Wednesday, 2 August 2023

HIỂN DUNG: ĐỔI MỚI và VỮNG TIN


Trước tiên xin gửi đến anh chị em một kinh nghiệm vô cùng quí báu.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nuớc và dân tộc Việt Nam đã bước sang một trang sử mới. Nói chung, cuộc sống của chúng ta trong giai đoạn đó thật khó khăn. Hội Thánh phải dè dặt trong mọi sinh hoạt để thăm dò phản ứng của nhà cầm quyền. Bọn dân đen ngửa cổ trông chờ chỉ thị và hướng dẫn của các vị lãnh đạo. Các tu viện bị hạn chế sinh hoạt, các cơ sở và chương trình đào tạo tạm đóng cửa. Mọi sinh hoạt tôn giáo đã được thu gọn lại trong khuôn viên của xứ đạo và nhà thờ. Một tâm trạng sợ hãi bao trùm khiến con người cảm thấy bị nghẹt thở.

Trong khi đó, có một số rất ít các nhà lãnh đạo, vốn đã có mối tương giao với nhà nuớc, cảm thấy hân hoan và ngây ngô cho rằng ‘trời mới đất mới’ đã hiện diện. Họ hồ hởi phấn khởi kêu gọi mọi người sắn tay xây dựng đất nước. Cuối cùng chính họ là những người vỡ mộng, buông xuôi chán nản rồi bỏ cuộc, tự mình đánh mất hướng đi và từ bỏ sứ mạng.

Giống như bao nhiêu người khác. Tôi cũng chới với, nhất là trong hoàn cảnh của một người đang đi tìm hướng đi cho cuộc sống. Tương lai mù mịt, hướng đi bị che lấp bởi các áng mây, càng nỗ lực tìm kiếm càng thấy khó khăn; cho đến một buổi chiều thứ bẩy kia tôi đã được nghe công bố về biến cố hiển dung của Đức Giêsu. Sau khi loan báo tin vui này, vị linh mục đã giảng giải; còn tôi ngồi đó mà lòng trí và tâm hồn lại để chỗ khác.

Tôi cố gắng hình dung và đặt thực trạng đời mình như một người trong cuộc hiển dung của Đức Giê-su. Hẳn nhiên tôi không được diễm phúc nhìn thấy ánh vinh quang của Đức Chúa trong cuộc thần hiện của Người. Nhưng, tôi đã trải qua những phút giây thật tuyệt diệu như phản ứng muốn dựng lều của Phê-rô trong bài Tin Mừng hôm nay. Và, cho đến nay, dù tôi không tài nào nhớ hết các diễn tiến đã xẩy ra. Điều duy nhất mà tôi nhận ra là có một sự biến đổi trong bản thân: thay vì sợ sệt, tôi đã hiên ngang đón nhận; thay vì buông xuôi và chạy trốn tôi đã liều mình bước tới, cho dù chẳng biết mình sẽ buớc đi đâu! Nói chung, kinh nghiệm nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa cho đến nay, sau gần 50 năm, vẫn là cảm nghiệm mà tôi chưa từng có lại. Tôi vẫn thường ôn đi nhớ lại kinh nghiệm này đặc biệt mỗi khi lâm cảnh chao đao và khó khăn để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Anh chị em thân mến,

Biến cố hiển dung đã được sắp đặt để chia sứ mạng của Đức Giê-su ra hai phần. Biến cố này chấm dứt giai đoạn rao giảng của Đức Giê-su tại Ga-li-lê và bước vào phần hai là hành trình đi Giê-ru-sa-lem của Người. Mặc dầu, trong đoạn chót của sứ vụ tại Ga-li-lê, các môn đệ đã nhận ra Thầy mình chính là Đấng Mesia theo quan niệm của họ. Vì thế, họ không thể chấp nhận một đấng Thiên Sai lại bị khước từ, bị đau khổ và sau cùng bị giết. Vì thế họ đã lên tiếng ngăn cản Thầy lên Giê-ru sa lem để hoàn tất sứ vụ của Đấng Mesia chịu thống khổ và bị chết. Vì thế, qua biến cố hiển dung, Đức Giê-su đã hé mở cho các ông nhìn thấy trước vinh quang Phục sinh mà Người sẽ đón nhận từ tay Thiên Chúa để các ông đủ sức chấp nhận và đồng hành với Người trên con đường khổ nạn và chết đi của Người trên Giê-ru-sa lem.

Sau này, biến cố hiển dung của Đức Giê-su còn đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình đức tin và đời sống của các tín hữu thuộc các cộng đoàn tiên khởi và chúng ta hôm nay. Quả thật, chúng ta không nên quên thực trạng đời sống của các tín hữu thời sơ khai. Họ đã để lại cho chúng ta một mẫu gương gắn bó với Đức Giê-su và với nhau. Cho dù họ bị chối từ, bị coi thường, bị theo dõi, bị săn lùng và thậm chí bị giết chết; nhưng vẫn quyết tâm và thành tín để trao đổi cho nhau qua việc chia sẻ và nói về Đức Giê-su. Trong số những san sẻ đó có chuyện tích hiển dung hôm nay.

Khi nói về biến cố này, họ đã cảm nghiệm có một sự thay đổi nơi con nguời của họ. Ánh vinh quang cuả Thiên Chúa đã chiếu toả để cho hình ảnh Thiên Chúa nơi các tín hữu được rõ ràng hơn. Một con người có Chúa là như thế, dung mạo họ sẽ toát lên một sức mạnh mà chỉ có những ai ở trong Chúa mới có được. Sự hiện diện của Thiên Chúa là thế!

Như vậy, biến cố hiển dung của Đức Giê-su không chỉ nâng đỡ và hỗ trợ cho các môn đệ đủ can đảm đối diện với các thử thách và đau khổ trong khi thi hành sứ vụ; nó còn chất chứa một lời mời gọi tất cả những ai tin vào Chúa là hãy sẵn sàng tham dự vào những gì mà Đức Giê-su đã thực hiện trong cuộc sống. Chúng ta không được phép thụ hưởng, cho dù đó là những giây phút tuyệt diệu nói lên mối dây thân tình giữa ta và Chúa.

Các kinh nghiệm mật thiết đó không làm chúng ta quên đi sứ mạng của chính mình; nhưng đem chúng ta đến vì phần ích và niềm vui của người khác. Tâm tình này cũng giống như uớc muốn của thánh Phao-lô. Kể từ ngày gặp Chúa Giê-su, ngài đã không còn sống cho riêng mình nữa nhưng chỉ sống cho Chúa, chỉ hành động vì danh Chúa, và khao khát được ở với Đức Ki-tô. Nhưng vì ích lợi của các tín hữu mà ngài đã chấp nhận ở lại để chu toàn trách nhiệm là đem niềm vui đức tin cho mọi tín hữu.

Kinh nghiệm gặp gỡ với Chúa lúc ẩn lúc hiện. Ngay lúc chúng ta tưởng như là Người đang hiện diện trước mắt khiến chúng ta vui quá nên đã muốn dựng lều như ý định của Phê-rô hôm nay, lại là lúc Người vụt mất để nhường chỗ cho quyền năng cuả Thiên Chúa được thể hiện qua sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Ngài “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Và sau lời tuyên phán cuả Thiên Chúa thì các ông bừng tỉnh, trở về với thực tế và chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. 

Như vậy, qua Lời Chúa phán hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng Đức Giê-su không chỉ là Đấng Cứu Thế. Người còn là Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ngôi thứ và nhiệm vụ của Người thì vượt xa so với tổ phụ Mai-sen và truyền thống các ngôn sứ mà E-li-a là người đại diện đã xuất hiện hôm nay. Tiếng cuả Thiên Chúa còn yêu cầu chúng ta hãy lắng nghe và vâng theo Lời Đức Giê-su; có nghĩa là hãy nhớ lại các lời tiên báo mà Người sẽ thực hiện tại Giê-ru-sa-lem trong hành trình sắp tới; đó là việc Đức Giê-su sẽ phải chịu muôn vàn thống khổ, bị loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Và, đây có thể là nội dung của cuộc bàn luận của Đức Giê-su với Mai-sen và E-li-a về những gì mà Người sẽ chu toàn tại Giê-ru-sa-lem.

Để tuân theo và hoàn tất ý định của Cha Người, Đức Giêsu sẽ đạt được vinh quang như đã có từ trước với Chúa Cha, khi Người sẵn lòng đón nhận và đi vào các nỗi thống khổ của thế gian để chữa lành và phục hồi những khuôn mặt đã bị biến dạng bởi bạo lực, bởi lòng tham muốn và ích kỷ mà trên thực tế các điều ghê sợ đó vẫn tồn tại trong môi trường của chúng ta đang sống.

Đó chính là con đuờng mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Đức Giê-su, Con yêu dấu của Ngài và dĩ nhiên cho cả chúng ta nữa. Hành trình càng gian khổ bao nhiêu thì ánh vinh quang càng toả sáng bấy nhiêu. Sứ vụ của Đức Giê-su và cũng là sứ vụ của chúng ta hôm nay không dừng lại ở chốn đau khổ, cũng không chỉ nhắm về tương lai mà quên đi các thử thách và gian nan trong hiện tại. Hai mặt đau khổ và vinh quang cần được nối kết với nhau. Không trải qua gian khổ, không đón nhận cái chết thì vinh quang có được cũng là giả tạo, không bền vững.

Vì thế, việc các môn đệ nhận ra chân tướng hiển vinh, sáng láng của Đức Giê-su là yếu tố cần thiết cho sứ vụ của người môn đệ. Thử thách, gian nan và đau khổ là một phần của sứ vụ. Cứ mãi mê nhìn và chiến đấu với nó khiến chúng ta mệt nhoài. Hãy ôn lại các lần gặp gỡ giữa Chúa và ta, hãy nhớ lại việc Chúa can thiệp để biến đổi chúng ta… tất cả những kinh nghiệm đó sẽ là những cuộc hiển dung của Thiên Chúa nhằm giúp chúng ta mạnh dạn, can đảm buớc đi và đi mãi cho đến cùng của hành trình Thương Khó, chết đi cho những biến dạng của thế tục và mãi để cho hình ảnh của Thiên Chúa được bộc lộ một cách thật rõ ràng qua thân xác vinh hiển của Đức Ki-tô phục sinh, Đấng đã cho các môn đệ nếm hưởng ánh vinh quang Phục Sinh trong biến cố hiển dung hôm nay. Amen!

No comments:

Post a Comment