Wednesday, 28 August 2024

LỀ LUẬT HAY TÂM HỒN?

 

Anh chị em thân mến,

Vào thời Chúa Giê-su, dân Do Thái, ngoài việc tuân giữ các huấn lịnh của Thiên Chúa ban cho qua Mai-sen và các tiên tri, họ còn tuân giữ các qui định của cha ông truyền lại và coi đó như là những khoản luật của Thiên Chúa. Các qui định được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và được coi như là các tập tục của tiền nhân. Đây là những kiểu mẫu sống hơn là luật lệ. Sau một thời gian dài áp dụng, dân Do Thái bằng lòng với những qui định này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp. Người ta xếp chúng vào loại truyền khẩu và được gọi là “truyền thống của tiền nhân.”

Việc tuân giữ các lịnh truyền và những qui định của tiền nhân tuy tốt đẹp nhưng khi áp dụng, họ lại quá chú trọng đến những nghi thức bên ngoài và có lòng kiêu hãnh về các việc làm đó. Từ đó ý nghĩa tôn giáo của các qui định bị mất dần đi. Họ cho rằng việc thực hành và tuân giữ những qui định này là công sức của họ, dần dần được xem là các việc đạo đức, là hành vi của những người biết phụng sự Chúa. Họ đã quên rằng sự thánh thiện phải được xuất phát từ Thiên Chúa chứ không lệ thuộc các việc làm của chúng ta.

            Một cách cụ thể, chúng ta xem qua tập tục rửa tay trước khi dùng bữa được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay. Trước tiên, đó là các khoản luật dành cho hàng ngũ tư tế. Mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi bước vào nơi cực thánh trong đền thờ. Mục đích của việc làm này này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng cử hành nghi lễ thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.

Hôm nay, những người Pharisiêu và các thầy thông luật chất vấn Chúa Giêsu về việc các môn đệ của Người không rửa tay trước khi ăn. Chúa Giêsu đã phê phán họ rằng họ chỉ quan tâm đến việc tuân thủ các truyền thống bên ngoài mà quên đi tinh thần của lề luật. Người trích dẫn lời của ngôn sứ I-sa-i-a, rằng dân này tôn kính Thiên Chúa bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì xa rời Chúa hàng dặm để nhắc nhở họ.

Sau đó, Chúa giảng dạy cho đám đông rằng không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho người đó ra ô uế, mà chính những gì từ bên trong, từ lòng người phát ra, mới làm cho người ta ra ô uế. Điều này ám chỉ rằng tội lỗi và sự ô uế không phải do những hành động bên ngoài mà là từ tâm hồn và ý nghĩ xấu xa từ tron tâm hồn và ý nghĩ của họ. Theo tinh thần của Chúa thì tất cả mọi sự đều phải được xuất phát từ tấm lòng, từ trái tim bằng không thì chỉ là các hình thức đạo đức không có chiều sâu, thậm chí có thể coi là hình thức của những người đạo đức giả. Theo Người, mọi sự thay đổi phải đuợc bắt nguồn từ trong tâm hồn thì mới có hiệu quả lâu dài. Tương tự như thế, các việc làm đuợc gọi là thánh thiện đều không lệ thuộc vào các hành vi bên ngoài, nhưng phải xuất phát từ tâm hồn con người.

Như vậy, ở đây, Đức Giê-su đã giúp chúng ta có một cái nhìn khác về sự thánh thiện. Chỉ có Thiên Chúa duy nhất là Đấng Thánh, và không một tạo vật nào đuợc gọi là thánh nếu không có quan hệ với Ngài. Con người chỉ đuợc nên thánh qua việc tiếp xúc, tương giao, gặp gỡ và nối kết với Thiên Chúa. Chỉ có trong Ngài và với Ngài, con người mới đạt đến sự thánh thiện mà thôi.

Anh chị em thân mến,

Nhìn vào cuộc sống của Đức Giê-su chúng ta nhận thấy Người chính là mẫu mực của mối tương giao, nối kết mật thiết của Cha và Con. Một sự hiệp nhất nên một. Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Vì thế, bản chất thánh thiện nơi con người Đức Giê-su phát sinh từ Thiên Chúa, không lệ thuộc vào nghi thức bên ngoài như những người Pha-ri-siêu lầm tưởng. Do đó, Đức Giê-su không bao giờ bị ô uế khi đụng chạm vào những người, mà lề luật đã xếp họ vào lớp người ‘ô uế, tội lỗi’. Trái lại, họ lại được thay đổi từ sự thánh thiện cuả Thiên Chúa thoát ra từ con người của Đức Giê-su. Qua việc tiếp xúc này, nhân phẩm họ đuợc phục hồi và con người họ được tái tạo nên một con người mới trong Chúa. Sự thánh thiện của con người không hệ luỵ bởi việc làm của chúng ta cho bằng đó là việc nối dài bản chất thánh của Thiên Chúa nơi mình, qua Đức Giê-su.

Vì vậy, trong phần kết luận của trình thuật hôm nay, Đức Giê-su nhấn mạnh đến việc làm của trái tim. Sự thánh thiện của con người phát xuất từ trái tim của người đó, chứ không lệ thuộc vào những lề thói hay cách cư xử hình thức bên ngoài của họ. Trái tim là nơi để con người có thể tiếp xúc một cách sâu thẳm với Thiên Chúa. Đó chính là cung lòng để Thiên Chúa ngự trị.

Đừng đánh giá nhau qua dáng vẻ bên ngoài nhưng hãy trao cho nhau tấm lòng, ban cho nhau quả tim yêu thương, nhân hậu và biết rung động trước các nhu cầu của nhau. Muốn đạt được điều này, tất cả chúng ta cần xây dựng và duy trì mối tương giao với Đức Giê-su mỗi ngày mỗi bền chặt và gắn bó hơn. Bởi vì, chỉ ở trong trái tim nhân hậu và yêu thương của Đức Giê-su, chúng ta mới tìm ra mẫu mực cho mọi tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Bởi vì, Thiên Chúa là tình yêu. Cho nên, ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Vì mọi việc làm chỉ là cách thức biểu hiện bên ngoài, điều quan trọng nhất là trái tim của chúng ta hướng về Thiên Chúa và diễn tả cho tha nhân như thế nào? Vì thế, xin cho chúng con đến với nhau bằng con người có trái tim của Chúa. Amen!

Wednesday, 21 August 2024

BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI!

 

Anh chị em thân mến,

Cách hành xử trong cuộc sống giúp chúng ta nhận ra vị trí của chính mình. Tôi còn nhớ một hiện tượng, một thói quen mà người ‘có đạo’ hay thực hiện. Trong thời gian ở trại tỵ nạn Ga-lang, Indo năm nào. Mỗi khi có tầu vượt biên từ Việt Nam đến đảo bình an, thì thùng tiền xin tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đầy hơn. Rồi mỗi khi có phái đoàn đến phỏng vấn nhận người đi định cư tại các nước thứ ba, thì thùng tiền xin khấn tăng vọt, cho đến khi phái đoàn ra về thì lại đến thùng tạ ơn làm ăn khấm khá hơn. Cứ xin khấn rồi lại tạ ơn, tạ ơn xong rồi lại xin tiếp. Lối sống đạo theo vòng xin xỏ rồi lại tạ ơn cứ thế tiếp tục xoay.

Lối sống như thế nói lên mối tương quan giữa mình và Chúa. Có những lúc chúng ta xác tín về việc theo Chúa của mình, nhất là khi gặp được nhiều thuận lợi trong cuộc sống. Tuy nhiên, lại có nhiều khoảnh khắc, nhất là khi phải đối diện với các thử thách vượt quá sức đón nhận khiến chúng ta cảm thấy chán nản, thậm chí có những người lâm vào tình trạng tuyệt vọng và muốn bỏ cuộc.

Vì thế, phụng vụ Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay, đặc biệt nội dung của trình thuật Tin Mừng giúp cho chúng ta có cơ hội xét mình và nhận ra chúng ta có phải là các tín hữu theo Chúa và làm theo y Chúa hay vẫn chỉ là tín hữu có tiếng mà không có miếng. Nào mời anh chị em cùng suy tư.

Anh chị em thân mến,

Trình thuật Tin Mừng hôm nay là cao điểm của một cuộc đối kháng mang tính quyết liệt giữa Đức Giê-su và các môn đệ. Họ là những người đã chứng kiến dấu lạ hoá bánh ra nhiều và đuợc nghe lời giải thích của Chúa về dấu lạ đó. Tuy nhiên, Chúa càng cố gắng làm sáng tỏ sứ điệp bao nhiêu thì lại nhận được sự chống đối không thiếu phần dứt khoát của một nhóm môn đệ bấy nhiêu. Kết quả là có rất nhiều môn đệ đã rút lui và không tiếp tục đi theo Người nữa.

Còn nhóm muời hai, tuy còn ở lại nhưng các ông vẫn chưa toàn tâm, toàn lực theo Chúa. Cụ thể, tại vườn cây dầu và trong hành trình Thương Khó sau này, Phê-rô là người đầu tiên đã chối Chúa. Như vậy, chúng ta thấy tuy cách chọn lựa của nhóm muời hai có phần khá hơn các môn đệ kia, nhưng điều mà Phê-rô đại diện cho nhóm mười hai tuyên cáo hôm nay “bỏ Thầy, chúng con biết theo ai” cũng chỉ là những lời nói suông, dựa trên môi miệng. Vẫn biết là như thế, nhưng đặc tính không tháo lui, tiếp tục dấn buớc bằng tất cả nỗ lực và khả năng của mình khiến cho nhóm muời hai gần với chúng ta hơn.

Thật vậy, việc chúng ta đến với Chúa, đi theo Chúa trước tiên không phát xuất từ mình. Đó là lời mời gọi, hành động lôi kéo từ Thiên Chúa. Không ai trong chúng ta có thể nối kết, gặp gỡ rồi tin vào Đức Giê-su nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy. Lời mời gọi, hành động lôi kéo đã xuất phát từ Thiên Chúa, bổn phận của chúng ta là thả lỏng, không gồng lên để cuỡng lại và sẵn sàng tự nguyện rồi buông quyền kiểm soát bản thân của chúng ta để theo Chúa. Đây là một sự chọn lựa khôn ngoan của người tín hữu khi họ nhận ra tất cả những gì mình có đều là hồng ân của Chúa, bổn phận còn lại là thi hành việc làm của chủ mình.

Nói thì dễ nhưng thực hành thật khó!

Làm thế nào chúng ta vẫn giữ được tâm hồn thanh thản, không tự mãn trước các việc làm đạo đức của mình. Hình ảnh người biệt phái tự mãn hiên ngang đứng trên bục bàn thờ, rồi mang công trạng ra để khoe trước mặt Chúa. Cuối cùng ra về tay không. Thái độ tự mãn dựa vào công trạng của ông khiến chúng ta nhận ra rằng các việc lành phúc đức đôi khi có thể là những vật cản để mình nhận ra tất cả chỉ là ân huệ của Thiên Chúa muốn qua mình trao ban cho người khác mà thôi. Và nếu là như vậy thì có gì mà khoe khoang.

Còn thái độ của người thu thuế, khúm núm đứng tự đàng xa, sau những hàng ghế cuối của đền thờ; ông đấm ngực nhận mình là kẻ tội lỗi rồi ca tụng những kỳ công mà Chúa thực hiện. Ông là hình ảnh của một kẻ tin, biết trao quyền làm chủ những việc mà mình đã làm được vào tay của Thiên Chúa. Ông ra về và trở thành người công chính vì niềm tin và thái độ khiêm cung của ông. Cách ứng xử khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình của ông giúp chúng ta nhận ra mình chỉ là đầy tớ bình thường, thậm chí còn vô dụng của Thiên Chúa. Tất cả luôn là hồng ân, là cơ hội giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả những gì mà chúng ta làm được hoàn toàn phát sinh từ nguồn suối yêu thương của Thiên Chúa, Đấng làm chủ chương trình và đời sống của mỗi người chúng ta.

Như vậy, buông lỏng sức mạnh kềm chế bản thân mình là buớc tiên quyết để bộc lộ và trao phó lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về mình. Đây chính là thái độ niềm tin của người tín hữu. Tuy nhiên, anh chị em hãy nhớ rằng, chính Chúa Cha mới là đấng che chở, bảo vệ và lôi kéo chúng ta đến để đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su, Con của Ngài.

Và, muốn có được niềm tín thác này, chúng ta phải bước ra khỏi chính mình, dấn thân và trở thành của ăn mà Đức Kitô muốn chúng ta san sẻ cho người khác. Niềm tin của người môn đệ không chỉ được nuôi duỡng bởi các bí tích, nhưng được dưỡng nuôi bởi Người làm nên các bí tích đó. Tất cả các nhiệm tích của Hội Thánh đều dẫn chúng ta về với nguồn của bí tích là Đức Giê-su, Nguồn mọi ân phúc và là Tin Vui cho các kẻ tin. Nói khác đi, để sống đúng chân tướng của người tin vào Đức Giê-su, thì việc cử hành và lĩnh nhận các bí tích chưa đủ, nhưng truớc hết chúng ta phải trung thành với Con Người của Đức Giê-su Kitô và sống tình huynh đệ với người khác.

Vậy, việc đòi buộc các môn đệ trung tín với Đức Giê-su lệ thuộc vào việc chuyên cần nghe lời giáo huấn của Người, có nghĩa là Tin vào Lời Người phán hôm nay rằng “ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” đồng nghĩa với việc tin vào Đức Giê-su là Đấng nuôi sống chúng ta. Hơn thế nữa, các môn đệ còn đòi buộc buớc theo Người, đi con đuờng Người đã đi và tin rằng đó cũng là con đuờng dẫn chúng ta đến sự sống đời đời.

Thật vậy, chính Người là Bánh trường sinh, là nguồn động lực giúp chúng ta sống và đến với nhau. Muốn đến với nhau thì chúng ta cần đến với Chúa truớc. Đến với Chúa, gặp gỡ Chúa rồi tin vào Chúa là việc làm của người tin hữu.

Vì thế, thưa anh chị em,

Tin rằng Chúa ở trong ta. Tin rằng việc đón nhận Mình Máu Thánh Chúa không làm cho mình thánh thiện hơn, mà là trở nên giống Chúa hơn, nên một với Chúa hơn. Có nghĩa là khi đón nhận Mình Máu Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể là lúc chúng ta cũng chịu lấy thần khí và sự sống của Người; đó cũng là thời khắc để Chúa trở thành sự sống và thần khí của đời ta.

Như thế, cuộc sống của chúng ta trở thành hiến lễ. Hiến lễ cũng trở thành cuộc sống. Hiến lễ và cuộc sống là một trong Đức Giê-su thế nào thì đối với chúng ta cũng như vậy. Chúng ta không thể tách cuộc sống của người môn đệ ra khỏi hành vi hiến tế của Chúa được. Đây là một cuộc gặp gỡ thật trọn vẹn nói lên sự hiện diện đích thật của Đức Kitô với Hội Thánh của Người để ban sự sống cho nhân loại.

Thật vậy, nếu không có Đức Giê-su thì cuộc gặp gỡ, mối dây hiệp thông dù mang tính hy tế cũng chỉ là các nghi thức. Và nếu chỉ là các nghi thức thì còn có ích gì! Có Đức Giê-su là có sự sống, và nếu bỏ Đức Giê-su, Thầy yêu dấu ra thì cuộc sống của chúng ta còn có ý nghĩa gì; lúc đó chúng ta còn biết đi theo ai nữa đây! Chỉ có Đức Giê-su Ki-tô vừa là Tin Vui vừa là Đấng trao ban sự sống cho chúng ta mà thôi. Đó là mầu nhiệm của niềm tin.

Chúng ta hãy hân hoan tuyên xưng niềm tin ấy trong Chúa Giê-su Thánh Thể, Người chính là Bánh trường sinh nuôi dưỡng muôn người qua muôn thế hệ. Bỏ Thầy rồi chúng con biết theo ai đây! Thầy chính là sự sống của chúng con. Không có Thánh Thể Chúa thì không có cuộc sống môn đệ. Xin cho cuộc sống của chúng con luôn gắn bó với Chúa và tha nhân. Amen!

Wednesday, 14 August 2024

THẾ NÀO LÀ Ở TRONG CHÚA?

 

Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan tiếp tục bàn về ý nghĩa của ‘Bánh trường sinh’, dẫn đưa chúng ta đi vào chiều sâu của phần suy tư mà Ngài và cộng đoàn của Ngài đã trải nghiệm về bí tích Thánh Thể.

Anh chị em tín hữu thuộc các giáo đoàn tiên khởi đã không chỉ tưởng nhớ đến Đức Giê-su, Đấng đã chết để làm chứng cho Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cho nhận loại, mà còn làm chứng rằng Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống từ trời xuống và đang hiện diện với họ. Vì thế, trong phần kết luận của diễn từ, Thánh Gio-an tông đồ muốn nhấn mạnh đến tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Điều này đã được nói đến trong phần trên của bài diễn từ, còn ở đây được nói đến trực tiếp. Những điều Đức Giêsu nói trong diễn từ là một cách nói khác với các cử chỉ, ngôn ngữ của Chúa trong bữa Tiệc Ly. Chính vì thế, tác giả Tin Mừng thứ tư không thuật lại việc Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Tác giả chỉ đưa ra những suy niệm rất phong phú trong bài diễn từ để giải thích dấu lạ hoá bánh ra nhiều. Chúng ta cùng nhau bước vào chiều sâu và hiệu quả của bí tích Thánh Thể đem lại.

Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm không phát sinh từ nỗ lực tìm kiếm của con người; nhưng đó là việc Chúa đã cử hành như đã đuợc các sách Tin Mừng ghi lại, cụ thể trong trình thuật của Tin Mừng theo Thánh Mác-cô như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người.”

Tất cả các hành động “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao ban” của Đức Giê-su trong bữa tiệc vượt qua đã đuợc thể hiện trọn vẹn trong sự chết, cao điểm của mầu nhiệm hiến dâng mà Đức Giê-su đã thực hiện. Thân xác Người là tấm bánh mà Người đã bẻ ra và trao ban để nuôi sống muôn người. Cuộc sống và sứ vụ của Người là bài ca chúc tụng Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã không trao cho chúng ta một kế hoạch, một chương trình để biến đổi xã hội. Người đã không đến để lãnh đạo một cuộc cách mạng chống lại sự chiếm đóng của đế quốc Rô-Ma. Thậm chí, Người cũng không phá hủy và quét sạch chế độ nô lệ mặc dù Người có ý làm như thế. Điều tiên quyết mà Người đã làm là ban chính mình để bộc lộ Tình Yêu khi Người dâng hiến bản thân cho Cha và Thánh Thần. Có nghĩa là Đức Giê-su đã trao ban cho chúng ta quyền thừa hưởng gia nghiệp của Nước Chúa, tạo cho chúng ta một cuộc sống nhằm giải thoát chúng ta khỏi quyền lực và ảnh hưởng của sự ác khiến cho chúng ta không còn phải chết nữa.

Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta tin rằng có một mối dây liên kết được thiết lập giữa chúng ta và Đức Kitô Phục Sinh. Người đã được sinh ra như chúng ta, trưởng thành và lớn lên theo năm tháng như chúng ta, và cuối cùng Người đã chết, nhưng không như chúng ta, Người đã Phục Sinh. Giờ đây, trong bí tích Thánh Thể, chúng ta làm chứng về sự Phục sinh của Người, Đấng đang sống và nuôi dưỡng để chúng ta đủ sức đi chung một con đường về nhà với Người.

Đức Kitô Phục sinh hiện diện với chúng ta trong Thánh Thể là sự hiện diện đích thật. Thân xác Phục sinh là một thân xác hoàn hảo mà Thiên Chúa đã trao ban lại cho Chúa sau cuộc hiến dâng trên Thập Giá của Người. Bằng vào thân xác đã được Phục Sinh, Đức Giê-su bây giờ có thể có mặt trong bí tích cho bất kỳ người nào khi Thánh Thể được cử hành. Đây không phải là hiện diện vật chất. Nhưng Chúa Giê-su đến với chúng ta bằng sự hiện diện bí tích của mầu nhiệm Thánh Thể, không chỉ đơn giản là một sự hiện diện bên chúng ta mà Người còn đem chúng ta đến tình trạng hoàn hảo ở trong Người nữa.

Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đến với chúng ta để chúng ta có thể ăn Mình và Máu Người. Đây chính là của ăn trường tồn và vĩnh cửu biến đổi thân xác chết dở của chúng ta thành thân xác vinh hiển của Đức Chúa. Lúc đó chúng ta làm cho Lời Chúa được ứng nghiệm, đó là: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."

Tuy được ở trong Chúa là điều cần thiết, nhưng không quan trọng bằng việc Chúa ở trong ta. Có nghĩa là chúng ta tập sống từ bỏ để cuộc sống của mình nên giống Chúa. Người đã sống nhờ Cha. Người đã trở thành của lễ hiến dâng đẹp lòng Thiên Chúa và đã trở nên nguồn ơn cứu độ nuôi dưỡng thế gian và những kẻ thuộc về Người thế nào thì trong phận vụ của người môn đệ, chúng ta cũng đuợc hối thúc, để ngày qua ngày, với bí tích Thánh Thể chúng ta sống trong mối dây hiệp thông với Đức Ki-tô để trở thành của lễ hoàn hảo cho Thiên Chúa trong niềm vui phục vụ và trở thành của ăn cho nhau.

Tóm lại, rao giảng Nước Trời và phục vu tha nhân là nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng của người môn đệ. Nhưng, để chu toàn đuợc nhiệm vụ cao cả và quan trọng đó, chúng ta cần đuợc nuôi dưỡng bởi sức sống là Thánh Thể Chúa. Chính bí tích Thánh Thể là nguồn sức mạnh giúp chúng ta làm đuợc những việc mà thế gian không làm được. Thế gian có thể tạo ra những anh hùng nhưng không tạo thành người môn đệ. Người ta có thể hiến dâng vì lý tưởng. Nhưng người môn đệ hiến dâng mình vì Yêu. Nguồn ơn sức mạnh đó chỉ có trong Thánh Thể Chúa. Chúng ta chỉ có thể quên mình để phục vụ người khác hết lòng nếu chúng ta được nuôi dưỡng bởi Tình Yêu của Đấng đã hiến dâng và sẵn sàng chết vì yêu.

Như vậy, chạy đến với bí tích Thánh Thể để nên một với Chúa là nền tảng và mục tiêu trong cuộc sống của người môn đệ. Không có Thánh Thể Chúa, không có người môn đệ đích thật. Có nghĩa là, cho dù người môn đệ có làm đuợc bao việc cao cả đến đâu mà không phát sinh từ Thánh Thể Chúa thì giống như người khờ dại xây nhà trên cát. Ơn khôn ngoan đuợc trao ban để chúng ta chọn lựa sự sống và sự sống đó phát xuất từ Mình và Máu Thánh Chúa. Từ đó chúng ta mới có thể sống và đạt được nguyện ước là trong Chúa, chúng ta sống và trở thành của ăn nuôi dưỡng nhau. Amen!

Wednesday, 7 August 2024

NGUỒN SỐNG CHÍNH LÀ CHÚA.

 Anh chị em thân mến,

Thái độ buồn chán gần như tuyệt vọng của ngôn sứ Elia trong bài đọc một hôm nay khiến tôi nhớ lại cách ứng xử của một số người đã đối diện với các căn bịnh nan y. Họ đã trải qua những tháng ngày đau khổ trên giuờng bịnh. Có những lúc không chịu nổi, chán nản và tuyệt vọng cho nên họ đã thốt lên ‘sao Chúa không cất con về cho rồi, cứ để con phải đau khổ mãi thế này!’ Như Elia, đó chính là phản ứng mang tính rất con người của chúng ta. Nhưng thái độ của Elia không làm cho Thiên Chúa thay đổi ý định.

Trong phần tiếp theo, tác giả đã thuật lại việc Thiên Chúa sai sứ giả mang bánh cho ông ăn và nuớc cho ông uống; không phải một lần mà là hai lần. Sau khi được bổ dưỡng, ngôn sứ tiếp tục lên đuờng và hoàn tất cuộc hành trình, đến núi của Thiên Chúa. Như vậy, qua câu chuyện, chúng ta mới thấy lòng quan tâm, săn sóc của Thiên Chúa dành cho Elia và cả chúng ta nữa. Ngài luôn hiện diện để trợ lực và thêm sức giúp chúng ta vuợt qua các gian nan và thử thách để hoàn tất cuộc lữ hành.

Thiên Chúa sai sứ giả của Ngài mang bánh và nuớc đến cho ngôn sứ Elia cho nên ông mới hoàn tất cuộc hành trình. Còn chúng ta thì sao? Có được hưởng đặc ân như ngôn sứ đã được qua bàn tay của các thiên sứ hay không? Câu chuyện minh họa sau đây có thể đem đến cho anh chị em lời giải thích.

Xẩy ra là, dân chúng tại một khu làng kia đã phải chịu một trận lụt thật kinh hoàng. Cũng may là tất cả mọi người dân trong làng đều đuợc di tản đến khu an toàn, ngoại trừ một chàng thanh niên kia đã chọn không di tản vì tin vào việc Chúa sẽ đến giải cứu anh. Việc đầu tiên anh làm là trèo lên tầng thứ nhất của căn nhà để tránh ngập lụt.

Bỗng nhiên, có một người đàn ông chèo ca-nô đi ngang và hỏi anh có cần được giúp đỡ để đến khu an toàn không? Anh trả lời không vì anh tin rằng Chúa sẽ cứu anh.

Mực nuớc cứ tăng dần. Anh bó buộc phải trèo lên tầng hai. Lại có một chiếc thuyền máy đi ngang qua, viên tài công dừng lại và hỏi anh có cần được giúp đỡ hay không? Anh cũng từ chối và tin rằng Chúa sẽ cứu anh.

Mực nuớc tiếp tục dâng cao. Đến lúc này anh phải trèo lên mái nhà để tránh nạn. Bỗng nhiên, có một chiếc trực thăng bay ngang qua. Ông phi công mới hỏi anh có cần đuợc giúp đỡ để đến khu an toàn không? Lại một lần nữa anh trả lời không vì tin rằng Chúa sẽ cứu anh. Anh kiên quyết ngồi đó chờ Chúa.

Cuối cùng Chúa đến thật. Anh bị chết đuối và đưa về diện kiến Chúa. Trong giây phút đó, anh đã thân thưa với Chúa rằng: “Con đã hết lòng tin tưởng vào Ngài, tại sao lại để con bị chết đuối.” Chúa từ tốn trả lời anh: “Con ơi, Cha, không chỉ một lần mà là ba lần, đã sai ba sứ giả của Ta đến cứu con mà con có nghe đâu. Con từ chối sự giúp đỡ của Ta mà.”

Qua câu chuyện minh họa nói trên, chúng ta nhận ra mình cũng là sứ giả của Thiên Chúa. Thế mà, chúng ta có nhận ra vai trò sứ giả mà Thiên Chúa dùng để giúp nhau hay lại đi tìm các phương thế phi thường khác để nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa dành cho mình?

Như vậy, vai trò của thiên sứ trong bài đọc một đuợc hiểu như là sứ giả thực hiện lịnh truyền của Thiên Chúa. Và, chính Thiên Chúa mới là Đấng thêm sức bổ duỡng cho ngôn sứ chỗi dậy và đi tiếp. Thiên Chúa đã không nhận lời cầu xin của Elia, nhưng Ngài hiện diện trong lúc mà ngôn sứ cần đến Ngài nhất.

Trong tinh thần đó, qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta tiếp tục lắng nghe, đón nhận và đào sâu sự quan tâm và săn sóc của Thiên Chúa qua diễn từ bánh hằng sống của Đức Giê-su. Người chính là bánh trường sinh, bánh hằng sống từ trời xuống nuôi duỡng và ban thêm sức mạnh cho chúng ta đủ sức đến và cùng dắt tay nhau đi về nhà Cha. Nhưng để Đức Giêsu là sự sống đích thật cho chính mình, chúng ta đuợc mời gọi đến với Đức-Giê-su, một con người thật đã hiện diện giữa thế gian, và chúng ta tin rằng giờ đây Người còn hiện diện trong bí tích Thánh Thể.

Bắt đầu phân đoạn Tin Mừng hôm nay là sự chống đối của người Do Thái khi nghe Đức Giê-su công bố Người từ trời xuống. Chúng ta có thể thông cảm khi họ có cái nhìn định kiến về Đức Giê-su. Vì thành kiến nên họ không nhận ra quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trong các kinh nghiệm rất đời thường mà họ đã có với Người. Mắt họ dán vào những dấu lạ bên ngoài mà quên đi một dấu lạ phi thường, đó là uy quyền của Thiên Chúa thường xuyên hiện diện và hoạt động trong các sự kiện bình thường nhất giữa chúng ta. Những gì mà chúng ta loại bỏ thì Thiên Chúa làm nên đá tảng để xây dựng cơ ngơi, nhà của Ngài.

Trước thái độ hoài nghi, vịn vào lý lẽ rồi từ khước đón nhận Đức Giê-su của người Do Thái, Đức Giê-su tiếp tục tỏ bầy cho họ biết rằng không ai có thể đến với Người trừ phi Chúa Cha là Đấng đã SAI Người, không LÔI KÉO kẻ ấy, và Đức Giê-su sẽ cho người ấy SỐNG LẠI trong ngày sau hết. Như vậy, việc chúng ta đến được với Chúa là một hồng ân.

Anh chị em thân mến,

Thật vậy. Hôm nay, Đức Giê-su đã tỏ bầy cho chúng ta một điều thật quan trọng. Việc chúng ta có thể đến được với Chúa có thể phát sinh từ niềm tin trong việc đáp trả lời mời gọi của Người; nhưng thật ra đó chỉ là điều thứ yếu. Thiên Chúa đã đi bước trước, đã hoạt động bằng cách ‘lôi kéo’ chúng ta đến với Ngài. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không ép buộc chúng ta phải tin theo Ngài. Vì yêu thương Thiên Chúa tôn trọng quyền tự do mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta. Nhưng không vì thái độ bất trung của chúng ta làm cho Ngài bỏ cuộc. Ngài luôn làm chủ công trình của Ngài là lôi kéo chúng ta về với nguồn ơn cứu độ đã xuất hiện nơi con người Đức Giê-su là Đấng được SAI đến từ Thiên Chúa.

Tìm đến với Đức Giê-su là tìm gặp được Thiên Chúa. Đến với Chúa không là hậu quả của sự số gắng tìm kiếm phát sinh từ con người. Nhưng đến với Chúa có nghĩa là đón nhận con người của Chúa. Thân thể Đức Ki-tô trở nên của ăn, Máu Người trở nên của uống nuôi sống chúng ta như Lời Chúa nói: “Ai đến với Người sẽ không hề đói. Ai tin vào Người sẽ không hề khát bao giờ”.

Đức Giê-su, hôm nay, cho chúng ta thấy Người là của ăn nuôi dưỡng và ai ăn bánh này sẽ được Chúa cho sống lại trong ngày sau hết. Ngày sau hết không phải là ngày trên quê trời; nhưng được bắt đầu trong mọi thời khắc của cuộc sống mình. Thời điểm nào cũng có thể là giờ phút sau hết của chúng ta. Vì thế, đến với Đức Giê-su như là của ăn đích thật ngay trong giây phút hiện tại là một bảo đảm cho chúng ta đuợc sống lại trong ngày sau hết.

Như vậy, một khi chúng ta được Thiên Chúa lôi kéo là lúc chúng ta chấp nhận từ bỏ quyền làm chủ bản thân để Thiên Chúa là Thiên Chúa thật, là Đấng ban sự sống, như Lời Người phán dậy “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” Anh chị em có tin điều đó không?

Dạ vâng, con tin Chúa là sự sống của chúng con. Amen!