Thursday, 31 May 2018

“HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ NHỚ ĐẾN TA”



Anh chị em thân mến,
Trong trình thuật Bánh hoá nhiều, Đức Giê-su đã làm cho những kẻ theo Người được ăn thỏa thích và ai ai cũng được ăn no nê; thế mà vẫn còn dư mười hai thúng đầy. Nhưng, ngày nay sao vẫn còn người chết đói hay chết vì thiếu dinh dưỡng! Phải chăng, sau khi Đức Giê-su về trời thì Người cũng đem theo tất cả năng lực để làm cho thế giới này khỏi các cảnh tai ương và bịnh tật! Thật ra, Đức Giê-su đã không đến để làm cho người ta thoát khỏi các tai ương, bịnh tật. Tất cả vẫn còn y nguyên. Chỉ khác một điều là hiện nay có biết bao nhiêu môn đệ của Chúa, trên mọi nẻo đường của thế giới, đang tiếp tục sứ mạng rao truyền yêu thương, chữa lành các thương tích và nuôi ăn mà họ đã lĩnh nhận để trao ban cho mọi thành phần trên thế giới này, không loại trừ một ai.  
Tuy nhiên, để thỏa mãn óc tò mò nên tôi muốn tìm câu trả lời cho vấn nạn này, bèn vào trang ‘Google Search - mạng lưới tìm kiếm của Google’ và đánh câu hỏi ‘Trên thế giới này, có bao nhiêu người chết vì đói khát hàng năm?’ và đây là câu trả lời ‘Ngay bây giờ, có hơn 1 tỷ người đang lâm vào cảnh đói khát. Có nghĩa là cứ 6 người đang sống trên thế giới này thì có l người không đủ lương thực để có một cuộc sống tốt và mạnh khỏe. Và, hiện nay đã có 36 triệu người chết đói!’
Số những người bị chết vì thiếu dinh dưỡng trên thế giới hiện nay cũng không làm cho chúng ta khiếp sợ và kinh hoàng khi nghe kể về trận đói Tháng Ba năm Ất Dậu (1945) tại Việt Nam. Có lẽ một phần vì mắt thấy bao giờ cũng ghi lại một ấn tượng sâu sắc hơn là tai nghe. Hơn nữa, với nạn đói tại Việt Nam, người ta chết hàng loạt, chết bên vệ đường, chết ngoài xó chợ, chết khắp mọi nơi, chết không chọn nơi chọn chốn. Chết không kịp chôn. Có nhiều nơi chỉ kịp bó gói thi thể bằng chiếu rồi đốt để tránh bịnh dịch!
Hiện nay các cơ quan từ thiện hoạt động không ngừng nên các trận đói trường kỳ cũng suy giảm dần. Tuy vậy, chúng ta có bổn phận và trách nhiệm gì với những hương hồn đã chết? Một nén nhang, một lần thăm viếng các ngôi mộ tập thể? Quan trọng hơn là chúng ta đã làm gì cho tình trạng đói ăn trên thế giới ngày nay? Và, trong phận vụ của một tín hữu, chúng ta đã noi gương Chúa để trở thành của ăn cho nhau chưa?
Quả thật những vấn nạn trên quá sức chúng ta. Đó là các vấn đề trên lãnh vực các quốc gia. Hy vọng, các nhà lãnh đạo các quốc gia giầu có được thấm nhuần văn hoá của Tin Mừng, học và noi gương Đức Giê-su, làm mọi sự để nuôi ăn kẻ khác.
Còn chúng ta nghe thêm một câu chuyện. Truyện xẩy ra bên Phi Luật Tân. Có cha giáo dậy thần học tại các chủng viện. Cuối tuần, ngài đi làm mục vụ tại các làng quê. Chọn lựa này của ngài thật đáng cảm phục. Dân quê tuy nghèo nhưng đơn sơ và chân thật. Họ chịu nhiều thiên tai, nhưng ít ai oán trách. Trong làng, có gia đình hai cụ kia, lớn tuổi, nghèo. Hai cụ cư trú trong một căn chòi chỉ đủ che mưa, che nắng mà sống qua ngày. Họ không có con cái nên cũng chẳng có ai để nhờ vả. Xẩy ra là có cơn bão quét qua làng khiến cho căn chòi của hai cụ bị thiệt hại nặng hơn các nhà khác.
Sau cơn bão, theo thông lệ cha giáo xuống làng để cùng bà con cử hành Thánh Lễ. Trong các bài giảng, cha luôn tìm cách nhắc nhở cho bà con biết về tình trạng của hai cụ. Tuần thứ nhất qua đi, rồi lại một tuần nữa trôi qua, sang thêm một tuần nữa, đến cuối tuần thứ tư, mọi sự vẫn y nguyên. Sau khi dâng Lễ xong. Cha báo cho bà con biết tuần tới sẽ không có lễ. Tình trạng trong nhà thờ nhốn nháo cả lên. Họ nghĩ là cha ốm hay bị thuyên chuyển.
Cha giáo giải thích tôi không đến dâng lễ vì anh chị em chưa sống đúng vai trò của người tín hữu. Cha nói thêm: “Đây nhé, kể từ ngày cơn bão quét đến làng này, tuần nào tôi cũng nhắc cho anh chị em biết về hoàn cảnh mục nát, xiêu vẹo của căn chòi mà hai cụ đang ở. Thế mà có ai quan tâm làm gì để giúp họ đâu!” Chúng ta cùng chia một bánh, cùng uống một chén trong Thánh Lễ, rồi có ai sống điều mình đã nhận chưa? Nghe đến đâu lòng họ bị đánh động đến đó. Cả nhà thờ lặng yên. Ai ai cũng cúi gầm mặt xuống. Không ai nói với ai điều gì.
Sau vài phút trôi qua, ở góc cuối nhà thờ, có một người đàn ông bị tàn tật, run rẩy đứng lên và thưa với cha và cộng đoàn lời lẽ sau đây: “Dạ thưa cha, lời cha dậy thật chí phải! Tuy nhiên, thay vì nhắc nhở cho chúng con biết nhiệm vụ phải làm, sao cha không dẫn chúng con đi, rồi mỗi người một tay sửa lại căn chòi xiêu vẹo cho hai cụ ấy. Theo con, đó là cách thế hữu hiệu và nhanh nhất.”
Đến lúc này, không chỉ có giáo dân mà cả cha giáo cũng cúi gầm mặt xuống. Cha ngẫm lại mới thấy ông này nói đúng. Cha thường xuyên nói cho họ biết là con người ngày nay muốn được chứng kiến nhiều gương sáng hơn là những lời nói suông!
Truyện dừng lại ở chỗ đó, như lời mời gọi! Và, phần sau là kết luận của từng người, những ai đã cử hành Thánh Lễ. Cả cha lẫn con. Không chừa một ai!
Anh chị em thân mến,
Ít nhất mỗi tuần một lần, nhớ đến Lời Chúa dậy ‘Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.’ Chúng ta cùng nhau dâng Lễ, cùng nhau cử hành bí tích Thánh Thể; nhưng chúng ta đã sống điều mà chúng ta cử hành và lãnh nhận như thế nào?
Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm không dưạ trên lý thuyết hay suy nghĩ của con người; nhưng đó là việc Chúa đã cử hành như đã được các sách Tin Mừng ghi lại, cụ thể trong trình thuật của Tin Mừng theo Thánh Mác-cô như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người.”
Tất cả các hành động “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao ban” của Đức Giê-su trong bữa tiệc vượt qua đã được thể hiện trọn vẹn trong sự chết, cao điểm của mầu nhiệm hiến dâng mà Đức Giê-su đã thực hiện. Đây không chỉ là huấn lịnh. Đó là việc làm của Đức Giê-su. Người đã làm mọi sự được cử hành trong nghi lễ của bữa tiệc vượt qua này. Thân xác Người là tấm bánh mà Người đã bẻ ra và trao ban để nuôi sống muôn người. Cuộc sống và sứ vụ của Người là bài ca chúc tụng Thiên Chúa.
Kính thưa anh chị em,
Bàn đi, bàn lại rồi mở rộng để tìm hiểu thêm về bí tích Thánh Thể là chuyện cần thiết. Nhưng, cuối cùng chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng ‘Đây là mầu nhiệm đức tin’. Đã là mầu nhiệm thì hiểu sao cho thấu! Con người ở các thời đại khác nhau có cách diễn tả khác nhau về mầu nhiệm mà họ đã lĩnh nhận. Tuy nhiên, tất cả đều cần đón nhận bằng niềm tin rồi sống niềm tin đó.
Giả như có ai cầm tấm bánh đã được truyền phép và hỏi anh chị em có tin đây là Thánh Thể Chúa hay không? Bảo đảm cả nhà thờ sẽ đồng thanh tuyên xưng “Amen, nghĩa là đúng như vậy”. Sẽ có anh chị em nói rằng việc đó sao xẩy ra được! Ai có gan làm chuyện tầy trời đó! Đúng vậy, anh chị em tín hữu không dám làm và không có năng quyền để làm. Nhưng các thừa tác viên linh mục của Hội Thánh đều làm sau khi truyền phép và tất cả đều tin nhận đó là Mình và Máu Thánh Chúa. Không chút ngần ngại. Không nghi ngờ. Tất cả đều tuyên xưng. Chúa hiện diện hữu hình qua hình bánh và hình rượu mà tất cả chúng ta đều chấp nhận bằng NIỀM TIN.
Thế nhưng có trường hợp, hy vọng không bao giờ xẩy ra, như sau: Ai trong chúng ta có gan cầm tấm bánh đã được truyền phép rồi giơ lên, bỏ xuống đất rồi chà và dẫm đạp trên nó. Trước cảnh tượng đó, tôi tin chắc anh chị em sẽ bầy tỏ thái độ đối với người bất kính ngay.
Nhưng, nếu có người nào trong anh chị em bị bạo hành trong gia đình, là nạn nhân của các vụ lạm dụng tình dục, bị ngược đãi, bị chà đạp, nhân phẩm không còn …. thì hành xử của chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta có cảm nhận rằng thân thể Chúa đã bị thương tích và cần được hàn gắn hay là chúng ta lại chọn thái độ im lặng, ngu si hưởng thái bình và ai chết mặc ai, miễn là ta vẫn rước lễ, sống thánh thiện và giữ vững vị thế trong cộng đoàn là đủ rồi!
Nói như thế có nghĩa là, đôi khi chúng ta nhấn quá mạnh, bàn quá sâu, làm chứng quá hùng hồn về sự hiện diện đích thật của Chúa trong bí tích Thánh Thể trong các Thánh Lễ, các giờ suy tôn hay chầu Thánh Thể rồi sau đó chúng ta giam Người trong nhà tạm rồi ra về. Trong khi đó, Người đang hiện diện và chờ đợi chúng ta nơi những người anh chị em đang bị thương tích nói trên. Anh chị em đừng quên họ cũng là một phần của thân thể Người.
Ngày xưa, tại Co-rin-thô đã xẩy ra việc giống như thế. Họ cũng tụ họp để ăn bữa tối của Chúa. Nhưng khi ra về thì mạnh ai nấy sống. Chẳng ai quan tâm đến ai. Ai đói cứ đói. Kẻ đầy dư thì lại say mèm. Kẻ giầu có cậy thế làm nhục những người nghèo khổ. Thánh Phao-lô đã không khen lối sống hai mặt của họ ngày xưa thì hôm nay lời khuyên của Ngài vẫn còn giá trị, Ngài nói “Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!” Sau đó Thánh Phao-lô nhắc lại cho họ biết sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục Sinh khi Người bẻ bánh. Rồi Ngài tiếp tục khuyên dậy họ cần xét mình, biện phân để khỏi bị xét xử. “Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án…” (1Cor 11: 17-34)
Hãy đợi nhau để cùng dùng bữa, nghĩa là cùng chia sẻ bữa tối của Chúa. Có nghĩa là không còn kẻ đói người say, kẻ giàu người nghèo, kẻ này làm nhục kẻ khác. Tất cả đều bình đẳng như các chi thể của một thân thể nhiệm mầu của Đức Ki-tô.
Hãy đợi nhau như Chúa đã dùng một quãng đường rất dài, tựa như từ Giê-ru-sa-lem đến Em-Mau để giải thích Kinh Thánh cho các môn đệ; đến khi bẻ bánh thì họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Phải chăng đây là kinh nghiệm Phục Sinh!
Hãy đợi nhau như Chúa đợi lòng hiếu khách và quảng đại của chúng ta khi Người hình như muốn đi thêm một đoạn nữa. Phải chăng qua việc làm thật tế nhị này, Đức Giê-su cho chúng ta một cơ hội để đón tiếp Người.
Như vậy, tham dự bữa tối của Chúa là cùng nhau thực hiện Giao Ước của Chúa đã lập để chia sẻ, bẻ ra và trao ban quà tặng là chính Thân Mình Chúa cho nhau. Và trong việc hiệp thông với Đức Giê-su Thánh Thể, chúng ta đuợc mời gọi ra đi để thực hiện và làm những gì mà Chúa đã làm.
‘Hãy làm việc này’ là bắt chước, noi gương những gì mà Chúa đã làm cho Chúa Cha và cho chúng ta. Người đã trở thành của lễ hiến dâng đẹp lòng Thiên Chúa và cũng trở nên nguồn ơn cứu độ nuôi dưỡng thế gian và những kẻ thuộc về Người thế nào thì trong phận vụ của người môn đệ, chúng ta cũng được hối thúc, để ngày qua ngày, sống trong mối dây hiệp thông với Đức Ki-tô để trở thành của lễ hoàn hảo cho Thiên Chúa trong niềm vui phục vụ và trở thành của ăn cho nhau như thế.
Tóm lại, rao giảng Nước Trời và phục vu tha nhân là nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng của người môn đệ. Nhưng, để chu toàn đuợc nhiệm vụ cao cả và quan trọng đó, chúng ta cần được nuôi dưỡng bởi sức sống là Thánh Thể Chúa. Chính bí tích Thánh Thể là nguồn sức mạnh giúp chúng ta làm được những việc mà thế gian không làm được. Thế gian có thể tạo ra những anh hùng nhưng không tạo thành người môn đệ. Người ta có thể hiến dâng vì lý tưởng. Nhưng người môn đệ hiến dâng mình vì Yêu. Nguồn ơn sức mạnh đó chỉ có trong Thánh Thể Chúa. Chúng ta chỉ có thể quên mình để phục vụ người khác hết lòng nếu chúng ta được nuôi dưỡng bởi Tình Yêu của Đấng đã hiến dâng và sẵn sàng chết vì yêu.
Như vậy, chạy đến với bí tích Thánh Thể để múc thêm năng lực của sự sống rồi ra đi chu toàn nghĩa vụ yêu thương mà người môn đệ cần thực hiện là sứ điệp mà chúng ta cần ghi nhớ trong ngày mừng kính Lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay. Cầu chúc mọi người đạt được nguyện ước này và trở thành của ăn nuôi sống nhau trong Chúa. Amen!


Friday, 25 May 2018

VÒNG TRÒN TỎA SÁNG CỦA TÌNH YÊU



Hôm nay cùng với toàn thể Hội Thánh, chúng ta mừng trọng thể Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm lớn lao và quan trọng nhất trọng đạo, vì mầu nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa. Và đã là mầu nhiệm thì trí khôn con người làm thế nào có thể hiểu thấu được! Chúng ta vui lòng chấp nhận bằng niềm tin. Và sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. Vì yêu thương Ngài không dấu chúng ta một sự gì.

Nhưng nếu Chúa đã mạc khải thì tại sao Chúa lại không ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để chúng ta hiểu?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã trao ban cho chúng một nhiệm vụ thật cao cả là hãy ra đi rao giảng cho thế gian biết về Tình yêu. Và nhờ vào lời rao giảng cũng như các việc làm thể hiện trong cuộc sống của chúng ta mà người ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và trở về với Ngài qua phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như vậy, con đường của chúng ta trong vai trò chứng nhân hoàn toàn không được phát sinh bởi trí óc hay sự hiểu biết của con người mà thôi. Nhưng, còn phải lệ thuộc vào các chứng từ và lối sống của chúng ta nữa.  

Tuy vậy, cho dù chúng ta nỗ lực đóng góp công sức của mình vào công việc truyền giáo. Nhưng, ngay từ đầu việc tham gia vào sứ mạng rao giảng là hồng ân được ban tặng. Chính Thiên Chúa mới là người trao ban. Chúng ta chỉ là những kẻ được sai. Vì thế, để hoàn tất sứ mạng cao cả này, chúng ta cần ý thức rằng đời sống của những kẻ rao giảng cần được phát xuất từ lượng ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa, không ngừng trao đổi cho nhau mà tuôn xuống và lan tỏa trong lối sống của chúng ta.

Vì thế, trong dịp mừng lễ hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi hay cùng nhau hỏi rằng: Mối tương quan giữa Ba Ngôi Thiên Chúa ảnh hưởng như thế nào trong cuộc sống mình? Và chúng ta được lôi kéo như thế nào vào trong vòng xoáy yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi, để từ đó cuộc sống của chúng ta cũng được bung ra mà làm cho Tình Yêu của Ba Ngôi được toả sáng hơn.

Nhìn lại cuộc sống, tôi cảm nhận được một điều là tôi được Ba ngôi Thiên Chúa che chở, cho dù đã nhiều lần tôi chẳng có ý thức gì về việc tuyên xưng hay hành động cuả tôi.

Đã bao nhiêu lần chúng ta làm dấu Thánh giá: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Amen.

Trong cuộc sống, mỗi khi gặp gian nguy và thoát cảnh hiểm nghèo, chúng ta thường dâng lời tạ ơn rồi làm dấu Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Amen.

Đến lúc sinh thì, trong giây phút lâm chung; tôi thường nghe một công thức phó linh hồn cho người quá cố như sau: Giêsu, Maria, Giuse con phó linh hồ Maria, Giuse, Phêrô hay linh hồn người thân nào đó vào trong tay Chúa, Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Amen.

Phải chăng mỗi lần như thế là chúng ta đặt mình dưới sự bảo vệ của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Như vậy, dù ý thức hay sự hiểu biết của chúng ta về Mầu nhiệm Ba Ngôi đến độ nào cũng không quan trọng bằng việc đặt mình dưới sự bao bọc và yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa bằng chính các việc làm thật đạo đức và ý nghĩa của mình. Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.

Ba ngôi Thiên Chúa thường xuyên hiện diện và hoạt động thật mãnh liệt trong cuộc sống, cả những lúc chúng ta không ý thức về sự hiện diện đó; nhưng Ngài vẫn hiện diện; vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Đó chính là chân tướng đích thật về Thiên Chúa. Có nghĩa là, điều làm cho Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện trường cửu và bất toàn là Tình yêu. Ba ngôi trao đổi và làm giầu có Tình Yêu bằng cách trao ban Tình yêu đó cho nhân loại. Như vậy, cho dù thế gian và những lực lượng của thế gian luôn chống đối chương trình của Thiên Chúa; nhưng chính thế gian và mọi sự thuộc về nó lại là đối tuợng để Thiên Chúa trao ban Tình Yêu. Đó chính là Tình Yêu dâng hiến như Cha đã hiến dâng Con vì yêu. Tình yêu cho đi như quà tăng sự sống mà người Con đã trao ban cho thế gian. Và, trong nguồn suối yêu thương đó, con người được lôi về quĩ đạo của sáng tạo và đổi mới luôn.

Như vậy, khi tuyên xưng Thiên Chúa là tình yêu, có nghĩa là chúng ta chứng tỏ cho thế giới biết Thiên Chúa không đơn độc một mình. Bởi vì, nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là ba: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương nhau, hiến tặng sự sống cho nhau, hoàn toàn tương quan, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối dây liên kết tình yêu và sự sống giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần. Người chính là hoa quả tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi, nhưng lan toả trên khắp vũ trụ. Ba ngôi yêu thương nhau và đối tượng tình yêu của Ba Ngôi là toàn thể nhân loại. Tôi xác tín rằng tất cả mọi người, dù có cuộc sống ra sao, vẫn có một vị trí thật quan trọng trong trái tim nhân hậu của Thiên Chúa.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là mầu nhiệm của sự hiệp nhất.

Khi nói đến điều này, tôi xin đưa ra một hình ảnh và cũng là lời nhắc nhở cho anh chị em là những người đang sống trong bậc gia đình. Bởi vì anh chị em thật có phúc khi được nếm hưởng phần nào về mầu nhiệm Tình yêu của Thiên Chúa Ba ngôi
.
Khi yêu nhau anh chị mong muốn cho gia đình được hiệp nhất. Ước vọng hiệp nhất và nên một của anh chị sẽ được thực hiện nơi người con mà Thiên Chúa ban cho anh chị. Nó là của chàng và cũng là của nàng. Nó là chúng ta, là tình yêu chung mà anh chị có thể thấy được. Tình yêu giữa hai người đã triển nở thành tình yêu chung trong một ngôi vị thứ ba: Tình yêu của họ được trao ban cho nhau và cho những người con.

Hình ảnh gia đình ấy có thể giúp chúng ta tiếp cận phần nào với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - gọi là phần nào - bởi vì mọi hình ảnh đều bất toàn và không thể diễn đạt trọn vẹn về sự vô biên của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương là bản tính chung của Ba Ngôi. Yêu thương cũng là nền tảng của gia đình.

Vì vậy, cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa Ba ngôi là sức đẩy cho chúng ta yêu thương nhau.

Thưa anh chị em,
Trong Thiên Chúa, khởi điểm của tình yêu là mở ra, thông ban, chia sẻ. Thái độ mở ra, thông ban, chia sẻ nầy đòi hỏi chúng ta phải ra khỏi bản thân và đi đến với người khác. Thái độ nầy đòi hỏi chúng ta từ bỏ não trạng ích kỷ, quên mình mà quan tâm đến ích lợi và hạnh phúc của người khác.

Tuy nhiên, chúng ta không chỉ mở ra để tạo nên một thứ “tôi và chúng ta” khép kín. Tinh thần bè phái và phe nhóm lại chẳng có mặt trong cuộc sống của chúng ta đó sao? Nơi Thiên Chúa Ba Ngôi thì không như thế. Tình yêu đã chẳng tự khép kín trong gia đình của Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng lan tỏa và chan hoà trong vũ trụ bao la, tuôn đổ xuống lòng mọi người.

Thật vậy, niềm tin và tình yêu của chúng ta vào Thiên Chúa Ba Ngội thúc bách chúng ta đi tới, phá đổ mọi bức tường ngăn cách sự hiệp nhất để tình yêu hiện diện và lan toả khắp nơi. Vì tình yêu là hơi thở của sự sống.

Tóm lại, Mầu nhiệm mà chúng ta cử hành hôm nay mời gọi chúng ta sống; sống điều mà Thiên Chúa Ba ngôi đã sống là trao ban Tình Yêu cho nhau và cho nhân loại. Và khi đặt mình vào trong vòng tròn Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi là lúc chúng ta thực hiện sứ mạng mà Đức Giê-su truyền ban hôm nay: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Amen!


Monday, 21 May 2018

THẦN KHÍ THIÊN CHÚA: SỨC MẠNH YÊU THƯƠNG



Lâu lắm rồi, tôi đã được nghe một câu chuyện. Truyện tích này chỉ có thể xẩy ra tại các nơi mà chính phủ chưa đủ khả năng để cung cấp một nền y tế và bảo vệ sức khoẻ cho người dân, như ở Việt Nam, Phi Luật Tân và các quốc gia nghèo. Truyện kể như sau:

Có hai mẹ con gốc người dân tộc Đu-Ma-Gat bên Phi luật Tân sống với nhau trong một hoàn cảnh nghèo đói và thiếu thốn mọi sự. Đã xẩy ra là con của chị mắc phải một cơn bịnh hiểm nghèo và cần một khoản tiền để chữa trị. Hoàn cảnh của họ, tiền ăn còn chưa đủ lấy đâu mà trả tiền viện phí và thuốc men. Cuối cùng, chị cũng đành bó tay nhìn người con ra đi!

Sau khi lo ma chay cho cháu xong. Trong một lần dọn dẹp nhà cửa, chị tìm thấy một gói giấy nằm trong góc tủ, sát bên bức tường bám đầy bụi bặm. Lôi gói giấy đó ra, chị đã lần mò mở từng lớp rồi từng lớp, cuối cùng chị khám phá ra một xấp tiền, theo sự suy đoán của chị thì đó là số tiền dành dụm của ông bố chồng; ông đã nhét vào nơi đó rồi với cơn bịnh đãng trí nên không còn nhớ đến nó nữa.

Cầm xấp tiền trên tay, chị nghĩ đến chú con trai mình với tâm hồn chua xót, đầy nghẹn ngào cho số phận của cháu!

Chúng ta không bàn về số phận của những người nghèo. Cuộc đời của họ bị bao phủ bởi đắng cay, bạc phước và bất hạnh. Câu chuyện nói trên khiến tôi nhớ đến vai trò của Thánh Linh trong cuộc sống mình. Người vẫn có đó, thế mà nhiều lúc tôi cứ nghĩ Người đi vắng. Như người phụ nữ trong câu chuyện, chúng ta có thể sở hữu một năng lực phi thường, có thể giúp mình biến đổi từ trạng thái chết sang sống, thế mà chúng ta nhiều lần đã không nhận ra sự hiện diện đó.

Thánh Thần không chỉ là quà tặng cao quí nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta một lần mà thôi. Ngay từ thủa sơ khai, trong trình thuật tạo dựng, tác giả sách Sáng thế đã mô tả sự hiện diện của thần khí Thiên Chúa bay lượn là đà trên mặt nước; rồi đến khi tạo dựng con người như hình ảnh của Thiên Chúa; tác giả một lần nữa, bằng một thể văn rất ấn tượng, ẩn chứa một ý nghĩa thật sâu sắc khi mô tả việc Thiên Chúa thổi sinh khí vào pho tượng mà ban cho con người sự sống. Chính Thần Khí của Thiên Chúa là nguồn sự sống của nhân loại.

Thánh Thần hoạt động liên lỉ trong dòng lịch sử của dân Do Thái nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung. Ngài hiện diện với mọi dân tộc. Ngài xuất hiện tựa làn gió, thổi sức mạnh và hơi ấm đến mọi người, mọi nơi và mọi chốn. Không một cá nhân hay tổ chức nào có thể cầm giữ và điều khiển được Ngài.

Rồi đến lượt các Tông đồ, Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các ngài. Trước đó các ngài đã từng theo Chúa, đã từng nghe bao lời dạy dỗ của Chúa, đã từng chứng kiến bao điều cả thể của Chúa. Rồi chỉ vì sợ hãi nên sau lần hiện ra, với lời chúc bình an và qua việc Chúa thổi hơi trên các ông; thế mà các ông vẫn trốn chui trốn nhủi trong nhà. Thậm chí đến ngày Người gọi các ông đến chứng kiến cảnh tương Người đi về cùng Cha, thế mà các ông vẫn còn cho rằng đó là lúc Người khôi phục vuơng quyền Israel. Rồi thế nào mà các ông lại không được chia sẻ ít chức quyền. Óc não chính trị. Tìm kiếm chức quyền là những vật cản khiến các ông không nhận ra chân tướng và sứ vụ của Đức Giê-su.

Thế rồi Chúa Thánh Thần ngự đến và các ông được biến đổi hoàn toàn: nhiệt thành và can đảm rao giảng Tin Mừng. Phêrô đã từng run sợ chối Chúa trước mặt những người đầy tớ, thế mà sau biến cố Thánh Thần ngự xuống, ông đã đứng trước một đám đông rao giảng hùng hồn về sự chết và sống lại của Đức Giê-su, khiến cho mấy ngàn người bị đánh đông và trở lại với niềm tin Phục Sinh.

Như Phêrô, chúng ta được mời gọi đóng góp công sức của mình. Nhưng chính Chúa Thánh Thần mới là nguồn động lực họat động nơi kẻ nói và người nghe; để ai nói sẽ nói Lời Chúa và kẻ nghe cũng sẽ đón nhận bằng một con tim bằng thịt mà tin và trở lại với sự thật là Tình Yêu của Chúa đã thể hiện qua sự chết và Phục sinh của Đức Giê-su.

Cụ thể, trong bài đọc 1 mà chúng ta vừa nghe hôm nay. Sau khi Chúa Thánh Thần ngự xuống, các Tông Đồ nói được các thứ tiếng mà những người nghe đến từ các nơi đều hiểu các ngài muốn nói gì. Chúng ta có thể giải thích rất đơn giản là các ngài được ơn nói ngoại ngữ. Thật ra, dân chúng tập hợp tại Giê-ru-sa-lem vẫn còn giữ nguyên nền tảng cá biệt của dân tộc họ và ngôn ngữ riêng của họ. Nhưng quyền năng của Chúa Thánh Thần đã hoạt động để các ngài có thể diễn đạt sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người.

Như vậy, tuy họ vẫn còn sự khác biệt về văn hoá, ngôn ngữ, chủng tộc hay mầu da; nhưng bằng Tình yêu con người có thể đón nhận và hiểu sứ điệp của Thiên Chúa muốn nói gì qua lời rao giảng của các Tông Đồ. Trong Tình yêu, dù vẫn còn khác nhau, nhưng trong sự khác nhau đó, con người vẫn đồng cảm, thông hiệp và yêu thương nhau hơn. Chỉ có ngôn ngữ của yêu thương mới giúp con người nối kết được với nhau. Tình Yêu là hoa quả mà Chúa Thánh Thần tác động và ban cho con người. Nói khác đi, Chúa Thánh Thần là nguồn suối, hoa quả của yêu thương mà Chúa Cha và Chúa Con trao ban cho những kẻ thuộc về Người.

Sự thán phục của dân chúng từ khắp phương thiên hạ kéo về Giê-ru-sa-lem dành cho các Tông Đồ không phải vì các ngài thông thái hay tài giỏi, can đảm hay mạnh dạn; nhưng vì các ngài đã để cho Thánh Thần ngự xuống trên môi miệng mà ca tụng và loan báo những kỳ công của Thiên Chúa. Như vậy, quả là rõ ràng cho chúng ta nhận thấy rằng Chúa Thánh Thần đã dùng các ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau để truyền đạt sứ điệp của Chúa cho con người. Khác xa với quan niệm cho rằng chỉ có dân tộc này, ngôn ngữ kia, văn hoá nọ mới mang tính ưu vượt và duy nhất để truyền đạt tư tưởng và sứ điệp của Chúa.

Chúa Thánh Thần hoạt động trong mọi dân tộc, như dân thành Ê-phê-sô khi xưa. Họ chưa từng nghe biết về Chúa Thánh Thần, nhưng họ đã tin. Đức Tin này không phải là khám phá của họ, nhưng đó chính là hoa quả của Thần Khí! Ai trong chúng ta dám khẳng định rằng Thánh Thần chưa hoạt động nơi họ. Nếu đã không dám khẳng định thì tin là giải pháp thuận lợi nhất.

Chúa Thánh Thần đã được diễn tả qua các biểu tượng như gió, cuồng phong và lửa. Và như anh chị em đã từng có kinh nghiệm: gió muổn thổi đâu thì thổi, nào ai biết được gió từ đâu đến và sẽ đi về đâu; cuồng phong mà đến thì ai cản được!

Sau cùng, nhân dịp mừng Lễ Chúa Thánh Thần ngự xuống hôm nay, xin mời anh chị em cùng tiếp tục:

·        Hãy nói lời yêu thương. Vì một khi chúng ta nói với nhau bằng tiếng nói của yêu thương thì chúng ta sẽ chạm đến những cảm xúc chân thật của con tim; từ đó mọi gắn bó và các dây liên kết của chúng ta sẽ bền chặt hơn bởi Thánh Linh

·        Hãy tạo mọi cơ hội để tiếng nói của mình xứng đáng truyền đạt sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa.

·        Và, đừng dập tắt hay từ khước nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng đang hiện diện và hoạt động nơi con người tại các nền tôn giáo khác, nơi các dân tộc khác, thậm chí ngay cả trong các tổ chức mà nhiều người lầm tưởng là họ đang chống lại Giáo Hội. Có thể, ở một bình diện nào đó, họ không đồng ý với lối hành xử thiếu tính con người, không có dân chủ trong một hình thức cơ chế nào đó của Giáo Hội. Nhưng qua nỗ lực, sự thành tâm và thiện chí xây dựng; chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong các nỗ lực mà họ đang làm để giúp chúng ta hành xử và xây dựng một thân thể nhiệm mầu của Đức Kitô theo đúng ý Chúa hơn.

Sau cùng, Thánh Linh, khấn xin ngự đến và giúp chúng con nhận ra các hoạt động của Người không chỉ trong cuộc sống của chúng con mà thôi; nhưng còn mở tung cánh cửa tâm hồn của chúng con, và tác động thật mãnh liệt để chúng con còn nhận ra sự hiện diện và tác động của Thánh Linh nơi mọi người; hầu chúng con đủ can đảm ra đi mà làm chứng cho sự thật, làm chứng cho Tin Mừng như các Tông đồ khi xưa. Amen!

Monday, 14 May 2018

CHÚA ĐÃ ĐI ĐÂU VÀ CHÚNG TA ĐÃ LÀM GÌ?



Trình thuật Tin Mừng hôm nay bao gồm hai điều: Thứ nhất là viêc Chúa trao ban sứ mạng cho các môn đệ. Việc trao quyền cho các môn đệ hôm nay có thể ám chỉ đến việc Người đã hoàn tất kế hoạch cứu độ mà Cha đã uỷ thác. Giờ này, Người chuẩn bị đi về cùng Cha. Và như vậy, với sự hiện diện mới, không còn bằng xương bằng thịt và cũng không còn bị giới hạn và ràng buộc bởi không gian và thời gian; Người sẽ hoạt động trong các kẻ tin. Vì thế trao ban uy quyền và sứ mạng cho họ cần được thực hiện trước khi Người trở về với thân phận hằng có trong Thiên Chúa của Người.

Khi nói đến việc đi về cùng Cha, chúng ta đã bước sang ý tưởng thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay, đó là việc Chúa được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.

Có phải cho đến hôm nay Chúa mới được đưa lên trời hay không? Thật ra, Đức Giê-su đã đi vào vinh quang của Cha Người ngay sau khi chết. Việc được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin.

Vì thế, điều mà tác giả của bài Tin Mừng muốn kể cho chúng ta hôm nay là Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua; Người vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ của Người. Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ. Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay đã được tôn vinh, Người có thể hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người chúng ta.

Chúng ta mừng sự thay đổi, cách hiện diện mới của Chúa. Chúng ta không còn được tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta được liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.” 

Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để được tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là Thánh Linh.

Như vậy, sống trong một thế giới bạo lực, chúng ta được thúc đẩy là sứ giả của hòa bình. Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ vì ghen ghét nhau thì chúng ta lại được mời gọi sống yêu thương và liên đới với nhau. Đối diện với một cộng thể chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ. Đó chính là dấu chỉ nói lên việc Đức Giê-su vẫn đang tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.

Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với thực tại bằng một con tim đổi mới để đến với nhau?

Một khi dám đối diện với những vấn nạn đó thì chúng ta có thể cảm nhận được tầm quan trọng của việc xây dựng trời mới, đất mới khẩn thiết đến mức độ nào!

Chúa đã đi đâu là việc của Chúa! Còn chúng ta phải làm gì cho nhau để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Người. Amen!


Friday, 4 May 2018

YÊU THƯƠNG LÀ THẾ ĐẤY!



Trong bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giê-su đã dùng hình ảnh của cây nho và các cành nho để diễn tả sự liên kết mật thiết mà người môn đệ không thể thiếu trong cuộc sống. Như cành nho tiếp nhận nhựa sống từ thân cây nho thế nào thì cuộc sống của các tín hữu, môn đệ của Chúa Phục Sinh cũng phải gắn liền với Chúa Giê-su như thế. Và một khi chúng ta ở lại trong mối dây hiệp thông mật thiết với Chúa thì chúng ta cũng được thúc đẩy ra đi để nối kết với anh em mình. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được các điều này khi chúng ta quyết định “ở lại trong tình thương của Chúa.”

Nhưng làm thế nào để có thể ở lại trong tình thương của Chúa. Câu trả lời được tìm thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa dẫn chúng ta bước thêm một bước nữa, bước sâu xa hơn, cụ thể hơn. Một bước đi không dựa trên lý thuyết nhưng bằng hành động. Đó là việc chúng ta giữ các giới răn của Chúa, và giới răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

Tình thương là sứ điệp căn bản cấu tạo và nuôi dưỡng sức sống của người môn đệ. Đó không phải là điều chúng ta có thể sở hữu rồi trao ban cho người khác như trong cách diễn tả của chúng ta như: “Tôi yêu anh, yêu chị, yêu em, yêu cha, yêu mẹ… hay con yêu Chúa.” Khi nói với nhau như thế, chúng ta có thể ám chỉ và coi như tình yêu là một thứ gì thuộc về mình rồi trao cho tha nhân.

Thật ra, sứ điệp mà Chúa nói với chúng ta hôm nay không phải là tình yêu của chúng ta dành cho Chúa mà là tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ý nghĩa này quá rõ ràng qua Lời Chúa phán hôm nay “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.”

Tình thương mà Đức Giê-su ban phát hoàn toàn xuất phát từ Chúa Cha. Tình thương của Thiên Chúa không lệ thuộc vào tình trạng của con người, có nghĩa là Thiên Chúa yêu tôi không phải vì tôi tốt hay xấu, thánh thiện hay tội lỗi, giầu hay nghèo, sang hay hèn, nam hay nữ, quí tộc hay thứ dân… Ngài yêu chúng ta vì bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Vì vậy, bất kỳ một khả năng yêu thương nào của chúng ta cũng chỉ là sự mở rộng của Tình Yêu nơi Thiên Chúa. Và, một khi chúng ta yêu nhau là lúc chúng ta được lôi kéo vào và sống trong tình thương của Thiên Chúa.

Như thế, vấn đề đặt ra cho chúng ta suy nghĩ hôm nay là sống, chứ không phải là giải thích cho người ta hiểu về sứ điệp Yêu Chúa và thương tha nhân như thế nào. Và đây cũng chính là điều mà Đức Giê-su đã thực hiện trong cuộc sống. Người không chỉ dậy chúng ta yêu Thiên Chúa và tha nhân mà thôi; nhưng bằng chính cuộc sống hiến dâng Người đã làm chứng về điều mà Người đã dậy.

Với Chúa Giêsu chúng ta tìm ra được một giải pháp của yêu thương, đó chính là không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu. Chúa Giêsu đã hy sinh hiến mình trên thập giá để cứu độ chúng ta. Người đã chết ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Sự chết của Người là giải pháp giúp chúng ta giao hoà với Thiên Chúa. Tình yêu hiến dâng của Chúa là một tình yêu chân chính và vượt lên trên mọi thứ tình mà thế gian có thể ban tặng. Và đó cũng là mối tình mà Người muốn chúng ta sống.

Thực tế lại khác, phần đông trong chúng ta sống giới luật yêu thương của Chúa thật ơ hờ, chẳng có một chút tâm huyết nào hết. Cũng không nên vơ đũa cả nắm. Cũng được đôi ba lần, chúng ta có cơ hội diễn tả sự cảm thông, động lòng trắc ẩn, sợ mất mặt hay tìm chút hư danh nên đã đóng góp ít công quỹ cho việc từ thiện, chia sẻ tiền của giúp đỡ những người đau khổ và cùng khốn trong một vài trường hợp. Việc bác ái của chúng ta vẫn còn bị luẩn quẩn trong quan niệm cân đo đong đếm và rất giới hạn. Làm phúc nhưng muốn được nhớ tên và cần ghi danh. Đóng góp chút công sức và tiền của nhưng phải được cám ơn. Tên tuổi phải được ghi lại trong các bia tạ ơn để người ta biết đến! Đấy, việc bác ái để thể hiện tình thương của chúng ta theo kiểu mua danh bán tước như thế thì làm sao gọi là chứng từ sống. Cách sống yêu thương của chúng ta cũng quanh quẩn trong chính giới hạn, tính ích kỷ, thỏa mãn cái tôi của mình thì làm sao có thể gọi là chứng nhân được!

Trong Giáo Hội, chúng ta thấy rất nhiều gương sáng của các đấng đã sẵn sàng hy sinh tất cả, thể hiện tình thương yêu mà các ngài đã cảm nhận từ Thiên Chúa, ra đi phục vụ người nghèo khó.

Như trường hợp của cha Thánh An Phong. Trước tiên ngài là linh mục triều. Sau nhiều ngày tháng miệt mài nhiệt tâm phục vụ tại các họ đạo khiến ngài bị kiệt sức. Vì thế bác sĩ buộc ngài và các bạn đồng hành phải đi dưỡng sức tại Scala thuộc xứ Naples. Vị trí và phong cảnh của Scala thật trữ tình, nó nằm trên một ngọn núi hướng ra mặt biển, không khí thật trong lành. Quả là nơi lý tưởng để nghỉ ngơi.

Tuy nhiên, phong cảnh trữ tình và không khí trong lành như thế cũng không quyến rũ được ngài. Trái lại, chính những ngọn gió đó đã làm thay đổi đời ngài. Vì vừa đến nơi Thánh An Phong đã nhận thấy những người nông dân, kẻ chăn chiên và dân chúng tại Scala bị bỏ rơi, không người chăm sóc.

Nhìn thấy hoàn cảnh của dân chúng như thế, cha Thánh An Phong và các bạn đồng hành động lòng thương rồi tụ họp những người nghèo khó trong vùng lại. Ngài dậy dỗ và chuẩn bị cho họ lĩnh nhận các bí tích. Nghe tiếng ngài, dân chúng thuộc các vùng lân cận lũ lượt kéo đến để nghe giảng dậy.

Phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa, đứng trước tình hình thực tế, với một nhu cầu cần thiết. Cha Thánh An Phong và các bạn đồng hành đã nhận ra việc phải làm, nên đã quyết định tụ họp anh em cùng chí hướng thành lập nhà dòng, đó là Dòng Chúa Cứu Thế chuyên lo cho những người bị bỏ rơi, những người nghèo khó.

Trong thời gian gần đây, chúng ta nghe nhiều về những công tác hoạt động phục vụ người nghèo của các nữ tu thuộc dòng mà mẹ Tê-rê-sa thành Calculta đã sáng lập. Mẹ vốn là một nữ tu dòng Loreto, chuyên lo việc giảng dậy. Trên đường đi tham dự tĩnh tâm, Mẹ chứng kiến không biết bao nhiêu trẻ em bị bỏ rơi, những người già nua chết cô đơn trên vệ đường mà không có thân nhân ở bên để vơi bớt những nỗi khổ đau cuối đời họ. Cho nên, vì những người nghèo khó và cho họ, nhất là được thôi thúc bởi tiếng gọi yêu thương, mẹ đã từ bỏ nếp sống an toàn trong một tu viện chuyên lo giảng dậy cho các trẻ em thuộc giai cấp thượng lưu, bắt đầu lại bằng việc dấn thân vào các hang cùng ngỏ hẻm để phục vụ người cùng khốn. Hiện nay số người theo chân mẹ hầu như có mặt trên toàn thế giới. Đối với mẹ và các nữ tu thuộc dòng mẹ chỉ biết sống cho và sống với những người nghèo đang đau khổ.

Trở về những ngày đầu tiên, anh em tín hữu tiên khởi đã sống theo lối sống của Chúa để làm chứng, khiến cho những người chung quanh kháo láo với nhau rằng: Kìa xem, họ yêu thương nhau là chừng nào. Từ việc chứng kiến lối sống diệu kỳ của các tín hữu, những người chung quanh mới đi tìm hiểu xem anh em tín hữu thuộc giáo đoàn tiên khởi đã dựa vào đâu mà có lối cư xử với nhau tốt đẹp dường ấy.

Ngày nay, những người chưa tin sẽ tin nếu chúng ta đủ chứng từ cho họ nhận thấy Tình Yêu của Thiên Chúa hoạt động nơi mình. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với nhau, yêu thương nhau như Chúa đã yêu, để mọi người nhận biết chúng ta là mộn đệ của Thầy. Vì chúng ta yêu thương nhau. Amen!