tôi hình dung ra cảnh Thánh Phêrô, sau khi nghe xong lời khiển trách của Đức Giêsu, Ngài chỉ gãi đầu gãi tai và thưa cùng Chúa rằng: Thầy biết con yêu mến Thầy, con đâu muốn Thầy chịu khổ! Còn Chúa vẫn kiên tâm trong việc huấn luyện khi đã chọn Phêrô làm đá tảng. Thế là hòa cả làng.

Nhận biết và tuyên xưng Đức Kitô là Chúa, truớc tiên là một hồng ân; sau đó mới đến việc bổ nhiệm và trao ban năng quyền. Giống như thánh Phêrô, chúng ta không tự ‘đặt’ hay ‘bon chen, tìm cách để đuợc đặt’ vào vai trò lãnh đạo. Nhưng, đó là sự chọn lựa phát xuất một cách nhưng không bởi hồng ân của Thiên Chúa. Bổn phận của Phêrô và chúng ta, những môn đệ của Chúa là biết sống và lệ thuộc vào Đấng đã chọn và đặt chúng ta vào vị trí đó.

Như Thánh Phêrô, khi tuyên xưng Đức Kitô là Chúa là lúc chúng ta đặt cuộc sống mình duới quyền chỉ huy, quyền sinh sát của vị Chúa tể đó. Có nghĩa là lúc đó chúng ta không còn sống cho mình nữa; nhưng chấp nhận lối sống từ bỏ. Bỏ mình, chấp nhận đau khổ, vác Thập giá để theo Thầy… tất cả những điều đó không còn là các điều kiện mà là các yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên cuộc sống của người môn đệ. Và một khi chúng ta không thực hành việc bỏ mình và không sẵn sàng vác Thập giá thì chúng ta không còn là môn đệ chân chính của Chúa nữa.

Đến đây, xin thành thật chia sẻ với anh chị em rằng: Đã nhiều lần, trong lúc ngắm nhìn Thánh Giá Chúa, tôi đã quyết tâm sống Lời Chúa phán: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa”, thì ngay lúc đó lại có một lực khác kéo tôi dừng lại. Tôi hành động như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng; thay vì từ bỏ mọi sự để theo Chúa thì anh lại quay mặt lại với Chúa và tiếp tục bám víu vào những gì anh đang thụ hưởng. Phần Chúa, Người tôn trọng chọn lựa của anh, buồn sầu nhìn anh với lòng tiếc thương.

Các lời khuyên của Tin Mừng mà tôi đã cam kết sống vẫn chất vấn tôi; nhưng trên thực tế, tôi vẫn chưa thực hiện đuợc bao nhiêu. Có thể nói nhiều nhưng việc áp dụng cụ thể bằng hành động thì chưa đến đâu! Vẫn còn tham, còn dính bén, muốn đuợc làm chủ, chưa dám bỏ mình, ai chạm vào ý riêng, cái tôi (super-ego) của mình sẽ thấy ngay phản ứng của tôi, cho dù chưa bộc phát nhưng lòng vẫn không vui!… Ai nói về thập giá bằng tôi! Nhưng, chưa hẳn đã dám vác chưa nói đến yêu mến. Giả như có chấp nhận vác thì cũng thật miễn cuỡng, thiếu cộng tác, v.v...

Từ bỏ không phải là bỏ mặc và coi thuờng mạng sống mình, hay là việc áp dụng lối sống khổ chế, ghét mình, coi thuờng thân xác mình như một số người có quan niệm cho rằng thân xác là nguồn gốc của sự tội, vì thế phải đánh cho đau để nhớ mà chừa. Chẳng thà bị đau mà nên hoàn thiện còn hơn lành lặn về thể xác nhưng lòng lại xa Chúa… nên cần phải đánh xác như kiểu đánh tội thủa xưa…

Thật ra, từ bỏ mình vì yêu. Yêu Chúa không chỉ bằng lời nói hay hành động nhất thời; nó đòi hỏi chúng ta phải trung thành theo Chúa đến tận cùng của con đuờng Thập giá.

Từ bỏ là hy sinh. Đó là điều mà các bậc làm cha làm mẹ đã và đang sống. Tôi nhận ra mẫu gương hy sinh của các ngài. Trong việc giáo dục các ngài làm gương trước rồi dậy bảo và giáo huấn sau. Cha mẹ mình làm mọi sự để hỗ trợ cho con cái. Cha mẹ không chỉ đưa con cái mình đến truờng, nhưng còn len lén nhìn qua hàng rào để thấy con cái mình đi vào lớp học bình an. Để làm gương cho con cái, các ngài còn tham gia các sinh họat của nhà truờng như: cổ động viên cho các trận thể thao, tham gia các chương trình âm nhạc và gây quỹ. Họ tình nguyện phục vụ trong các ủy ban và các hoạt động khác của nhà truờng. Họ tham dự các sinh họat của Hội Phụ Huynh và gặp gỡ Thầy Cô.

Nói chung, các bậc làm cha làm mẹ muốn làm mọi thứ để có thể trở thành một phần trong các sinh họat của con họ. Họ làm như thế để nói cho những người con họ nhận biết rằng ba mẹ luôn đứng sau lưng, hỗ trợ cho các sinh họat tại nhà truờng của con. Vì sao! Vì yêu con cái nên họ vui lòng chấp nhận hy sinh. Đó không phải là việc dễ dàng. Nó đòi hỏi sự hy sinh thật cao cả và vĩ đại. Đôi khi, các bậc phụ huynh đã phải làm một chọn lựa thật khó khăn giữa nhu cầu riêng trong cuộc sống cá nhân mà họ muốn làm, và việc tham dự một sinh họat để hỗ trợ con cái.

Không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết tấm lòng của cha mẹ mình. Nếu có thì chỉ là tình yêu và tấm lòng hy sinh của các ngài.

Thưa anh chị em,

Vẫn biết rằng từ bỏ mình, vác thập giá đi theo Chúa là những yếu tố cần thiết của người môn đệ, tín hữu của Hội Thánh. Nhưng trong bài suy niệm hôm nay, tôi nhấn mạnh và đề cao tấm lòng hy sinh, yêu thương và gương sáng của cha mẹ như một lời tri ân, nhân dịp mừng ‘ngày của cha (ba - bố)’ hôm nay. Uớc mong, Chúa tiếp tục chúc phúc và hiện diện trong mọi cảnh huống của cuộc đời bố (ba) chúng con, để các ngài mãi mãi là chỗ dựa, là đá tảng vững chắc cho mẹ, người bạn đồng hành, các con và các cháu của ba. Happy Father’s Day.

 

Tuesday, 29 August 2023

MÔN ĐỆ: SỐNG TỪ BỎ VÌ YÊU.


Sau lời tuyên xưng Đức Ki-tô là Chúa và là Con Thiên Chúa thì lập tức Thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu tán thưởng và cho thánh nhân biết lời tuyên xưng của Phê-rô là hồng ân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã soi sáng cho thánh nhân biết chân tướng đích thật của Chúa Giê-su. Nhờ vào hành động tin yêu và phó thác nên Chúa đã trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho Phê-rô. Không chỉ có thế, Chúa còn muốn đặt ông làm đá tảng cho tòa nhà Hội Thánh mà Chúa muốn xây dựng trên nền tảng đó.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta khám phá ra mặt khác của thánh nhân. Sự thấu hiểu và nhận biết của Phê-rô về Chúa vẫn là cái biết theo nghĩa thế gian, vì thế sau khi đuợc Chúa tỏ ra cho ông biết là Người phải đi lên Giêrusalem để chịu đau khổ và sau cùng bị giết thì Phêrô lại lên tiếng can ngăn Thầy đừng đi. Ông còn xin Thiên Chúa bảo vệ Thầy mình khỏi bị giết chết nữa. Tấm lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Ông nghĩ rằng Thầy là Chúa, và ông vừa đuợc Thầy tấn phong để làm ‘boss’ thay mặt Thầy, làm đá  tảng cho người ta dựa. Thế mà Chúa lại nói Người sẽ bị đau khổ, rồi bị giết chết thì ông và nhóm 12 biết nuơng tựa vào ai đây! Nghe đến đâu lòng ông xốn xang đến đó. Vì thế, với tính bộc trực, nghĩ sao nói vậy, Phê-rô đã lên tiếng ngăn cản ý định của Thầy. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Như chúng ta đã biết, Phêrô đuợc đặt làm tảng đá nền móng để Chúa xây Hội Thánh của Người. Chúa xây chứ không phải Phêrô, và Hội Thánh là của Chúa chứ không phải của Phêrô. Vì thế, các góc cạnh của tảng đá đó cũng cần đuợc mài dũa để trở thành chỗ dựa cho các thành phần trong Hội Thánh Chúa. Trong tinh thần đó, tôi hình dung ra cảnh Thánh Phêrô, sau khi nghe xong lời khiển trách của Đức Giêsu, Ngài chỉ gãi đầu gãi tai và thưa cùng Chúa rằng: Thầy biết con yêu mến Thầy, con đâu muốn Thầy chịu khổ! Còn Chúa vẫn kiên tâm trong việc huấn luyện khi đã chọn Phêrô làm đá tảng. Thế là hòa cả làng.

Nhận biết và tuyên xưng Đức Kitô là Chúa, truớc tiên là một hồng ân; sau đó mới đến việc bổ nhiệm và trao ban năng quyền. Giống như thánh Phêrô, chúng ta không tự ‘đặt’ hay ‘bon chen, tìm cách để đuợc đặt’ vào vai trò lãnh đạo. Nhưng, đó là sự chọn lựa phát xuất một cách nhưng không bởi hồng ân của Thiên Chúa. Bổn phận của Phêrô và chúng ta, những môn đệ của Chúa là biết sống và lệ thuộc vào Đấng đã chọn và đặt chúng ta vào vị trí đó.

Như Thánh Phêrô, khi tuyên xưng Đức Kitô là Chúa là lúc chúng ta đặt cuộc sống mình duới quyền chỉ huy, quyền sinh sát của vị Chúa tể đó. Có nghĩa là lúc đó chúng ta không còn sống cho mình nữa; nhưng chấp nhận lối sống từ bỏ. Bỏ mình, chấp nhận đau khổ, vác Thập giá để theo Thầy… tất cả những điều đó không còn là các điều kiện mà là các yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên cuộc sống của người môn đệ. Và một khi chúng ta không thực hành việc bỏ mình và không sẵn sàng vác Thập giá thì chúng ta không còn là môn đệ chân chính của Chúa nữa.

Đến đây, xin thành thật chia sẻ với anh chị em rằng: Đã nhiều lần, trong lúc ngắm nhìn Thánh Giá Chúa, tôi đã quyết tâm sống Lời Chúa phán: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa”, thì ngay lúc đó lại có một lực khác kéo tôi dừng lại. Tôi hành động như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng; thay vì từ bỏ mọi sự để theo Chúa thì anh lại quay mặt lại với Chúa và tiếp tục bám víu vào những gì anh đang thụ hưởng. Phần Chúa, Người tôn trọng chọn lựa của anh, buồn sầu nhìn anh với lòng tiếc thương.

Các lời khuyên của Tin Mừng mà tôi đã cam kết sống vẫn chất vấn tôi; nhưng trên thực tế, tôi vẫn chưa thực hiện đuợc bao nhiêu. Có thể nói nhiều nhưng việc áp dụng cụ thể bằng hành động thì chưa đến đâu! Vẫn còn tham, còn dính bén, muốn đuợc làm chủ, chưa dám bỏ mình, ai chạm vào ý riêng, cái tôi (super-ego) của mình sẽ thấy ngay phản ứng của tôi, cho dù chưa bộc phát nhưng lòng vẫn không vui!… Ai nói về thập giá bằng tôi! Nhưng, chưa hẳn đã dám vác chưa nói đến yêu mến. Giả như có chấp nhận vác thì cũng thật miễn cuỡng, thiếu cộng tác, v.v...

Từ bỏ không phải là bỏ mặc và coi thuờng mạng sống mình, hay là việc áp dụng lối sống khổ chế, ghét mình, coi thuờng thân xác mình như một số người có quan niệm cho rằng thân xác là nguồn gốc của sự tội, vì thế phải đánh cho đau để nhớ mà chừa. Chẳng thà bị đau mà nên hoàn thiện còn hơn lành lặn về thể xác nhưng lòng lại xa Chúa… nên cần phải đánh xác như kiểu đánh tội thủa xưa…

Thật ra, từ bỏ mình vì yêu. Yêu Chúa không chỉ bằng lời nói hay hành động nhất thời; nó đòi hỏi chúng ta phải trung thành theo Chúa đến tận cùng của con đuờng Thập giá.

Từ bỏ là hy sinh. Đó là điều mà các bậc làm cha làm mẹ đã và đang sống. Tôi nhận ra mẫu gương hy sinh của các ngài. Trong việc giáo dục các ngài làm gương trước rồi dậy bảo và giáo huấn sau. Cha mẹ mình làm mọi sự để hỗ trợ cho con cái. Cha mẹ không chỉ đưa con cái mình đến truờng, nhưng còn len lén nhìn qua hàng rào để thấy con cái mình đi vào lớp học bình an. Để làm gương cho con cái, các ngài còn tham gia các sinh họat của nhà truờng như: cổ động viên cho các trận thể thao, tham gia các chương trình âm nhạc và gây quỹ. Họ tình nguyện phục vụ trong các ủy ban và các hoạt động khác của nhà truờng. Họ tham dự các sinh họat của Hội Phụ Huynh và gặp gỡ Thầy Cô.

Nói chung, các bậc làm cha làm mẹ muốn làm mọi thứ để có thể trở thành một phần trong các sinh họat của con họ. Họ làm như thế để nói cho những người con họ nhận biết rằng ba mẹ luôn đứng sau lưng, hỗ trợ cho các sinh họat tại nhà truờng của con. Vì sao! Vì yêu con cái nên họ vui lòng chấp nhận hy sinh. Đó không phải là việc dễ dàng. Nó đòi hỏi sự hy sinh thật cao cả và vĩ đại. Đôi khi, các bậc phụ huynh đã phải làm một chọn lựa thật khó khăn giữa nhu cầu riêng trong cuộc sống cá nhân mà họ muốn làm, và việc tham dự một sinh họat để hỗ trợ con cái.

Không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết tấm lòng của cha mẹ mình. Nếu có thì chỉ là tình yêu và tấm lòng hy sinh của các ngài.

Thưa anh chị em,

Vẫn biết rằng từ bỏ mình, vác thập giá đi theo Chúa là những yếu tố cần thiết của người môn đệ, tín hữu của Hội Thánh. Nhưng trong bài suy niệm hôm nay, tôi nhấn mạnh và đề cao tấm lòng hy sinh, yêu thương và gương sáng của cha mẹ như một lời tri ân, nhân dịp mừng ‘ngày của cha (ba - bố)’ hôm nay. Uớc mong, Chúa tiếp tục chúc phúc và hiện diện trong mọi cảnh huống của cuộc đời bố (ba) chúng con, để các ngài mãi mãi là chỗ dựa, là đá tảng vững chắc cho mẹ, người bạn đồng hành, các con và các cháu của ba. Happy Father’s Day.

 

CHẤT VẤN ĐỂ TÌM SỰ SỐNG!


Kinh Tin Kính thường dùng trong các nghi thức truyền chức, khấn dòng và bổ nhiệm sứ vụ mà chúng ta thường gọi là sai đi. Việc làm này có nghĩa là các tiến chức cần tuyên xưng niềm tin truớc khi đón nhận sứ vụ của Hội Thánh hay của Dòng mình. Theo nghi thức, đó là việc cần làm. Tuy nhiên, trong thực tế cả đời họ có thể vẫn chưa hòan thành đuợc tâm nguyện hay quyết tâm của ơn gọi mà họ lĩnh nhận trong ngày đó.

Đây là một kinh nghiệm. Khi còn trẻ, tôi thuờng mong ước làm một việc gì đó giúp cho bộ mặt cộng đòan nơi mình sinh sống đuợc đổi mới. Suy nghĩ của tôi tuy đơn giản, nhưng rất chủ quan như nếu mình đuợc huấn luyện, với ơn Chúa và sự cộng tác của cộng đòan giáo xứ… thì mình có thể làm đuợc? Giờ này, ngồi nghĩ lại, tôi thấy mình thật ngu ngơ khi có ý tưởng ngộ nghĩnh này. Nhưng, nếu đặt mình trở lại với bối cảnh của những ngày đầu tiên trong hành trình tìm kiếm ơn gọi thì quả thật uớc mơ đó đã giúp đỡ và hâm nóng ý chí của tôi rất mạnh.

Sau gần hai phần ba đường dài của cuộc sống, với mọi nỗ lực và cố gắng… tôi nhận ra mình chưa làm đuợc gì hết… Vẫn như ngày đầu tiên… Tâm nguyện vẫn còn… Nhưng lực bất tòng tâm và đèn cũng sắp cạn hết dầu …

Từ những nhận xét và trải nghiệm của bản thân, tôi đọc lại trình thuật Tin Mừng. Hôm nay, Đức Giêsu đặt vấn nạn cho các tông đồ. Với bản tính bộc trực, nghĩ sao nói vậy, Thánh Phêrô đã tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Cho dù Thánh Phêrô vẫn chưa hiểu hết về Thầy mình; nhưng để có thể tuyên xưng như thế cũng là một hồng ân như Chúa nói: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc…”

Thánh nhân có biết mình đã nói gì hay không? Hay cũng như lúc ở trên núi Hiển Dung, khi đuợc diễm phúc nhìn thấy vinh quang sáng láng của Thầy, Phêrô đã xin điều mà chính ông ta không biết mình đã xin Chúa điều gì!

Sau phần tuyên tín là lúc Đức Giêsu bộc lộ con đuờng mà Con Thiên Chúa phải đi thì Thánh Phêrô đã ngăn cản Người. Lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Trên đường thuơng khó Phêrô đã chối Thầy đến 3 lần… Tuy nhiên, Phêrô cũng là người đã bộc lộ tình yêu và lòng mến dành cho Thầy… Thánh nhân cũng có nhiều tài năng để trở thành một môn đồ tốt, Ngài thẳng thắn, tự tin, chăm chỉ và nhất là lúc nào cũng muốn và trở thành một người bạn thiết nghĩa với Thầy mình.

Nói chung, Thánh Phêrô là một con người bộc trực, thẳng thắn, có sao nói vậy, không che đậy, không tính tóan hơn thiệt như các bạn của ông tìm cách để ngoi lên chỗ cao hơn… Ông tự nhận mình là người tội lỗi… Chính vì thế mà Chúa lại tín nhiệm ông hơn. Những giới hạn của Thánh Phêrô chính là điều khiến ông trở nên gần gũi hơn với Đức Giêsu. Chính vì nhận ra mình còn khiếm khuyết và tội lỗi, nên Thánh nhân đã nhận ra sự lệ thuộc duy nhất mà ông cần nắm vững đó là Thầy mình: Chúa Giêsu.

Ông không tự mình là đá tảng. Chính Chúa làm ông trở thành đá tảng; và Chúa sẽ xây công trình của Người trên tảng đá ấy “anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” Như vậy, ‘tảng đá’ ấy sẽ trở nên vô hiệu nếu không lệ thuộc vào Chúa.

Thưa anh chị em,

Còn anh chị em nói Thầy là ai?

Chúng ta có thể có muôn vàn câu trả lời dựa trên sách vở và kiến thức về Đức Giêsu; nhưng tất cả những câu trả lời đó sẽ đem lại gì cho chúng ta. Hãy nhìn lại cuộc sống của mình.

Có thật chúng ta tin nhận Người là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Meisa, được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và mở lối chỉ đuờng cho chúng ta về với Cha hay không? Và, nếu đó là điều chúng ta tuyên xưng thì chính cuộc sống của mình cần đuợc thể hiện sao cho phù hợp với điều mà chúng ta tuyên xưng hay chưa? Hay là chúng ta tin một đàng, sống một nẻo, làm như đời và đạo vẫn là hai mặt tách biệt của cuộc sống, không gắn bó và ăn nhập gì với nhau.

Đức Giêsu là ai?

Tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này không phải là việc dễ dàng. Có thể, trong suốt cuộc sống chúng ta cũng chỉ thấy mờ mờ mà thôi. Câu chuyện sau có thể giúp chúng ta thấy mình xuất hiện đâu đó trong truyện kể.

Trong một lớp giáo lý, dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, ma-sơ mới hỏi các em: Còn các con, các con nói Đức Giêsu là ai? Cả lớp nhao nhao, có cháu nói Nguời là Thiên Chúa, cháu khác lại nói là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa… v.v. Gom chung lại thì các cháu nói đúng như văn bản của Kinh Tin Kính mà chúng ta thường tuyên xưng trong các Thánh Lễ Chúa Nhật và các dịp Lễ Trọng.

Trong khi các em trả lời thì ma-sơ nhìn thấy một bé trai ngồi ở góc lớp, im lặng, mắt nhìn ra cửa sổ, đăm đăm như có chuyện gì khó giải quyết. Sơ đến gần, chăm chú nhìn cháu rồi một lần nữa nhắc lại câu hỏi. Cháu thẫn thờ trả lời: Thưa sơ, con không biết! Con chỉ biết là hiện nay em con đang bị ốm, trong nhà không có tiền để mua thuốc. Ba con đóng quân ở một vùng rất xa. Mẹ đang chạy ngược chạy xuôi ngòai chợ… Nếu Đức Giêsu là Chúa thì sao Người không săn sóc cho em con.

Ma-sơ và cả lớp ngạc nhiên truớc lời đối đáp của bạn. Chẳng ai biết làm gì! Sau cùng, bà sơ lấy ra một túi nhỏ, tự mình bỏ vào đó vài đồng cắc và chuyền túi đó cho cả lớp… rồi trao cho em để mua thuốc cho em mình.

Qua hành động và chứng từ như thế, chúng ta sẽ làm chứng Đức Giêsu là ai, không bằng văn tự, cho dù đó là bản tuyên xưng của Hội Thánh; nhưng đó chính là những trải nghiệm của cuộc sống. Người đến để mời gọi chúng ta hy sinh, quan tâm, yêu thuơng và thỏa mãn các nhu cầu của nhau. Chúng ta không tự mình có thể làm đuợc điều đó. Chúa mới là cội nguồn của sự việc. Chúa làm trong chúng ta. Chúa không làm thay vì Người đã ban và muốn dùng chúng ta như những dụng cụ, như ‘đá tảng’ để thể hiện uy quyền của Người, không chỉ trong Hội Thánh Công giáo mà cho mọi người.

Vì thế, việc chọn Thánh Phêrô làm đá tảng là việc của Chúa. Thánh Phêrô biết rõ nhiệm vụ của mình, và nhiệm vụ đó chỉ còn hữu hiệu và hữu dụng khi biết lệ thuộc vào Chúa. Còn chúng ta, cũng đuợc mời gọi để làm đá tảng cho nhau, cho con cái, cho người thân và cho tất cả những ai muốn tìm chỗ dựa. Do đó, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng nên biết rằng tảng đá không do mình đặt; nhưng người đặt là Chúa. Nên việc lệ thuộc vào Chúa là việc quan trọng hàng đầu mà chúng ta cần làm. Có như thế, mình sẽ trở thành chỗ dựa vững chãi cho người khác, bằng không thì sụp đổ tan tành.

Cầu xin cho chúng ta sống điều chúng ta thường tuyên xưng. Amen!

CUỘC GẶP GỠ TUYỆT VỜI!


Cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su và người phụ nữ xứ Ca-na-an trong bài Tin Mừng Chúa nhật 20 Mùa thường niên năm A thật tuyệt diệu. Bà tha thiết nài xin Chúa chữa cho cô con gái duy nhất của bà khỏi bị quỷ ám. Cuối câu chuyện Chúa đã chữa cho cô được khỏi bịnh. Nhưng giữa lời cầu xin của bà và việc chữa lành của Đức Giê-su là những lời đối thoại thật khó nghe từ Chúa. Tuy nhiên, cả hai nhân vật trong trình thuật đến với nhau bằng lòng chân thành và cả hai đều ‘khát khao’ tìm cách lấp đầy uớc muốn của nhau cho nên Đức Giê-su và người phụ nữ ngoại giáo đã gặp nhau. Sau đây chúng ta cùng nhau tìm hiểu ước mong, lòng can đảm pha chút lỳ lợm của người phụ nữ và tính phổ quát của ơn cứu độ mà Đức Giê-su muốn tỏ bầy.

Người phụ nữ Ca-na-an đã làm một hành động mà ít ai dám làm. Vì là dân ngọai và được coi như kẻ thù của dân Ít-ra-en cho nên việc bà công khai đến gặp Đức Giêsu có thể gây ra nhiều điều dị nghị. Hơn thế nữa, việc bà dám nói chuyện với một nam nhân giữa chốn đông người cũng không phải là hành vi hay cử chỉ của một phụ nữ đoan chính thời đó. Bà sẵn sàng đón nhận những lời chỉ trích và khinh khi từ kẻ khác, thậm chị các lời phê bình này có thể xuất phát từ môi miệng của những người trong nhóm của bà. Bà không còn thời gian để nghĩ đến những điều mà chúng ta vừa nói ở trên. Ngay lúc gặp Đức Giê-su, bà chỉ nghĩ được một điều duy nhất là tìm đến người sẽ chữa cho con bà khỏi bịnh. Chỉ có Tình yêu mới là động lực thúc đẩy bà vuợt qua mọi trở ngại.

Hòan cảnh của bà thật nghèo nàn. Bà cần giúp đỡ. Điều bà cầu xin nói lên tâm tư của một người mẹ, sẵn sàng làm tất cả mọi sự cho con mình. Cô con gái đó là nguồn vui, lẽ sống và là mọi sự của bà. Thế mà giờ đây, cô bị bịnh nan y, như bị quỉ ám. Bà cần làm tất cả cho con bà. Tình yêu, lòng thuơng xót của bà dành cho cô ta thúc đẩy bà vuợt qua mọi ranh giới.

Bà biết mình đâu được hưởng những đặc ân dành cho dân Is-ra-el. Tuy nhiên, trong lòng một cơn khát vô bờ bến. Tuy phận là phận của người ngọai giáo, nhưng bà lại xưng hô với Đức Giêsu theo cách của người Do Thái thưa chuyện với Đức Mêsia, kêu cu rằng: “Lạy Ngài là Con vua Đa-vít”. Dù là như thế, lời cầu xin của bà vẫn không được Chúa đáp nhận; cho đến khi bà đã tôn thờ Đức Giêsu như người ta bái lạy Thiên Chúa. Niềm xác tín của bà thật vĩ đại, dù là chó con, bà cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn của chủ rơi xuống.

Còn Đức Giêsu thì sao? Người đến để thi hành ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, với thân phận của một con người, Người cũng bị giới hạn về phong tục, địa dư, bối cảnh mà Người đã được sai đến. Người có đuợc sai đến vẫn là cho dân Is-ra-el trước hết.

Cho dù là như thế, chúng ta cũng không mấy hài lòng về thái độ của Đức Giêsu. Người thinh lặng và xem ra coi thuờng lời van xin của người phụ nữ Ca-na-an. Thật ra, không hẳn là như thế. Bởi vì, khi mô tả và trình bầy Đức Giêsu như thế, Thánh sử muốn đưa chúng ta đi từ ngạc nhiên, có thể gọi là bất đồng về thái độ của Chúa… Nhưng, khi gặp đuợc lòng kiên định và xác tín của bà; Chúa lại có cơ hội phá tung và quét sạch mọi cấm kỵ, mọi qui uớc, mọi lề luật do ‘tính bè phái’ của con người (nhỏ nhen, ích kỷ) tạo ra.

Quả thật cũng không sai khi chúng ta cho rằng nhờ vào sự kiên trì pha chút bướng bỉnh người phụ nữ Ca-na-an này mà Đức Giêsu đã có cơ hội bộc lộ chân tuớng đích thật của Đấng Thiên Sai; Đấng đuợc sai đến không chỉ dành cho người Do Thái mà thôi. Người đến để đem nguồn vui và ơn cứu độ cho muôn dân.

Sau cùng, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, còn một nhóm người nữa. Họ là các môn đệ tượng trưng cho mỗi người chúng ta. Chỉ vì quyền lợi riêng, chỉ muốn được bình an, cho dù là giả tạo, nên đã xin Chúa bảo bà ấy đi để khỏi bị quấy rầy. Chúng ta đã gặp lời yêu cầu này trong trong phép lạ bánh hóa nhiều, khi các môn đệ không nhìn thấu nhu cầu của dân chúng mà chỉ biết đến quyền lợi của phe nhóm mình, muốn giữ lấy Đức Giê-su cho các mục tiêu mà họ đang đeo đuổi. 

Thưa anh chị em,

Khi nghe câu chuyện này, chúng ta dễ nhận ra thân phận mình trong thân phận của người phụ nữ Ca-na-an. Cũng như bà, chúng ta chạy đến với Chúa để xin ơn, cho dù là ơn cứu độ. Nhưng, chúng ta đã kiên tâm như bà hôm nay chưa? Và thay vì xin cho nhu cầu của riêng mình; chúng ta có quảng đại trong lời cầu, xin cho những người đuợc Chúa gửi đến trong vòng tay yêu thuơng của chúng ta hay chưa? Không ai có thể trả lời các câu hỏi nêu trên thay cho chúng ta!

Muốn đạt đuợc nguyện uớc này, chúng ta cần có một trái tim quảng đại và nhậy cảm trước các nhu cầu thể chất và tinh thần của tha nhân mà chúng ta thuờng gặp. Họ không chỉ là những người đồng đạo, cùng chia sẻ một tín ngưỡng, cùng chung một quan điểm với chúng ta. Thật ra, còn có nhiều người mà chúng ta liệt họ vào ‘phe khác’; nhưng họ lại có lối sống và niềm tin mãnh liệt hơn chúng ta. Họ xứng đáng đón nhận phần ăn từ trên bàn của chủ, như chúng ta.  Nhưng, đã nhiều lần, chỉ vì óc bè phái, tinh thần thủ cựu, khư khư ôm giữ truyền thống và tục lệ mà chúng ta đã ngăn cản họ đồng bàn và cùng chia sẻ hồng ân với mình. Chúng ta còn tự nhốt mình vào pháo đài của giai cấp rồi tự cao tự đại, kiêu căng cho rằng chỉ có mình mới là kẻ xứng đáng rồi khinh chê người khác. Thật ra, không ai trong chúng ta lại không có một chút ‘huyết thống’ với những người mà chúng ta gọi là dân ngọai. Thế mà lại ra vẻ ta đây, giở giọng đạo đức giả, tôn kính Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng thì lại xa Chúa.

Hãy nhớ rằng: tình yêu dành cho cô con gái, sự bình thản nhưng cương quyết pha một chút bướng bỉnh của người phụ nữ Ca-na-an hôm nay đã khiến Chúa động lòng thương và từ chỗ động lòng thương Người đã nhận ra tính phổ quát của ơn cứu độ của Thiên Chúa. Người không chỉ được sai đến cho dân Do Thái mà còn cho lũ chó con nữa bởi vì tất cả đều là con của Thiên Chúa. Nơi Người, ơn cứu độ chứa chan, không loại trừ một ai. Cũng thế, những ‘lũ chó con’ mà chúng ta gặp trong cuộc sống không là những trở ngại, mà còn là cơ hội để chúng ta nhận ra sự phong phú của Thiên Chúa, Đấng không chỉ họat động nơi các kẻ tin mà còn âm thầm tác động nơi ‘lũ chó con’ để tất cả muôn dân đều đuợc cứu độ. Amen!

Wednesday, 9 August 2023

ĐỪNG SỢ, HÃY TIN VÀO THẦY


Trước khi suy gẫm việc Đức Giê-su đi trên mặt biển trong bài Tin Mừng hôm nay, xin mời anh chị em cùng ôn lại cuộc vuợt biển năm nào. Chuyến vượt biên nào cũng trải qua những giây phút kinh hoàng và khiếp sợ. Đầy gian khổ. Kẻ bị lừa. Người vào tù. Người chết vì bão tố. Lại có một số người bị hải tặc tấn công, cướp bóc nhục mạ cho đến chết, chết không toàn thây. Nói chung nếu cho chọn lại không mấy ai dám vượt biển nữa. Đối với tôi, biến cố ra đi tìm sự sống qua cõi chết vẫn là một sự cố kinh hòang mà tôi không thế nào quên được.

Trong chuyến vượt biên vào năm 1982, thuyền của chúng tôi đã bị mắc kẹt trong cơn bão (thật ra là gần cuối cơn bão). Chúng tôi đã trải qua những giây phút thật hoảng sợ. Hầu như tất cả đều bất lực truớc sự tàn phá của thiên nhiên.

Có khoảng chừng tám mươi người trên tầu. Ngọai trừ gia đình chủ tầu, tài công là những người quen biết nhau từ trước; còn chúng tôi hòan tòan xa lạ đối với nhau. Một số gốc Công giáo; những người khác theo Phật giáo và còn một số là tín đồ của các giáo phái như Cao Đài… Nói chung, trong giây phút nguy hiểm đó, tất cả chúng tôi không cần biết mình thuộc tôn giáo nào nữa. Tất cả đều qui huớng về Đấng Chí Tôn, Đấng Tạo Hóa để cầu xin. Chỗ này lần hạt cầu nguyện, chỗ kia niệm kinh Nam Mô. Chúng tôi cùng chia sẻ một niềm tin vào Đấng Tạo Dựng và điều khiển vũ trụ. Chúng tôi tin rằng chỉ có sức mạnh tối cao từ Đấng Tạo Hóa, Đấng có thể cứu chúng tôi khỏi cơn gian nan đầy nguy hiểm này.

Thời gian cứ thế trôi qua. Sóng biển vẫn tiếp tục gầm thét như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi vào lòng biển. Tất cả đều quá mệt mỏi và đuối sức đến độ ngay cả lời cầu nguyện cũng im dần. Tất cả đều chờ đợi sự chộp bắt của Thần Chết.

Thật may mắn, sau đó cơn bão đã suy yếu dần. Thuyền của chúng tôi tiếp tục lênh đênh trên biển cả. Năm ngày sau, chúng tôi được sự hướng dẫn của các nhân viên trên dàn khoan dầu, con thuyền từ từ đến đảo Ku-ku, một trong những hòn đảo rất quen thuộc đối với các thuyền nhân tạm cư tại các trại tỵ nạn bên In-đô.

Thành thật mà nói, tôi nghĩ rằng không có ai trong chúng ta còn đủ can đảm để đi trên biển trong hoàn cảnh như thế! Và, cho đến hôm nay, mỗi lần đi dạo trên bờ biển, nhất là vào buổi tối, đứng nhìn sự bao la và cũng rất đáng sợ của biển cả, cảm giác sợ hãi vẫn ám ảnh. Tôi nhận ra cuộc vượt biên ra đi tìm sự sống trong cái chết của chúng ta quả thật đáng sợ; và việc đến được bến bờ tự do quả thật diệu kỳ, chỉ còn biết coi đó là hồng ân mà thôi.

Thưa anh chị em,

Như anh chị em đã biết, đối với những người sống cùng thời với Chúa Giêsu. Họ tin rằng, sự kết hợp của biển cả và bão tố là biểu tượng của sự tàn phá và hỗn loạn; nó đe doạ sự sống của con người. Thậm chí, tại một số nền văn hoá cổ đại, người ta vẫn tin rằng bão tố là biểu tuợng của thần dữ, tàn phá và tạo nguy hiểm cho chúng sinh.

Trong khi đó, Tin Mừng hôm nay đã trình bầy Đức Giêsu đi trên biển và làm cho sóng gió yên lặng. Thánh sử không nhắm đến việc Đức Giêsu làm phép lạ cho bằng nhấn mạnh đến quyền năng tái tạo của Người. Chúa có quyền trên sóng gió biển cả, có quyền trên các thế lực có thể hủy họai thế giới. Người đem đến sự bình an bằng cách khơi khơi đi trên mặt biển.

Không chỉ như thế, Người còn cho phép Phêrô và mỗi nguời chúng ta có thể làm được như thế. Phê-rô nhẹ nhàng đi trên mặt biển khi nhìn và tin vào Chúa. Đến lúc ông chú tâm vào giông tố và sóng gió, không tập trung vào sự hiện diện của Chúa thì ông bắt đầu bị chìm. Phê-rô đã quên điều Chúa nói “hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Đó chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho chúng ta.

Thực tế, sợ hãi, lo sợ gắn liền với cuộc sống của con người; nó cứ quấn lấy mình. Đã làm người thì không ai trong chúng ta có thể thoát đuợc một vài lần kinh sợ. Nó làm cho chúng ta mất bình an, sống lo âu. Vì biết tầm nguy hiểm và những tác hại của nỗi sợ hãi nên Chúa nói “hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!”

Thế mà, chúng ta vẫn sợ, sợ mọi thứ và cũng có lúc không biết mình sợ gì nữa. Dường như sự lo âu và sợ hãi gắn liền với cuộc sống của con người. Trong lúc âu lo và sợ hãi đó, chúng ta không còn nhìn thấy được gì. Cuộc sống dường như được bao phủ bởi màn đêm, chỉ còn nhìn thấy chung quanh đâu cũng là nguy hiểm, cho dù xoay xở thế nào cũng không đi ra khỏi vùng xoáy đó. Bước ra khỏi tầu sẽ bị chết đuối. Ở lại trong tầu thì bị sóng dập.

Thưa anh chị em,

Vấn đề không dừng lại ở cách chọn lựa của chúng ta để đối diện với những khó khăn nhất thời. Việc quan trọng mà Đức Giê-su muốn đặt ra cho chúng ta hôm nay là mời Người lên thuyền và trao tay lái để Người điều khiển. Giống như kết quả đã được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay là khi Đức Giê-su lên thuyền thì sóng gió ngừng, biển lại an bình và nguy cơ để tầu bị đắm không còn nữa.

Đây là một trong các chủ đề chính mà cộng đoàn của Thánh Mát-thêu sẵn sàng tuyên xưng. Khi ngự đến trong cung lòng của Mẹ mình, Đức Giê-su đã được gọi là ‘Emmanuel’ có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và trước khi về cùng Cha, Đức Giê-su đã hứa sẽ cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Nói như thế, thì chúng ta cảm thấy vô cùng may mắn, vì dù trong hoàn cảnh nào, cho dù cuộc sống có khó khăn và gian nan đến đâu thì Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Người vẫn hiện diện và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Như vậy, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta sống tin tưởng hơn để đối diện với các khó khăn, gian nan và nguy hiểm trong cuộc sống. Thiên Chúa vẫn ở cùng chúng ta. Đấng đang hiện diện với chúng ta trong mọi cảnh huống. Hãy tin rằng chúng ta được Chúa yêu thuơng. Chúa yêu ta vô bờ bến. Tay Chúa vẫn dang rộng để chờ đợi và nắm bắt ta khi ta bắt đầu chìm. Đừng sợ, nhưng hãy tin.

Thật vậy, con người chỉ thắng được các nỗi sợ hãi nhờ tin vào Ðức Giêsu, Ðấng đã nhẹ nhàng đi trên mặt biển vì Tin vào quyền năng của Thiên Chúa lúc nào cũng họat động trong Người và với Người. Người đã không ngã gục vì sợ hãi mà đã đi tới cùng theo ý định của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ được như thế. Hãy tin và mời Chúa lên con thuyền cuộc đời và trao tay lái cho Người vì Người sẽ điều khiển và lèo lái con thuyền của chúng ta đến bến bờ bình an. Amen!

 

Wednesday, 2 August 2023

HIỂN DUNG: ĐỔI MỚI và VỮNG TIN


Trước tiên xin gửi đến anh chị em một kinh nghiệm vô cùng quí báu.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nuớc và dân tộc Việt Nam đã bước sang một trang sử mới. Nói chung, cuộc sống của chúng ta trong giai đoạn đó thật khó khăn. Hội Thánh phải dè dặt trong mọi sinh hoạt để thăm dò phản ứng của nhà cầm quyền. Bọn dân đen ngửa cổ trông chờ chỉ thị và hướng dẫn của các vị lãnh đạo. Các tu viện bị hạn chế sinh hoạt, các cơ sở và chương trình đào tạo tạm đóng cửa. Mọi sinh hoạt tôn giáo đã được thu gọn lại trong khuôn viên của xứ đạo và nhà thờ. Một tâm trạng sợ hãi bao trùm khiến con người cảm thấy bị nghẹt thở.

Trong khi đó, có một số rất ít các nhà lãnh đạo, vốn đã có mối tương giao với nhà nuớc, cảm thấy hân hoan và ngây ngô cho rằng ‘trời mới đất mới’ đã hiện diện. Họ hồ hởi phấn khởi kêu gọi mọi người sắn tay xây dựng đất nước. Cuối cùng chính họ là những người vỡ mộng, buông xuôi chán nản rồi bỏ cuộc, tự mình đánh mất hướng đi và từ bỏ sứ mạng.

Giống như bao nhiêu người khác. Tôi cũng chới với, nhất là trong hoàn cảnh của một người đang đi tìm hướng đi cho cuộc sống. Tương lai mù mịt, hướng đi bị che lấp bởi các áng mây, càng nỗ lực tìm kiếm càng thấy khó khăn; cho đến một buổi chiều thứ bẩy kia tôi đã được nghe công bố về biến cố hiển dung của Đức Giêsu. Sau khi loan báo tin vui này, vị linh mục đã giảng giải; còn tôi ngồi đó mà lòng trí và tâm hồn lại để chỗ khác.

Tôi cố gắng hình dung và đặt thực trạng đời mình như một người trong cuộc hiển dung của Đức Giê-su. Hẳn nhiên tôi không được diễm phúc nhìn thấy ánh vinh quang của Đức Chúa trong cuộc thần hiện của Người. Nhưng, tôi đã trải qua những phút giây thật tuyệt diệu như phản ứng muốn dựng lều của Phê-rô trong bài Tin Mừng hôm nay. Và, cho đến nay, dù tôi không tài nào nhớ hết các diễn tiến đã xẩy ra. Điều duy nhất mà tôi nhận ra là có một sự biến đổi trong bản thân: thay vì sợ sệt, tôi đã hiên ngang đón nhận; thay vì buông xuôi và chạy trốn tôi đã liều mình bước tới, cho dù chẳng biết mình sẽ buớc đi đâu! Nói chung, kinh nghiệm nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa cho đến nay, sau gần 50 năm, vẫn là cảm nghiệm mà tôi chưa từng có lại. Tôi vẫn thường ôn đi nhớ lại kinh nghiệm này đặc biệt mỗi khi lâm cảnh chao đao và khó khăn để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Anh chị em thân mến,

Biến cố hiển dung đã được sắp đặt để chia sứ mạng của Đức Giê-su ra hai phần. Biến cố này chấm dứt giai đoạn rao giảng của Đức Giê-su tại Ga-li-lê và bước vào phần hai là hành trình đi Giê-ru-sa-lem của Người. Mặc dầu, trong đoạn chót của sứ vụ tại Ga-li-lê, các môn đệ đã nhận ra Thầy mình chính là Đấng Mesia theo quan niệm của họ. Vì thế, họ không thể chấp nhận một đấng Thiên Sai lại bị khước từ, bị đau khổ và sau cùng bị giết. Vì thế họ đã lên tiếng ngăn cản Thầy lên Giê-ru sa lem để hoàn tất sứ vụ của Đấng Mesia chịu thống khổ và bị chết. Vì thế, qua biến cố hiển dung, Đức Giê-su đã hé mở cho các ông nhìn thấy trước vinh quang Phục sinh mà Người sẽ đón nhận từ tay Thiên Chúa để các ông đủ sức chấp nhận và đồng hành với Người trên con đường khổ nạn và chết đi của Người trên Giê-ru-sa lem.

Sau này, biến cố hiển dung của Đức Giê-su còn đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình đức tin và đời sống của các tín hữu thuộc các cộng đoàn tiên khởi và chúng ta hôm nay. Quả thật, chúng ta không nên quên thực trạng đời sống của các tín hữu thời sơ khai. Họ đã để lại cho chúng ta một mẫu gương gắn bó với Đức Giê-su và với nhau. Cho dù họ bị chối từ, bị coi thường, bị theo dõi, bị săn lùng và thậm chí bị giết chết; nhưng vẫn quyết tâm và thành tín để trao đổi cho nhau qua việc chia sẻ và nói về Đức Giê-su. Trong số những san sẻ đó có chuyện tích hiển dung hôm nay.

Khi nói về biến cố này, họ đã cảm nghiệm có một sự thay đổi nơi con nguời của họ. Ánh vinh quang cuả Thiên Chúa đã chiếu toả để cho hình ảnh Thiên Chúa nơi các tín hữu được rõ ràng hơn. Một con người có Chúa là như thế, dung mạo họ sẽ toát lên một sức mạnh mà chỉ có những ai ở trong Chúa mới có được. Sự hiện diện của Thiên Chúa là thế!

Như vậy, biến cố hiển dung của Đức Giê-su không chỉ nâng đỡ và hỗ trợ cho các môn đệ đủ can đảm đối diện với các thử thách và đau khổ trong khi thi hành sứ vụ; nó còn chất chứa một lời mời gọi tất cả những ai tin vào Chúa là hãy sẵn sàng tham dự vào những gì mà Đức Giê-su đã thực hiện trong cuộc sống. Chúng ta không được phép thụ hưởng, cho dù đó là những giây phút tuyệt diệu nói lên mối dây thân tình giữa ta và Chúa.

Các kinh nghiệm mật thiết đó không làm chúng ta quên đi sứ mạng của chính mình; nhưng đem chúng ta đến vì phần ích và niềm vui của người khác. Tâm tình này cũng giống như uớc muốn của thánh Phao-lô. Kể từ ngày gặp Chúa Giê-su, ngài đã không còn sống cho riêng mình nữa nhưng chỉ sống cho Chúa, chỉ hành động vì danh Chúa, và khao khát được ở với Đức Ki-tô. Nhưng vì ích lợi của các tín hữu mà ngài đã chấp nhận ở lại để chu toàn trách nhiệm là đem niềm vui đức tin cho mọi tín hữu.

Kinh nghiệm gặp gỡ với Chúa lúc ẩn lúc hiện. Ngay lúc chúng ta tưởng như là Người đang hiện diện trước mắt khiến chúng ta vui quá nên đã muốn dựng lều như ý định của Phê-rô hôm nay, lại là lúc Người vụt mất để nhường chỗ cho quyền năng cuả Thiên Chúa được thể hiện qua sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Ngài “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Và sau lời tuyên phán cuả Thiên Chúa thì các ông bừng tỉnh, trở về với thực tế và chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. 

Như vậy, qua Lời Chúa phán hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng Đức Giê-su không chỉ là Đấng Cứu Thế. Người còn là Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ngôi thứ và nhiệm vụ của Người thì vượt xa so với tổ phụ Mai-sen và truyền thống các ngôn sứ mà E-li-a là người đại diện đã xuất hiện hôm nay. Tiếng cuả Thiên Chúa còn yêu cầu chúng ta hãy lắng nghe và vâng theo Lời Đức Giê-su; có nghĩa là hãy nhớ lại các lời tiên báo mà Người sẽ thực hiện tại Giê-ru-sa-lem trong hành trình sắp tới; đó là việc Đức Giê-su sẽ phải chịu muôn vàn thống khổ, bị loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Và, đây có thể là nội dung của cuộc bàn luận của Đức Giê-su với Mai-sen và E-li-a về những gì mà Người sẽ chu toàn tại Giê-ru-sa-lem.

Để tuân theo và hoàn tất ý định của Cha Người, Đức Giêsu sẽ đạt được vinh quang như đã có từ trước với Chúa Cha, khi Người sẵn lòng đón nhận và đi vào các nỗi thống khổ của thế gian để chữa lành và phục hồi những khuôn mặt đã bị biến dạng bởi bạo lực, bởi lòng tham muốn và ích kỷ mà trên thực tế các điều ghê sợ đó vẫn tồn tại trong môi trường của chúng ta đang sống.

Đó chính là con đuờng mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Đức Giê-su, Con yêu dấu của Ngài và dĩ nhiên cho cả chúng ta nữa. Hành trình càng gian khổ bao nhiêu thì ánh vinh quang càng toả sáng bấy nhiêu. Sứ vụ của Đức Giê-su và cũng là sứ vụ của chúng ta hôm nay không dừng lại ở chốn đau khổ, cũng không chỉ nhắm về tương lai mà quên đi các thử thách và gian nan trong hiện tại. Hai mặt đau khổ và vinh quang cần được nối kết với nhau. Không trải qua gian khổ, không đón nhận cái chết thì vinh quang có được cũng là giả tạo, không bền vững.

Vì thế, việc các môn đệ nhận ra chân tướng hiển vinh, sáng láng của Đức Giê-su là yếu tố cần thiết cho sứ vụ của người môn đệ. Thử thách, gian nan và đau khổ là một phần của sứ vụ. Cứ mãi mê nhìn và chiến đấu với nó khiến chúng ta mệt nhoài. Hãy ôn lại các lần gặp gỡ giữa Chúa và ta, hãy nhớ lại việc Chúa can thiệp để biến đổi chúng ta… tất cả những kinh nghiệm đó sẽ là những cuộc hiển dung của Thiên Chúa nhằm giúp chúng ta mạnh dạn, can đảm buớc đi và đi mãi cho đến cùng của hành trình Thương Khó, chết đi cho những biến dạng của thế tục và mãi để cho hình ảnh của Thiên Chúa được bộc lộ một cách thật rõ ràng qua thân xác vinh hiển của Đức Ki-tô phục sinh, Đấng đã cho các môn đệ nếm hưởng ánh vinh quang Phục Sinh trong biến cố hiển dung hôm nay. Amen!