Thursday, 31 January 2019

BỊ TỪ CHỐI LÀ PHẦN THƯỞNG CỦA NGÔN SỨ.



Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tiếp tục kể cho chúng ta nghe về các việc của Đức Giê-su đã thực hiện tại hội đường Na-da-rét. Hôm ấy là ngày hưu lễ. Cùng với bà con trong làng, Đức Giê-su và các môn đệ của Người đi đến hội đường để cử hành việc thờ phượng. Họ hát Thánh ca, nghe sách Thánh và cầu nguyện.

Những người dân trong làng đã được nghe về danh tiếng, những lời giảng dậy và các việc Đức Giê-su làm tại các nơi khác, cho nên ai cũng háo hức và nôn nóng muốn được nghe Người giảng. Đức Giê-su bước lên bục nhận sách từ người phụ trách hội đường. Hôm đó Người mở ngay đoạn của sách ngôn sứ I-sa-ia.

Lời của ngôn sứ tiên báo về vai trò của Đấng Thiên Sai, Đấng được Thần Khí Thiên Chúa xức dầu tấn phong để trở thành Đức Kitô. Với tư cách ấy, Người sẽ rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, loan báo niềm vui được giải thoát cho những ai bị giam cầm, cởi  trói cho những ai đang bị gông cùm và đem đến cho con người một nền tự do đích thật. Quan trọng hơn cả là công bố và thiết lập năm hồng ân của Thiên Chúa nơi bản thân và sứ vụ của Người.

Đức Giêsu đọc xong thì ngồi xuống như thói quen của các thầy giảng thường làm. Trong khí đó, cộng đoàn chăm chú nhìn Người chờ đợi. Trái với điều họ mong đợi; hôm đó, Người đã không giải thích ý nghĩa của đoạn sách vừa được công bố, mà chỉ vắn tắt cho họ biết rằng những điều mà tai họ vừa nghe, hôm nay đã ứng nghiệm nơi bản thân và sứ vụ của Người. Vắn gọn và rõ ràng.

Có ai trong chúng ta, đặc biệt quí thừa tác viên Lời Chúa và các thầy giảng, đã đủ can đảm để tuyên xưng về việc ứng nghiệm Lời Thiên Chúa nơi bản thân mình hay chưa? Nếu chưa, thì đây cũng là điều mà chúng ta cần bị chất vấn thường xuyên!

Thái độ và phản ứng của thính giả trong hội đường khiến chúng ta ngạc nhiên. Thoạt đầu họ “đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” Nhưng tại sao mọi người đang từ chỗ tán thành và ca tụng, họ đã đột ngột chuyển sang chống đối, rồi mức độ đối kháng tăng dần cho đến độ tất cả “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi … kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.”

Nguyên do nào khiến cho phản ứng của các thính giả trong hội đường ngày hôm đó lại biến chuyển như thế, từ thán phục đến chống đối và có ý định thủ tiêu Người?

Hình như nội dung bài giảng của Đức Giê-su không phải là nguyên nhân tạo nên sự phẫn uất của những người đồng hương. Thật ra, dựa vào trình thuật hôm nay thì chúng ta chưa hề nghe trọn vẹn nội dung bài giảng của Chúa hôm nay. Người chỉ vừa mở đầu bài giảng bằng câu “hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”

Quả thật đây là câu then chốt. Giả như Đức Giê-su là một trong các vị tư tế hay có vai trò lãnh đạo trong hội đường thì việc loan báo ứng nghiệm lời Kinh Thánh hôm nay còn có cơ may được chấp nhận. Nhưng không được như thế! Họ biết quá rõ về gia thế, địa vị và các phần tử trong gia đình của Chúa. Chẳng có gì sáng giá! Tất cả đều rất bình thường. Người chỉ là con ông Giu-se mà họ đều quen biết. Như vậy làm sao họ có thể chấp nhận được việc Người quả quyết là Lời Chúa mà ngôn sứ I-sa-ia đã loan báo lại có thể được thực hiện nơi Người.

Từ lối suy nghĩ đó, họ mới yêu cầu Chúa làm cho họ thấy những gì mà Người đã làm ở các nơi khác. Quả thật, yêu cầu này không phài là một yêu cầu quá đáng. Nhưng Đức Giê-su đã không chiều theo sở thích của họ. Trái lại, Đức Giê-su mà Thánh Luca đã trình bầy cho chúng ta thấy Người đã không bị trói buộc bởi bất cứ một hệ thống nào. Người không lo tìm kiếm sự thành công do việc Người làm. Người cũng không làm các phép lạ để tạo sự tín nhiệm và gây thanh thế kéo các người nghe về phe mình. Người hoàn toàn tự do để thực hiện ý định mà Cha Người muốn thực hiện cho dù gặp chống đối hay thất bại.

Số phận của ngôn sứ là thế. Chỉ biết phục vụ Lời và chính nghĩa. Người nói “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê quán mình.” Điều này có nghĩa là Người biết ơn gọi của Người là gì, và Người chấp nhận số phận của một ngôn sứ giống như số phận mà các ngôn sứ trong truyền thống đã phải lĩnh nhận. Tuy kết quả là như thế; nhưng không một ngôn sứ nào có thể từ khước nhiệm vụ đã được trao ban ngay khi còn trong lòng thân mẫu; và chính Chúa không chỉ ở cùng ngôn sứ, mà còn là thành trì bảo vệ ngôn sứ để chiến thắng kẻ thù, như trong trường hợp của ngôn sứ Giê-rê-mi-a mà bài đọc một đã mô tả.

Như vậy, qua việc loan báo ơn gọi ngôn sứ và chấp nhận sự từ khước của dân chúng, Đức Giê-su đã cho chúng ta thấy tầm nhìn của Người vượt lên trên óc não riêng tư và tinh thần vụ lợi cho bản thân, mà chỉ hướng về Thiên Chúa.

Bởi thế, thay vì làm theo yêu cầu của họ để làm cho họ được hài lòng thì Đức Giê-su lại làm khác. Người trích dẫn và nhấn mạnh đến sứ mạng mà các ngôn sứ như Ê-li-a và Ê-li-sa đã thực hiện tại Si-don và Xy-ria, là các vùng của dân ngoại. Mục tiêu mà Đức Giê-su trích dẫn hai vị ngôn sứ này là muốn nói cho những người đồng hương biết rằng Người không đến để thực hiện và ban phát hồng ân cho riêng họ mà thôi. Nói khác đi, cho dù quen biết Người nhưng không vì thế mà họ sẽ có thêm đặc quyền, đặc lợi hay được quyền ưu tiên trong cách xử sự của Người. Ý tưởng truyền giáo và đem Tin Mừng ra khỏi biên cương Do Thái giáo được đề cập một cách thật khéo léo ở đây.

Hơn thế nữa, những người đồng hương  của Đức Giê-su ngày xưa, và cả chúng ta nữa đừng nghĩ rằng vì thấy Đức Giêsu là đồng hương, cho nên họ nghĩ Người có bổn phận phải yêu, quan tâm và chiếu cố đến họ trước. Đức Giêsu đã công khai phủ nhận lối suy nghĩ cục bộ và mang tính địa phương này. Họ đừng nghĩ là có cùng mầu da với Chúa, lớn lên cùng địa phương, học cùng thầy, chia sẻ một niềm tin, thụ hưởng cùng nền văn hóa và cùng tuân thủ một tập tục, và bao nhiêu cái chung khác thì có thể buộc Người phải ban hồng ân cho họ trước. Đức Giê-su đến cho mọi người và không ai được phép trói buộc và bắt Chúa làm theo ý mình.

Sự sai lầm của những người thuộc làng Na-da-rét khi xưa có thể là sai lầm của chúng ta hôm nay. Chúng ta có thể đã nhiều lần vịn vào tư cách như đã được rửa tội, đã sống đạo lâu năm, đã  góp công góp của xây dựng cơ sở Giáo Hội, gia đình mình có nhiều con cháu là tu sĩ, làm linh mục, v.v… rồi buộc Chúa phải trả công bội hâụ. Thiên Chúa không phải là ông chủ ngân hàng, để rồi chúng ta gửi vào đó những công việc để sinh lời rồi sau này buộc ông chủ phải trả lại cả vốn lẫn lời cho chúng ta. Những suy nghĩ đó phát sinh từ việc chúng ta quên rằng tất cả đều là hồng ân. Và Thiên Chúa hoàn toàn tự do ban phát các ân huệ cho chúng ta, ngay từ khi chúng ta chưa thuộc về Ngài. Trước sự giầu sang và đại lượng của Thiên Chúa, chúng ta mãi mãi là những người nghèo, thiếu thốn và luôn luôn cần đến sự quan tâm và yêu thương của Ngài.

Bài học và sự khước từ hồng ân của dân làng Na-da-rét khi xưa sẽ luôn là lời cảnh giác cho mỗi người chúng ta hôm nay. Chúng ta không được phép bắt Người phải quan tâm và dành cho chúng ta một sự chiếu cố đặc biệt. Giả như nếu có thì điều đó cũng được phát sinh từ lòng yêu mến của Ngài dành cho chúng ta.

Tuy nhiên, chính sự từ khước của dân làng Na-da-rét khi xưa lại là dấu chỉ dẫn Đức Giê-su dần dần nhận ra con đường của Người. Một con đường chông gai, đầy sỏi đá… cuối cùng bị khước từ và chết tủi nhục trên Thập Giá vì cứu độ con người. Nhưng đó lại là một con đường tình mà Thiên Chúa đã dọn cho Người, để Người tự do thực hiện Lời Người đã phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”

Tất cả đều được xuất phát từ lòng mến, đó là ơn cao trọng nhất và cũng là con đường hoàn hảo nhất mà Thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai hôm nay nhấn mạnh. Theo Thánh nhân thì cái lợi duy nhất mà con người cần đạt được là ở lại trong lòng mến của Thiên Chúa. Đó chính là thước đo, là nến tảng của mọi công việc của chúng ta trong cuộc sống chứng nhân.

Cái khác biệt giữa lời của ngôn sứ với tất cả lời của bất cứ bậc hiền triết hay các nhà thông thái và khôn ngoan nào đó, chính là trong Lời của chứng nhân chứa đựng một bầu khí và truyền tải một sức mạnh yêu thương dẫn người nghe đến nguồn ơn cứu độ. Đó là điều mà Đức Giê-su đã thực hiện hôm nay tại Na-da-rét và Người muốn mọi tín hữu hãy lập lại những gì mà chúng ta lĩnh nhận hôm nay để cho dù có gặp khó khăn hay bị từ khước chúng ta vẫn hiên ngang và can đảm thực hiện ơn gọi ngôn sứ của mình, vì chính Chúa là thành trì bảo vệ và giúp ta chiến thắng mọi kẻ thù nghịch làm hại ta. Amen!


Thursday, 24 January 2019

THỜI ĐẠI HỒNG ÂN



Sau khi Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của Gio-an tại sông Gio-đan, vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, Người còn lưu lại Giu-đê-a rồi mới quay về Ga-li-lê. Hôm ấy là ngày hưu lễ. Bà con dòng họ, bạn hữu và những người dân làng Na-da-rét hội họp đông đảo tại nơi thờ phượng chung là hội đường. Họ đã được nghe về danh tiếng, những lời giảng dậy và các việc Người làm tại các nơi khác, cho nên ai cũng háo hức và nôn nóng muốn được nghe Người giảng. Ông phụ trách hội đường đưa cho Người cuộn da ghi lời Kinh Thánh của ngôn sứ I-sa-ia. Người mở ra bắt gặp chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đày từ Babylon.

Đức Giêsu đọc xong thì ngồi xuống như cách mà các kinh sư thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Người chờ đợi. Đức Giê-su đã tuyên bố cho họ biết rằng những lời mà ngôn sứ I-sa-ia đã loan báo khi xưa, nay được thể hiện nơi bản thân và sứ vụ của Người. Người mạc khải cho họ biết chính Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến.

Lời của ngôn sứ đã được bắt đầu bằng lời xác nhận rằng chính Thần khí Thiên Chúa ngự trên Người. Có nghĩa là Người đã Thần Khí Thiên Chúa để làm Đấng Được Xức Dầu hay Đấng Kitô của Thiên Chúa. Với tư cách ấy, Người sẽ rao giảng Tin Mừng cho người nghèo,  loan báo niềm vui được giải thoát cho những ai bị giam cầm, bị trói buộc bởi gông cùm của tội lỗi và thiết lập những nguyên tắc đem đến cho con người một sự tự do đích thật. Quan trọng hơn cả là công bố và thiết lập năm hồng ân của Thiên Chúa nơi bản thân và sứ vụ của Người.

Khi nói đến Năm Hồng Ân, theo thói quen chúng ta thường hay nghĩ đến ơn toàn xá. Thật ra đây không phải là điều quan trọng, dù có hay không cũng không làm thay đổi cuộc sống và mối dây tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Bởi vì, mỗi giây, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta đều là ân sủng. Tất cả đều là hồng ân.

Khi loan báo về năm hồng ân, Đức Giê-su muốn nhắc nhở cho chúng ta biết đây là cơ hội để con người sống yêu thương hơn, sống tha thứ và biết bỏ qua những nợ nần của nhau. Hãy can đảm để đổi mới cách sống: thay vì nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói, ghen tương, lên án hay hận thù thì hãy trao cho nhau sự tin tưởng, lòng nhân ái và hãy thông cảm những yếu hèn, sự mỏng giòn trong thân phận kiếp người của nhau. Vì thế, chúng ta cũng nên tìm hiểu ý nghĩa của nó theo tinh thần của Do Thái giáo.

Anh chị em thân mến,

Một trong những đặc tính của người Do Thái là sử dụng thời gian sao cho thích hợp, đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Vì thế, sau sáu ngày làm lụng vất vả họ dành riêng một ngày để nghỉ ngơi và dưỡng sức để lấy lại những năng lực đã hao phí trong tuần qua. Ngày đó được gọi là ngày hưu lễ. Sau 7 năm họ để ra trọn năm: năm hồng ân ban ơn toàn xá; và sau bẩy lần bẩy năm, nghĩa là sau 49 năm, họ lại dành ra một năm, năm thứ năm mươi để cử hành một năm gọi là “chúa của mọi ngày hưu lễ và gọi là năm hồng ân.”

Họ trù tính rằng trong một kiếp người, dù dài hay ngắn, thì ai ai cũng có thể tiếp nhận được các đặc ân của năm đó. Trong năm ‘chúa của mọi ngày hưu lễ’, toàn thể dân Do Thái được mời gọi tìm lại bản chất đích thực của dân tộc mình. Họ tìm lại sự mới mẻ, trọn vẹn và tinh tuyền cũng như sự tốt đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho họ ngay từ những ngày đầu của tạo dựng. Họ phải tuân thủ một cách thật nghiêm ngặt một số qui định sau đây:

1/ Ruộng đất bỏ hoang, không cầy cấy trồng trọt. Việc này có ý nghĩa là hãy quan tâm đến đời sống của mình, vì nó còn quan trọng hơn là trồng cấy. Họ tin tưởng vào sự chăm sóc và nuôi dưỡng của Thiên Chúa trong thời gian này.

2/ Tất cả những ai đang thiếu nợ thì đều được tha. Việc tha nợ nói lên chủ đích là đừng để nợ nần chồng chất từ đời này sang đời khác. Nó cũng nhằm bảo đảm cho những ai dù vất vả suốt đời nhưng vẫn không có khả năng trả nợ, thì được tha hết.

3/ Những ai đang sống trong thân phận nô lệ đều được trả tự do và quyền công dân được phục hồi. Điều lệ này nhằm chống lại việc phân chia giai cấp, vì con người được sinh ra không phải để làm nô lệ cho kẻ khác.

4/ Việc giảng dậy về sự khôn ngoan của lề luật được phổ biến rộng rãi cho toàn dân, ai ai cũng được học hỏi về lẽ khôn ngoan. Đó không phải là điều mà chỉ có những người thuộc thành phần ưu tú hay có địa vị mới được lĩnh nhận mà thôi.

Mục đích mà chúng ta ôn lại cách hiểu biết của người Do Thái về năm hồng ân, năm toàn xá giúp cho chúng ta hiểu về những điều mới mẻ mà Đức Giê-su muốn kiện toàn qui định này. Hãy nhìn vào sứ vụ và lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy tất cả lề luật của đạo Do Thái, đặc biệt là các qui định về năm hồng ân đã được kiện toàn và trở nên sống động hơn.

1/ Đức Giêsu đã khuyên bảo những người theo Người hãy tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng chăm sóc cho chim trời được mau lớn và hoa huệ ngoài đồng mau trổ bông; mặc dù chúng không gieo cũng như không gặt và hoa huệ thì không làm lụng cũng không kéo sợi. Còn mạng sống của chúng ta còn không quí giá hơn chúng sao. Hãy tin tưởng vào sự chăm sóc và dưỡng nuôi của Thiên Chúa.

2/ Trong Kinh lậy Cha thường được gọi là bản tóm lược công trình loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu đã truyền dậy là hãy tha thứ cho những ai mắc nợ mình, vì chính mình cũng đã được tha thứ trước.

3/ Người đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Qua lời giảng dậy và gương sáng về việc phục vụ, Đức Giêsu muốn phá hủy chế độ chủ nhân và tôi tớ, hạ bệ kẻ ăn trên ngồi trốc. Nơi Người chỉ có ban phát và chia sẻ cuộc sống cho nhau mà thôi.

4/ Người còn dậy chúng ta hãy cho đi những gì ta có, vì chúng ta đã không xin mà vẫn được ban phát. Đừng bao giờ coi Nước Thiên Chúa như gia sản của riêng mình, vì Nước đó đã được ban tặng cho tất cả mọi người, không ai có đặc quyền ôm giữ Nước Thiên Chúa cho riêng mình.

Mặc dù Đức Giêsu là người Do Thái, nhưng không vì thế Người bị trói buộc bởi các qui định theo chu kỳ 50 năm mà luật Do Thái đã ấn định về ‘năm toàn xá, thời đại hồng ân’. Nhưng, ngay tại Na-da-rét, khi bắt đầu sứ vụ, trong bài giảng khai mạc hôm nay, Người đã công khai loan báo về hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đã xức dầu tấn phong để Người công bố về năm Hồng Ân của Thiên Chúa.

Thời đại của Hồng Ân đã được loan báo bởi các ngôn sứ xưa kia, nay được ứng nghiệm nơi sự hiện diện của Người. Thời đại đó không còn chỉ dành riêng cho người Do Thái, nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới. Hơn thế nữa, Người không chỉ là dấu chỉ của Hồng Ân, mà còn là ‘Con Người Hồng Ân’. Tất cả những ai đã gặp Người đều cảm nghiệm được điều đó. Bằng chính cuộc sống cũng như các lời giảng dậy, Đức Giêsu đã là Tin Vui cho người nghèo, những kẻ thấp cổ bé miệng, bị bỏ rơi và thân phận không được tôn trọng. Người đã không chỉ giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi mà thôi, nhưng còn lôi họ ra khỏi sự giam cầm của thứ luật lệ đã giam hãm và làm mất đi phẩm giá của họ. Từ sự giải thoát ấy, họ cảm nghiệm được lối sống phát sinh từ sự tự do của ân sủng nơi Người.

Anh chị em thân mến,

Phần chúng ta hiện là những con người đang sống trong thời đại hồng ân mà Đức Giê-su đã thiết lập. Vậy chúng ta sẽ sắp xếp cuộc sống của mình sao cho phù hợp với các nhiệm vụ đã được giao phó ngay trong giây phút này. Vẫn biết rằng tất cả những công việc ta làm, những gì ta nói đều hướng về ngày cánh chung; nhưng cần được bắt đầu ngay bây giờ, nơi hoàn cảnh sống của mỗi người; không nên để ngày mai rồi mới bắt tay để làm.

Khi thi hành các trách vụ đó, chúng ta không mong tìm được lợi ích cho bản thân mình, nhưng quyết tâm chu toàn bổn phận của người quản lý trung tín để phục vụ cộng đồng nhân loại và đổi mới bộ mặt của thế gian. Bởi vì, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn chăm sóc cho dân của Người. Chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta một chỗ ở mới, một thế giới mới và ở nơi đó công bằng sẽ ngự trị. Hạnh phúc tại nơi ấy sẽ thỏa mãn và lắp đầy mọi ước vọng của sự an bình luôn trào dâng trong lòng con người... Vì tất cả đều là hồng ân, không chỉ ban tặng và trói buộc trong năm hồng ân mà thôi. Nó đã được khai mạc bởi Đức Giê-su và sẽ kéo dài cho đến muôn thế hệ.


Trong tinh thần đó, chúng ta hãy sống mọi ngày như những ngày của hồng ân mà nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống và vui mừng dấn bước trong công việc tái thiết cũng như xây dựng gia đình mình, xóm giáo, họ đạo, cộng đoàn, giáo xứ và tập thể chung của nhân loại để trở thành một cộng đồng yêu thương, đầy tràn công lý và bình an, trong đó mọi người đều có thể cảm nhận được hồng ân của Thiên Chúa ban cho họ qua sự cộng tác của các tín hữu. Cầu xin Chúa gìn giữ và giúp cho chúng ta đạt được nguyện ước đó để làm cho kho tàng hồng ân của Thiên Chúa mỗi ngày mỗi dâng tràn hơn. Amen!



Thursday, 17 January 2019

THẾ GIAN HẾT RƯỢU RỒI!



Anh chị em thân mến,

Trình thuật Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe được gọi là phép lạ Cana. Đức Giêsu đã dùng Lời để biến nước thành rượu. Nước biến thành rượu đã là một việc lạ lùng, thế mà trong câu cuối cùng, tác giả lại nói đó là ‘dấu lạ’ mà Đức Giê-su đã thực hiện, để tỏ vinh quang của Người và nhờ đó mà các môn đệ tin vào Người. Như vậy, không chỉ có dấu lạ tại Cana mà mọi dấu lạ được ghi trong Tin Mừng này đóng một vai trò quan trọng để giúp chúng ta nhận ra vinh quang của Thiên Chúa được bộc lộ bởi sứ vụ của Đức Giê-su.

Trong sách Tin Mừng này không thấy tác giả ghi lại việc Đức Giê-su được sinh hạ như thế nào. Thay vào đó trong phần Lời Tựa ở chương một, tác giả mời gọi chúng ta đi xa hơn, đi về trình thuật tạo dựng để nhận ra sự hiện diện của Ngôi Lời; đó là: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa... Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, … Ngôi Lời là ánh sáng thật… “ (Gio-an 1:1-9)

Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ bằng Lời của Ngài. Còn tại Cana thì Đức Giê-su lại dùng Lời để biến nước thành rượu. Như vậy, có một sự nối kết giữa sứ vụ của Đức Giê-su và trình thuật tạo dựng. Người có nhiệm vụ tái tạo những gì mà con người đã làm đổ vỡ và đem mọi sự đến sự kiện toàn. Mạc khải từ thủa tạo dựng cho đền giờ vẫn bất toàn. Đức Giê-su sẽ làm cho mới và kiện toàn chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, sứ điệp mà dấu lạ tại Cana đem đến là việc thay cũ đổi mới sẽ được thực hiện trong con người Đức Giê-su.

Vẫn biết rằng tất cả các dấu lạ được ghi lại trong sách Tin Mừng thứ tư này nhằm mục đích để chúng ta tin và nhờ tin mà đạt đến sự sống đời đời. Tuy nhiên mỗi một dấu lạ cũng mang một ý nghĩa riêng biệt của nó. Vì thế, chúng ta hãy lưu tâm đến các nhân vật xuất hiện trong trình thuật, các chi tiết được trình bầy. Trong tinh thần đó, chúng ta cùng dành đôi phút để đọc rồi tường thuật lại biến cố này theo lối nhìn và hoàn cảnh của mỗi người; miễn sao chúng ta đừng quên sứ điệp là qua dấu lạ này vinh quang Chúa được tỏ hiện để chúng ta TIN vào Người.

Thưa anh chị em,

Dù chúng ta sống ở thời đại nào hay lớn lên trong bất cứ nền văn hoá nào, tiệc cưới luôn là bữa tiệc của niềm vui. Người ta ăn uống nhẩy múa để san sẻ niềm vui với cô dâu, chú rể và hai họ. Theo phong tục của người Do Thái thời Đức Giê-su thì tiệc cưới kéo dài bẩy ngày. Con số bẩy là con số tràn đầy, gợi lại cho chúng ta thời gian mà Thiên Chúa dùng để tạo dựng vũ trụ và vạn vật. Phải chăng theo tập tục này chúng ta nhận ra sự tràn đầy của đôi nam nữ khi kết hợp với nhau thành một gia đình!

Thế mà mới sang ngày thứ ba, họ đã hết rượu. Chi tiết và cách xử dụng phép lạ được thực hiện vào ngày thứ ba khiến cho chúng ta nghĩ đến cụm từ ‘ngày thứ ba’ được dùng để mô tả biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su; như vậy rõ ràng có sự nối kết giữa sự việc xẩy ra hôm nay với Mầu Nhiệm Phục Sinh.

Trong tiệc cưới hôm nay có Đức Giê-su, Mẹ Người và các môn đệ của Người nữa. Không khí tiệc cưới thật náo nhiệt, mọi người vui vẻ, đã sang ngày thứ ba rồi nên ai cũng có chút hơi men; vì thế không khí càng sôi nổi hơn. Mẹ của Đức Giê-su ngồi chung với bà con và bạn của Mẹ. Mẹ nhìn sang bàn của Chúa và các môn đệ, thấy họ đang nghe Chúa kể truyện, Người như là nguồn vui cho cả bàn. Mẹ gật gù, mỉm cuời mãn nguyện về con mình.

Tâm hồn Mẹ chìm vào sâu lắng để ôn lại những gì đã xẩy ra trong gia đình của Mẹ khoảng 30 năm qua. Từ câu nói của cụ già Simeon khi bồng ẵm Hài Nhi Giê-su trong vòng tay rồi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa vì đã ban cho ông nhìn thấy ơn cứu độ, đến câu tiên báo về một lưỡi gươm sẽ đâm vào tâm hồn Mẹ… Thánh Giu-se và Mẹ vẫn thường xuyên nói với nhau về biến cố và những lời nói bí ẩn này. Cả hai ông bà đều nhận ra sự trưởng thành của Đức Giê-su. Người lớn lên trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Ân huệ của Thiên Chúa tràn đầy trên cuộc sống của Người; và mọi người ai ai cũng quý mến. Còn Cha Mẹ Người thì vẫn nỗ lực tìm kiếm để vâng nghe ý định của Thiên Chúa trong niềm cậy trông và phó thác.

Giống như các bà mẹ khác, Đức Maria cũng có hoài vọng và mơ ước riêng dành cho Đức Giê-su. Tuy nhiên, Mẹ tiếp tục cầu nguyện và xin được tự do, không bị vướng bận bởi các ước muốn của riêng Mẹ để luôn tôn trọng việc tự do tìm kiếm ý định của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su và cùng với Người hoàn thành ý định của Thiên Chúa.

Kể từ ngày Đức Giê-su rời nhà ra đi rao giảng. Mẹ đã chúc phúc cho Người và vẫn thường xuyên theo dõi các việc làm của Người. Cách đây không lâu, Mẹ nghe bà con kể việc Đức Giê-su chịu phép rửa bên bờ sông Gio-đan. Họ cho Mẹ biết, trong lúc Đức Giê-su đang chịu phép rửa thì tầng trời mở ra và có tiếng Chúa Cha phán “Này là Con ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.” Họ thật sửng sốt khi chứng kiến việc kỳ diệu đó. Riêng Mẹ thì vẫn ghi nhớ các sự kiện, lời nói xẩy ra cho con mình vào sâu thẳm tận đáy lòng.

Đang chìm đắm trong mối suy tư về con của mình. Bỗng nhiên, Mẹ khám phá ra sự việc tiệc cưới đã hết rượu! Làm sao chuyện như thế này có thể xẩy ra được. Trước khi khai mạc tiệc cưới, họ đã chuẩn bị thật kỹ lưỡng; thế mà làm sao vẫn có thể xẩy ra như thế này. Thật là xấu hổ với nhà gái và bà con hai họ khi để cho tiệc cưới lâm vào hoàn cảnh này. Mọi người đều bối rối.

Trong lúc đó, Đức Giê-su đang đi dạo chung quanh sân, làm như Người không hề biết chuyện gì đã xẩy ra. Mẹ đứng dậy bước ra gặp Người. Thấy thế, Đức Giê-su giang tay ôm cổ Mẹ mình và hôn nhẹ lên má của Mẹ, nhẹ nhàng khẽ kêu ‘Mummy, Mẹ có vui không? Mẹ gật đầu, ngước mắt nhìn lên khuôn mặt của con Mẹ với tấm lòng và nghĩa cử yêu thương của một người Mẹ. Mẹ chỉ muốn giây phút đó kéo dài. Không dám buông bỏ, chỉ muốn giữ mãi người con dâú yêu trong vòng tay yêu thương của Mẹ.

Bỗng nhiên, Mẹ cảm thấy dường như có một nỗi lo xuất hiện trong tâm rồi Mẹ tự hỏi: “Mình đang bảo vệ con hay bảo vệ chính mình.” Một mặt, lời của cụ già Simeon ‘một luỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà’ vẫn vang vẳng bên tai; mặt khác Mẹ lại nhớ đến điều mà Mẹ suy gẫm hằng ngày là xin Chúa cho Mẹ biết mở rộng con tim, mở rộng vòng tay để hành xử trong tự do và chấp nhận ý định của Thiên Chúa sẽ thực hiện trong và qua con của Mẹ. Vì thế, ‘đừng sợ nhưng hãy tin’ vẫn là châm ngôn trong cuộc sống của Mẹ. Đến lúc đó, Mẹ biết ngay Giờ của con đã đến. Vì thế, Mẹ mạnh dạn bước đến nói với Đức Giê-su ‘Con ơi, họ hết rượu rồi.’ Mẹ ám chỉ đến tình trạng của đám cuới. Mẹ chỉ nói được như thế.

Phần Đức Giê-su, sau khi nghe Mẹ thông báo về tình trạng hết rượu của nhà đám, Người nhìn vaò trong nhà, thấy rõ vẻ bối rối của họ, Người biết những gì đã xẩy ra. Tuy nhiên, quay sang Mẹ, Người ngập ngừng nói ‘Mummy’, rồi im lặng mới nói tiếp ‘thưa bà, chuyện đó có can hệ gì đến tôi và bà, giờ tôi chưa đến.’ Câu nói hơi khó nghe. Nhưng ở đây, Đức Giê-su muốn tỏ rõ lập trường về mối quan hệ giữa Đức Maria và Người. Liên hệ máu huyết tuy quan trọng, nhưng vẫn không bằng mối tương quan của những ai luôn tìm kiếm và thực hiện điều Thiên Chúa muốn. Vì vậy, vấn đề quan trọng là Người và Mẹ Người cần thi hành ý định của Thiên Chúa.

Dấu lạ này xẩy ra ở đầu sứ vụ. Việc của Người còn dài. Giờ Thiên Chúa tôn vinh Người chưa đến. Người cần thi hành ý muốn của Chúa Cha trước. Câu trả lời của Đức Giê-su ‘Giờ tôi chưa đến’ ở đây khiến Mẹ nhớ lại lời mà Người đã nói trong đền thờ là ‘Cha Mẹ không biết rằng con phải lo việc cha con sao’.  Mẹ tin vào sự lựa chọn của Đức Giê-su. Người chỉ muốn tùng phục và vâng nghe theo ý của Thiên Chúa mà thôi, nên Mẹ cũng chẳng cảm thấy buồn, bèn quay vào trong nhà và bảo những người giúp việc là “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Nghe Đức Maria nói thế, họ nhìn nhau ngạc nhiên. Còn Mẹ thì bước vào nhà để Đức Giê-su đứng đó cầu nguyện với Cha Ngài là Abba.

Một lát sau. Mẹ nhìn thấy Đức Giê-su sai bảo gia nhân đổ đầy nước vào sáu chum đá dành cho việc rửa tay trước khi nhập tiệc. Những người giúp việc nghe xong lịnh truyền của Chúa bèn cảm thấy bối rối. Bởi vì, nghi thức rửa tay trước khi nhập tiệc đã hoàn tất, giờ đây cần đổ đầy nước vào các chum để làm gì! Tuy vậy, họ cũng không hỏi lại Người. Chỉ biết vâng nghe và làm theo. Sau đó Đức Giê-su yêu cầu họ đem nước ra cho ông quản tiệc. Nước đã biến thành rượu mà ông quản tiệc không hề biết. Chỉ có những người cộng tác biết mà thôi!

Phần Mẹ, qua mẩu đối thoại hôm nay giúp chúng ta nhận ra niềm tin của Mẹ, luôn kiên cường, phó thác và hết lòng cậy trông, không nghi ngại.

Có một sự biến chuyển thật diệu kỳ ở đây. Đó là từ đầu trình thuật chúng ta chưa hề biết ai là chú rể. Theo tục lệ của người Do thái thì chú rể là người cung cấp rượu. Đến lúc này, qua việc Đức Giê-su biến nước thành rượu chúng ta nhận ra ý của Thánh sử muốn công bố cho chúng ta biết Đức Giê-su không chỉ là rượu mới, mà còn là Chủ cung cấp rượu cho muôn dân. Người là chủ bữa tiệc hoan lạc của ngày cánh chung, mà hiện nay chúng ta cùng nhau cử hành trong các Thánh lễ.

Tại Cana, trong tiệc cưới hôm nay, Đức Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Na-im, Người đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người Mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi cho con của bà sống lại. Ở Giê-ri-cô, Người đã biến tâm hồn ích kỷ, chỉ biết vơ vét của ông Da-kêu thành một tâm hồn quảng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, lúc mà thiên hạ tưởng như Người đã bó tay; nhưng chính trong lúc đó Người đã biến đổi kẻ trộm thành người khách đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Người đã biến đổi sự chết thành sự sống.

Vì thế, qua dấu lạ hôm nay, Đức Giê-su đã tỏ bầy cho chúng ta nhìn thấy vinh quang của Người. Phải chăng đây cũng là cuộc hiển linh, cuộc tỏ mình để biến đổi tất cả những ai tin vào Người trở thành rượu thơm ngon hảo hạng, dành cho thế giới đang có nhiều sự đổi thay hôm nay. Giữa các sự đổi thay nhanh như chớp, người tín hữu cần đến với Đức Giê-su là nguồn của mọi sự đổi mới. Chỉ có trong Người thì mọi sự thay đổi mới bền vững và có giá trị lâu bền. Hãy đến với Chúa, Người sẽ biến đổi cuộc sống tẻ nhạt, không chút đổi thay của chúng ta thành rượu ngon cho mọi bữa tiệc mà chúng ta cùng tham dự. Amen!



Thursday, 10 January 2019

ĐỨC GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA.



Anh chị em thân mến,

Vào những dịp năm mới, một số người tại các nước Phương Tây, bao gồm cả người gốc Việt thường hay đưa ra một dự án hay một quyết tâm nào đó để thực hiện trong năm. Chung chung tôi thường được nghe nói về các dự án như kiêng ăn, kiêng uống, giảm cân để tốt cho sức khoẻ; dĩ nhiên cũng làm cho mình xinh đẹp, gọn gàng và bớt bề thế hơn. Dựa vào sự quan sát và kinh nghiệm thì tôi nhận thấy ít ai đạt được thành quả mỹ mãn.

Khi đề cập đến chuyện giảm cân, tôi phải cảm phục các cháu trẻ tuổi, nhất là các cháu gái. Bọn trẻ con của chúng mình có vẻ lười đi nhà thờ nhưng sẵn sàng bỏ mọi sự sang một bên để dành 1, 2 giờ đồng hồ tại các trung tâm thể dục thẩm mỹ để quyết tâm thực hiện niềm mơ uớc của các cháu.

Tuy nhiên, cũng còn một số người trong chúng ta không có thói quen này, có nghĩa là sống mọi ngày như mọi ngày, không muốn đưa ra bất cứ một dự án nào để thực hiện thì những ngày đầu năm mới cũng là thời gian thật thú vị. Đây là điều mà tôi đã học được bên Việt Nam. Vào những dịp cuối năm, chúng tôi có thói quen dành thời gian để nhìn lại những việc làm trong năm qua, những sai lầm cần sửa đổi, các ấn tượng và kinh nghiệm cần ghi nhớ.

Dĩ nhiên cũng có những trải nghiệm khiến chúng ta bị tổn thương… Tất cả đều là kinh nghiệm. Với các bài học xẩy ra trong năm qua chúng ta hướng về tương lai và mong chờ nhiều cơ hội mới sẽ diễn ra với những giải pháp thật tốt đẹp đang chờ đợi. Như vậy, thời gian này cũng thật thú vị. Đó là thời gian của sự khởi đầu mới.

Đức Giê-su cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Trong cuộc đời của Người thì biến cố lĩnh nhận phép rửa hôm nay đánh dấu một bước ngoặt lớn. Nó có thể được coi như là sự kiện kết thúc quãng đời ẩn dật và báo trước cuộc sống công khai của Người. Kể từ hôm nay, Người bắt đầu sứ vụ giảng dạy và chữa lành, một sứ vụ sẽ kết thúc bằng cái chết trên thập giá sau này.

Thật vậy, qua việc đón nhận phép rửa bởi Gio-an, Đức Giê-su đã tỏ cho chúng ta thấy mối dây liên đới của Người với toàn thế nhân loại, đang trông chờ ơn cứu độ. Khi làm việc này, Đức Giê-su đã nói lên tính hòa đồng giữa Người và chúng ta, Người đành chấp nhận mất tất cả và trở thành một người như chúng ta.

Ngoài ra, với hành động tự hạ của Người, Đức Giê-su đã hàm ý loan báo cho chúng ta biết về phép rửa bằng chính sự chết của Người trên Thập Giá sau này; đó chính là phép rửa mà Người sẽ vui lòng nhận lãnh để làm trọn vai trò của ‘người tôi tớ đau khổ’ mà Thiên Chúa sai đến để cứu độ muôn dân. Vì Tình yêu, Đức Giê-su đã hoàn tất ý định của Thiên Chúa và đồng ý đi đến cùng, cho dù phải đón nhận phép rửa bằng máu trên thập Giá để xóa bỏ tội lỗi của chúng ta.

Hơn thế nữa, theo các nhà chuyên môn về Thánh Kinh thì việc Đức Giê-su đã hạ mình xuống, chấp nhận thân phận tội nhân để xin Gioan tẩy giả làm phép rửa mang một ý nghĩa là qua đó Người đã thánh hóa nước và ban cho nước một hiệu quả kỳ diệu, đó là trao ban ơn sủng. Hay nói cách khác, chính nhờ hành vi tư hiến hôm nay và sau này trên Thập Giá, Người đã thiết lập bí tích Rửa tội.

Bây giờ, phép rửa mà Đức Giê-su đón nhận bên bờ sông Gióc-đan bởi Gio-an Tẩy giả mang đến một ý nghĩa mới, đầy đủ và thiêng liêng hơn. Qua biến cố này, căn tính của Đức Giê-su được lộ diện. Thần khí đã xuống trên Người bằng hình chim bồ câu. Hơn thế nữa, trong lúc tự hạ mình xuống như vậy, Người đã được Chúa Cha nâng lên qua lời xác nhận: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.”

Thưa anh chị em,

Với chúng ta cũng vậy, kể từ khi lãnh nhận dòng nước thanh tẩy, chúng ta cũng đã được Chúa Cha nhận làm con cái Ngài. Những gì mà Thiên Chúa đã nói với Đức Giêsu trong nghi lễ thanh tẩy hôm nay cũng là điều mà Chúa Cha nói với mỗi người chúng ta, đó là qua bí tích rửa tội, chúng ta không chỉ sạch mọi tội khiên mà còn được diễm phúc là thành viên trong gia đình của những con yêu dâú của Thiên Chúa.

Trong bí tích rửa tội, chúng ta đã được ghi ấn tín và trở thành Con Thiên Chúa, thuộc về gia đình của những người môn đệ của Đức Giê-su. Phép rửa không chỉ là một nghi thức; nhưng đó là phương thế mà Thiên Chúa đã dùng để xác định rằng chúng ta thuộc về cộng đoàn tín hữu, những người môn đệ dấu yêu của Người. Tập thể của những người con mà Thiên Chúa yêu dấu và dĩ nhiên chúng ta cũng cố gắng làm vui lòng Ngài. Do vậy, tuy rằng chúng ta lĩnh nhận bí tích này duy chỉ một lần trong đời, nhưng bản sắc, căn tính mà chúng ta được ban tặng cần được duy trì và phát triển mãnh liệt trong cuôc sống thường ngày của chúng ta.

Hôm nay, khi mừng lễ Đức Giê-su chịu phép rửa. Hội Thánh mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống của chúng ta, tuyên xưng lại niềm tin và quyết tâm sống trọn lời tuyên hứa trong ngày lĩnh nhận bí tích rửa tội của mỗi người. Từ đó, chúng ta có nhiều cơ hội sống tốt hơn, thiện hảo hơn, sống đúng theo yêu cầu mà Đức Giê-su đã tỏ bầy cho chúng ta là những môn đệ chân chính của Thầy.

Và cho dù vô tội. Nhưng hôm nay Đức Giê-su đã hoà mình vào dòng chảy của những con người tội lỗi để thay thế chúng ta thì giờ đây đã đến lượt chúng ta, qua bí tích rửa tội, được mời gọi mặc lấy Đức Ki-tô, trở nên một với Đức Ki-tô. Nói khác đi qua bí tích rửa tội chúng ta được mời gọi trở thành một Đức Kitô khác.

Sau cùng, vẫn biết rằng chúng ta chỉ được rửa tội một lần trong đời, nhưng trong cuộc sống thường ngày của một chứng nhân, chúng ta phải sống và giữ lời hứa rửa tội trong suốt cuộc đời. Có nghĩa là bước vào con đường của Người, mặc lấy cuộc sống và sứ vụ của Người, để càng ngày càng trở nên giống Người hơn. Và đó chính là Tin Vui, mà chúng ta những người đã được rửa tội và thánh hiến, cần đem đến cho thế giới hôm nay. Amen



Wednesday, 2 January 2019

HÃY ĐỂ THIÊN CHÚA TỎ MÌNH!



Ngày nay đã có máy định vị dẫn đường chỉ lối cho chúng ta đi đến nơi về đến chốn. Nhưng, khoảng hai muơi năm trước đây, khi mà máy định vị chưa được nhiều người biết đến thì nếu chúng ta dự định đi thăm một ai đó ở thị trấn hay thành phố nào đó mà chúng ta chưa đi qua; thì việc đầu tiên là dò hỏi đường đi nước bước của những ai đã đi qua nơi đó, nhờ họ chỉ đường và đề xuất những con đường tốt nhất giúp chúng ta đi. Ngoài ra, chúng ta cũng nên nhìn vào bản đồ để tìm ra cách thức giúp chúng ta đi đến nơi mà chúng ta muốn đi. Và trên đường đi, chúng ta cũng nên tiếp tục kiểm tra bản đồ để chắc chắn rằng chúng ta đang đi đúng hướng. Nếu chúng ta làm theo các hướng dẫn đã được chỉ dẫn, lưu tâm đến các bảng chỉ dẫn giao thông trên đường và kiểm tra lại hướng đi trên bản đồ thì chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy đường. Vì tất cả đều là những dấu hiệu giúp chúng ta đi đến nơi an toàn.

Tương tự như thế, qua trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta được biết là trong thời gian Đức Giê-su được sinh ra thì có một số nhà khôn ngoan thông thái, còn được gọi là các nhà chiêm tinh, chuyên nghiên cứu sao trời đã nhìn thấy một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời mà họ tin rằng đó là ngôi sao chiếu mệnh của một ai đó sẽ được sinh ra để làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Họ đã theo dấu ngôi sao lên đường tìm kiếm và thờ lậy.

Tuy hành trình và mục tiêu kiếm tìm của họ đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và noi gương. Nhưng điều mà chúng ta quan tâm ở đây là qua biến cố này chúng ta đọc và nhận ra việc Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, chứ không còn chỉ riêng cho dân Do Thái mà thôi. Nguồn ơn cứu độ phổ được ban cho mọi người. Ba nhà chiêm tinh có thể đóng vai trò đại diện cho dân ngoại, đến và thờ lậy. Và sau lần gặp gỡ Hài Nhi Giê-su, họ đã được biến đổi rồi đi đường khác về nhà để tránh hiểm họa có thể xẩy ra bởi bạo chúa Hê-rô-đê.

Bài Tin Mừng hôm nay thường được dùng trong các niên lịch phụng vụ của Lễ mà chúng ta thường hay gọi là Lễ Ba Vua. Ở đâu ra con số ba này! Thật ra, ngay trong trình thuật kể về sự tích cũng không đề cập đến mấy người. Tuy nhiên, người ta có thể căn cứ vào số lễ vật đã được dâng rồi đoán là có ba người từ phương xa đến đến thờ lậy hài nhi Giê-su. Nhưng ngày nay, hầu hết các nhà chuyên môn Thánh Kinh đều cho rằng chẳng có vua chúa trần gian nào đến bái thờ hài nhi Giêsu hết, ngoại trừ Vua Hê-rô-đê, một bạo chúa mưu toan tìm cách giết Người.

Như vậy, thưa anh chị em.

Biến cố tỏ mình của Đức Giê-su cho muôn dân hôm nay giúp chúng ta nhận ra chiều kích tràn đầy của Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Giáng Sinh dù thế nào vẫn chỉ là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho dân Israel, dân riêng của Ngài. Với Lễ Hiển Linh, mầu nhiệm đó đạt đến mức toàn diện. Thiên Chúa sinh ra làm người và tỏ mình không chỉ cho dân Do Thái; mà còn tỏ mình cho muôn dân muôn nước, bao gồm cả chúng ta nữa. Việc tỏ mình là sáng kiến của Thiên Chúa, không ai có thể yêu cầu hay buộc Ngài phải làm chuyện đó. Nhưng, nếu chúng ta không nhận biết, không đón nhận và không loan báo cho nhau thì quả là một điều thiếu sót. Như thế, biến cố này đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình niềm tin và cách sống đạo của chúng ta.

Hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh không dễ dàng. Dù có ngôi sao dẫn đường, nhưng ngôi sao lúc ẩn lúc hiện. Cũng có lúc các ông bị mất dấu; không phải do các ông đi lạc; nhưng ngôi sao không xuất hiện thì biết lối nào để đi. Trong hoàn cảnh đó, họ không hề thất vọng; tiếp tục tìm kiếm bằng cách dò hỏi những ai đã được tiên báo về sự xuất hiện của con trẻ Giê-su. Họ đã hỏi các thượng tế và kinh sư về thời gian và nơi chốn của vị lãnh tụ, đấng chăn dắt dân của Thiên Chúa sẽ ra đời.

Với chi tiết này chúng ta thấy rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó được xếp vào hạng khôn ngoan thông thái, am tường đạo Chúa. Thế mà, họ chỉ biết theo kinh điển mà không hề cất bước đi tìm cho nên cái khôn ngoan, những điều họ biết đã chẳng giúp gì cho họ. Còn Vua Hê-rô-đê cũng biết; nhưng điều mà vua biết không đem vua lại gần Chúa; trái lại cái biết đó lại là nguyên nhân khiến cho vua lo sợ. Phát sinh từ nỗi sợ hãi hoang tưởng, sợ mất quyền hành; vua đã tìm cách tiêu diệt và giết hết những ai là mầm mống đe doạ sẽ lật đổ ngai vàng của ông.

Tuy vậy, hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh không phải là mối bận tâm của Thánh Sử. Điều làm cho Thánh sử bận tâm là chương trình của Thiên Chúa dành cho mọi dân tộc. Việc Chúa tỏ bầy, Chúa hiển linh là một sáng kiến phát sinh từ kho tàng ân huệ của Thiên Chúa. Ngôi sao cũng là một cách thức để dẫn đưa họ. Thậm chí, Chúa có thể dùng cả những kẻ gian ác như Vua Hê-rô-đê làm cách thức soi sáng, cung cấp thông tin giúp họ khỏi lạc hướng. Như vậy, Thiên Chúa luôn soi sáng cho những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi họ cảm thấy ánh sáng lúc ẩn lúc hiện, đường đi không rõ và tương lai lại mịt mù.

Việc Hiển Linh đã trở nên trọn vẹn khi Đức Giê-su đã cho đi tận cùng cuộc sống của mình. Chính việc cho đi và tự hiến sau cùng của Người lại là cuộc tỏ mình huy hoàng nhất về chân tướng đích thật của Người qua biến cố Phục Sinh. Vào ngày đó, con người của Đức Giêsu được bao phủ trọn vẹn thần tính của Thiên Chúa. Và chính nhờ ơn Phục Sinh mà chúng ta nhận ra thần tính của Đức Chúa. Các môn đệ là nhân chứng về cuộc Hiển Linh Phục Sinh. Niềm tin của chúng ta hôm nay cũng dựa vào lời chứng của các tín hữu tiên khởi; đó chính là: Thiên Chúa đã tỏ mình trong thân phận con người của Đức Giêsu, Người đã ở giữa chúng tôi và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người từ Chúa Cha mà đến.

Với trình thuật Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho mọi người biết rằng: với Chúa không ai là người ngoài cuộc hết. Tất cả đều được mời gọi đón nhận và làm chứng về ơn cứu độ. Ai ai cũng đựợc diễm phúc làm con của Ngài. Ai ai cũng được mời gọi sống để tỏ bầy sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây chính là hồng ân và sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.

Thưa anh chị em,

Thiên Chúa đã làm người, đã tỏ chân tướng đích thật của Ngài cho chúng ta nhận biết. Nhưng chúng ta đã làm gì để tỏ ra cho người khác nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình? Cũng có lúc chúng ta cảm thấy Chúa rất gần gũi, Người đang ở sát bên mình và thúc giục chúng ta ra đi để chu toàn sứ mạng. Với ý ngay lành chúng ta tuởng như là Chúa rất cần chúng ta để làm cho Danh Người cả sáng. Nhưng thực tế lại khác, có những giây phút buồn chán khi đối diện với muôn ngàn khó khăn khiến chúng ta dễ có khuynh hướng buông xuôi và bỏ cuộc… Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta lại gán cho Chúa ý nghĩ của mình là Chúa bỏ rơi con người. Thật ra, Thiên Chúa không chán nản, không hề thất vọng về ta. Ngài dùng đủ mọi cách thức để bộc lộ, lôi kéo và hướng dẫn chúng ta.

Vì thế, giống như hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh, trong cuộc sống chúng ta cũng nhận ra dấu của ngôi sao, các dấu chỉ thời đại mà Chúa dùng để soi sáng và mời gọi chúng ta. Tất cả đều là ánh sáng của Chúa. Ngay cả có những lúc ánh sao bị biến mất thì Chúa lại dùng đường lối khác, như những con người giống Hê-rô-đê và những vị học giả thông thái am tường đạo Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng họ, không chừa một ai, để hỗ trợ, động viên, nhắn gửi cho các nhà chiêm tinh và mỗi người chúng ta một sứ điệp là ta vẫn đáng tin, đừng chán nản, hãy tiếp tục lên đuờng và căng buồm ra khơi.

Như vậy, sứ mạng làm cho người khác nhận ra Thiên Chúa nơi mình không nằm xa và ở ngoài khả năng của chúng ta. Nó nằm ngay trong bản thân, giữa gia đình, qua mối dây liên hệ giữa vợ chồng và con cái, giữa các kẻ tin và người không tin, giữa những ai đủ can đảm để cho Mầu Nhiệm Nhập Thể, chứng thực hành động của Thiên Chúa tỏ mình qua các việc làm như:

- Trao cho nhau nụ cười, dành cho nhau các câu nói cảm thông hơn là trách móc, ghen tỵ và oán than nhau.
-  Đến với nhau bằng trái tim biết rung động để khoan hồng và dung thứ và đón nhận những thiếu sót và bất toàn của nhau.
-   Mở rộng đôi tay nhân ái để đón tiếp hơn là loại bỏ, hất hủi và xua đuổi nhau.

Nói chung, đó là các việc làm nói lên việc tìm kiếm và thực thi lời Chúa bằng chính cuộc sống mình. Tất cả đều là lời mời gọi, là các cơ hội để Thiên Chúa được tỏ mình qua lối sống chứng nhân, tuy bình thường nhưng lại chứa đựng quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa nơi mình.

Cầu xin cho mọi người có lối sống nêu trên để qua đó, chúng ta có nhiều cơ hội bộc lộ thân thế và nguồn ơn cứu độ của Người cho muôn dân. Amen!