Trước tiên xin gửi đến anh chị em một
kinh nghiệm vô cùng quí báu.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nuớc
và dân tộc Việt Nam đã bước sang một trang sử mới. Nói chung, cuộc sống của
chúng ta trong giai đoạn đó thật khó khăn. Hội Thánh phải dè dặt trong mọi sinh
hoạt để thăm dò phản ứng của nhà cầm quyền. Bọn dân đen ngửa cổ trông chờ chỉ
thị và hướng dẫn của các vị lãnh đạo. Các tu viện bị hạn chế sinh hoạt, các cơ
sở và chương trình đào tạo tạm đóng cửa. Mọi sinh hoạt tôn giáo đã được thu gọn
lại trong khuôn viên của xứ đạo và nhà thờ. Một tâm trạng sợ hãi bao trùm khiến
con người cảm thấy bị nghẹt thở.
Trong khi đó, có một số rất ít các nhà
lãnh đạo, vốn đã có mối tương giao với nhà nuớc, cảm thấy hân hoan và ngây ngô
cho rằng ‘trời mới đất mới’ đã hiện diện. Họ hồ hởi phấn khởi kêu gọi mọi người
sắn tay xây dựng đất nước. Cuối cùng chính họ là những người vỡ mộng, buông
xuôi chán nản rồi bỏ cuộc, tự mình đánh mất hướng đi và từ bỏ sứ mạng.
Giống như bao nhiêu người khác. Tôi cũng
chới với, nhất là trong hoàn cảnh của một người đang đi tìm hướng đi cho cuộc sống.
Tương lai mù mịt, hướng đi bị che lấp bởi các áng mây, càng nỗ lực tìm kiếm
càng thấy khó khăn; cho đến một buổi chiều thứ bẩy kia tôi đã được nghe công bố
về biến cố hiển dung của Đức Giêsu. Sau khi loan báo tin vui này, vị linh mục
đã giảng giải; còn tôi ngồi đó mà lòng trí và tâm hồn lại để chỗ khác.
Tôi cố gắng hình dung và đặt thực trạng
đời mình như một người trong cuộc hiển dung của Đức Giê-su. Hẳn nhiên tôi không
được diễm phúc nhìn thấy ánh vinh quang của Đức Chúa trong cuộc thần hiện của Người.
Nhưng, tôi đã trải qua những phút giây thật tuyệt diệu như phản ứng muốn dựng lều
của Phê-rô trong bài Tin Mừng hôm nay. Và, cho đến nay, dù tôi không tài nào nhớ
hết các diễn tiến đã xẩy ra. Điều duy nhất mà tôi nhận ra là có một sự biến đổi
trong bản thân: thay vì sợ sệt, tôi đã hiên ngang đón nhận; thay vì buông xuôi
và chạy trốn tôi đã liều mình bước tới, cho dù chẳng biết mình sẽ buớc đi đâu!
Nói chung, kinh nghiệm nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa cho đến nay, sau gần
50 năm, vẫn là cảm nghiệm mà tôi chưa từng có lại. Tôi vẫn thường ôn đi nhớ lại
kinh nghiệm này đặc biệt mỗi khi lâm cảnh chao đao và khó khăn để nhận ra sự hiện
diện của Thiên Chúa, Đấng ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Anh chị em thân mến,
Biến cố hiển dung đã được sắp đặt để
chia sứ mạng của Đức Giê-su ra hai phần. Biến cố này chấm dứt giai đoạn rao giảng
của Đức Giê-su tại Ga-li-lê và bước vào phần hai là hành trình đi Giê-ru-sa-lem
của Người. Mặc dầu, trong đoạn chót của sứ vụ tại Ga-li-lê, các môn đệ đã nhận
ra Thầy mình chính là Đấng Mesia theo quan niệm của họ. Vì thế, họ không thể chấp
nhận một đấng Thiên Sai lại bị khước từ, bị đau khổ và sau cùng bị giết. Vì thế
họ đã lên tiếng ngăn cản Thầy lên Giê-ru sa lem để hoàn tất sứ vụ của Đấng
Mesia chịu thống khổ và bị chết. Vì thế, qua biến cố hiển dung, Đức Giê-su đã hé
mở cho các ông nhìn thấy trước vinh quang Phục sinh mà Người sẽ đón nhận từ tay
Thiên Chúa để các ông đủ sức chấp nhận và đồng hành với Người trên con đường khổ
nạn và chết đi của Người trên Giê-ru-sa lem.
Sau này, biến cố hiển dung của Đức
Giê-su còn đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình đức tin và đời sống
của các tín hữu thuộc các cộng đoàn tiên khởi và chúng ta hôm nay. Quả thật,
chúng ta không nên quên thực trạng đời sống của các tín hữu thời sơ khai. Họ đã
để lại cho chúng ta một mẫu gương gắn bó với Đức Giê-su và với nhau. Cho dù họ bị
chối từ, bị coi thường, bị theo dõi, bị săn lùng và thậm chí bị giết chết;
nhưng vẫn quyết tâm và thành tín để trao đổi cho nhau qua việc chia sẻ và nói về
Đức Giê-su. Trong số những san sẻ đó có chuyện tích hiển dung hôm nay.
Khi nói về biến cố này, họ đã cảm nghiệm
có một sự thay đổi nơi con nguời của họ. Ánh vinh quang cuả Thiên Chúa đã chiếu
toả để cho hình ảnh Thiên Chúa nơi các tín hữu được rõ ràng hơn. Một con người
có Chúa là như thế, dung mạo họ sẽ toát lên một sức mạnh mà chỉ có những ai ở
trong Chúa mới có được. Sự hiện diện của Thiên Chúa là thế!
Như vậy, biến cố hiển dung của Đức Giê-su
không chỉ nâng đỡ và hỗ trợ cho các môn đệ đủ can đảm đối diện với các thử
thách và đau khổ trong khi thi hành sứ vụ; nó còn chất chứa một lời mời gọi tất
cả những ai tin vào Chúa là hãy sẵn sàng tham dự vào những gì mà Đức Giê-su đã
thực hiện trong cuộc sống. Chúng ta không được phép thụ hưởng, cho dù đó là những
giây phút tuyệt diệu nói lên mối dây thân tình giữa ta và Chúa.
Các kinh nghiệm mật thiết đó không làm
chúng ta quên đi sứ mạng của chính mình; nhưng đem chúng ta đến vì phần ích và
niềm vui của người khác. Tâm tình này cũng giống như uớc muốn của thánh
Phao-lô. Kể từ ngày gặp Chúa Giê-su, ngài đã không còn sống cho riêng mình nữa
nhưng chỉ sống cho Chúa, chỉ hành động vì danh Chúa, và khao khát được ở với Đức
Ki-tô. Nhưng vì ích lợi của các tín hữu mà ngài đã chấp nhận ở lại để chu toàn
trách nhiệm là đem niềm vui đức tin cho mọi tín hữu.
Kinh nghiệm gặp gỡ với Chúa lúc ẩn lúc
hiện. Ngay lúc chúng ta tưởng như là Người đang hiện diện trước mắt khiến chúng
ta vui quá nên đã muốn dựng lều như ý định của Phê-rô hôm nay, lại là lúc Người
vụt mất để nhường chỗ cho quyền năng cuả Thiên Chúa được thể hiện qua sự xuất
hiện của đám mây và tiếng nói của Ngài “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển
chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Và sau lời tuyên phán cuả Thiên Chúa thì
các ông bừng tỉnh, trở về với thực tế và chỉ còn thấy một mình Đức
Giê-su.
Như vậy, qua Lời Chúa phán hôm nay,
chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng Đức Giê-su không chỉ là Đấng Cứu Thế. Người
còn là Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ngôi thứ
và nhiệm vụ của Người thì vượt xa so với tổ phụ Mai-sen và truyền thống các
ngôn sứ mà E-li-a là người đại diện đã xuất hiện hôm nay. Tiếng cuả Thiên Chúa
còn yêu cầu chúng ta hãy lắng nghe và vâng theo Lời Đức Giê-su; có nghĩa là hãy
nhớ lại các lời tiên báo mà Người sẽ thực hiện tại Giê-ru-sa-lem trong hành
trình sắp tới; đó là việc Đức Giê-su sẽ phải chịu muôn vàn thống khổ, bị loại bỏ,
bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Và, đây có thể là nội dung của cuộc
bàn luận của Đức Giê-su với Mai-sen và E-li-a về những gì mà Người sẽ chu toàn
tại Giê-ru-sa-lem.
Để tuân theo và hoàn tất ý định của Cha
Người, Đức Giêsu sẽ đạt được vinh quang như đã có từ trước với Chúa Cha, khi
Người sẵn lòng đón nhận và đi vào các nỗi thống khổ của thế gian để chữa lành
và phục hồi những khuôn mặt đã bị biến dạng bởi bạo lực, bởi lòng tham muốn và
ích kỷ mà trên thực tế các điều ghê sợ đó vẫn tồn tại trong môi trường của
chúng ta đang sống.
Đó chính là con đuờng mà Thiên Chúa đã dọn
sẵn cho Đức Giê-su, Con yêu dấu của Ngài và dĩ nhiên cho cả chúng ta nữa. Hành
trình càng gian khổ bao nhiêu thì ánh vinh quang càng toả sáng bấy nhiêu. Sứ vụ
của Đức Giê-su và cũng là sứ vụ của chúng ta hôm nay không dừng lại ở chốn đau
khổ, cũng không chỉ nhắm về tương lai mà quên đi các thử thách và gian nan
trong hiện tại. Hai mặt đau khổ và vinh quang cần được nối kết với nhau. Không
trải qua gian khổ, không đón nhận cái chết thì vinh quang có được cũng là giả tạo,
không bền vững.
Vì thế, việc các môn đệ nhận ra chân tướng
hiển vinh, sáng láng của Đức Giê-su là yếu tố cần thiết cho sứ vụ của người môn
đệ. Thử thách, gian nan và đau khổ là một phần của sứ vụ. Cứ mãi mê nhìn và chiến
đấu với nó khiến chúng ta mệt nhoài. Hãy ôn lại các lần gặp gỡ giữa Chúa và ta,
hãy nhớ lại việc Chúa can thiệp để biến đổi chúng ta… tất cả những kinh nghiệm
đó sẽ là những cuộc hiển dung của Thiên Chúa nhằm giúp chúng ta mạnh dạn, can đảm
buớc đi và đi mãi cho đến cùng của hành trình Thương Khó, chết đi cho những biến
dạng của thế tục và mãi để cho hình ảnh của Thiên Chúa được bộc lộ một cách thật
rõ ràng qua thân xác vinh hiển của Đức Ki-tô phục sinh, Đấng đã cho các môn đệ
nếm hưởng ánh vinh quang Phục Sinh trong biến cố hiển dung hôm nay. Amen!
No comments:
Post a Comment