Anh chị em thân mến,
Trình thuật Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe được gọi là phép lạ
Cana. Đức Giêsu đã dùng Lời để biến nước thành rượu. Nước biến thành rượu đã là
một việc lạ lùng, thế mà trong câu cuối cùng, tác giả lại nói đó là ‘dấu lạ’ mà
Đức Giê-su đã thực hiện, để tỏ vinh quang của Người và nhờ đó mà các môn đệ tin
vào Người. Như vậy, không chỉ có dấu lạ tại Cana mà mọi dấu lạ được ghi trong
Tin Mừng này đóng một vai trò quan trọng để giúp chúng ta nhận ra vinh quang của
Thiên Chúa được bộc lộ bởi sứ vụ của Đức Giê-su.
Trong sách Tin Mừng này không thấy tác giả ghi lại việc Đức
Giê-su được sinh hạ như thế nào. Thay vào đó trong phần Lời Tựa ở chương một,
tác giả mời gọi chúng ta đi xa hơn, đi về trình thuật tạo dựng để nhận ra sự hiện
diện của Ngôi Lời; đó là: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về
Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa... Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
… Ngôi Lời là ánh sáng thật… “ (Gio-an 1:1-9)
Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ bằng Lời của Ngài. Còn tại Cana
thì Đức Giê-su lại dùng Lời để biến nước thành rượu. Như vậy, có một sự nối kết
giữa sứ vụ của Đức Giê-su và trình thuật tạo dựng. Người có nhiệm vụ tái tạo những
gì mà con người đã làm đổ vỡ và đem mọi sự đến sự kiện toàn. Mạc khải từ thủa tạo
dựng cho đền giờ vẫn bất toàn. Đức Giê-su sẽ làm cho mới và kiện toàn chương trình
của Thiên Chúa. Như vậy, sứ điệp mà dấu lạ tại Cana đem đến là việc thay cũ đổi
mới sẽ được thực hiện trong con người Đức Giê-su.
Vẫn biết rằng tất cả các dấu lạ được ghi lại trong sách Tin Mừng
thứ tư này nhằm mục đích để chúng ta tin và nhờ tin mà đạt đến sự sống đời đời.
Tuy nhiên mỗi một dấu lạ cũng mang một ý nghĩa riêng biệt của nó. Vì thế, chúng
ta hãy lưu tâm đến các nhân vật xuất hiện trong trình thuật, các chi tiết được
trình bầy. Trong tinh thần đó, chúng ta cùng dành đôi phút để đọc rồi tường thuật
lại biến cố này theo lối nhìn và hoàn cảnh của mỗi người; miễn sao chúng ta đừng
quên sứ điệp là qua dấu lạ này vinh quang Chúa được tỏ hiện để chúng ta TIN vào
Người.
Thưa anh chị em,
Dù chúng ta sống ở thời đại nào hay lớn lên trong bất cứ nền
văn hoá nào, tiệc cưới luôn là bữa tiệc của niềm vui. Người ta ăn uống nhẩy múa
để san sẻ niềm vui với cô dâu, chú rể và hai họ. Theo phong tục của người Do
Thái thời Đức Giê-su thì tiệc cưới kéo dài bẩy ngày. Con số bẩy là con số tràn
đầy, gợi lại cho chúng ta thời gian mà Thiên Chúa dùng để tạo dựng vũ trụ và vạn
vật. Phải chăng theo tập tục này chúng ta nhận ra sự tràn đầy của đôi nam nữ
khi kết hợp với nhau thành một gia đình!
Thế mà mới sang ngày thứ ba, họ đã hết rượu. Chi tiết và cách
xử dụng phép lạ được thực hiện vào ngày thứ ba khiến cho chúng ta nghĩ đến cụm
từ ‘ngày thứ ba’ được dùng để mô tả biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su; như vậy
rõ ràng có sự nối kết giữa sự việc xẩy ra hôm nay với Mầu Nhiệm Phục Sinh.
Trong tiệc cưới hôm nay có Đức Giê-su, Mẹ Người và các môn đệ
của Người nữa. Không khí tiệc cưới thật náo nhiệt, mọi người vui vẻ, đã sang
ngày thứ ba rồi nên ai cũng có chút hơi men; vì thế không khí càng sôi nổi hơn.
Mẹ của Đức Giê-su ngồi chung với bà con và bạn của Mẹ. Mẹ nhìn sang bàn của
Chúa và các môn đệ, thấy họ đang nghe Chúa kể truyện, Người như là nguồn vui
cho cả bàn. Mẹ gật gù, mỉm cuời mãn nguyện về con mình.
Tâm hồn Mẹ chìm vào sâu lắng để ôn lại những gì đã xẩy ra
trong gia đình của Mẹ khoảng 30 năm qua. Từ câu nói của cụ già Simeon khi bồng ẵm
Hài Nhi Giê-su trong vòng tay rồi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa vì đã ban cho ông
nhìn thấy ơn cứu độ, đến câu tiên báo về một lưỡi gươm sẽ đâm vào tâm hồn Mẹ…
Thánh Giu-se và Mẹ vẫn thường xuyên nói với nhau về biến cố và những lời nói bí
ẩn này. Cả hai ông bà đều nhận ra sự trưởng thành của Đức Giê-su. Người lớn lên
trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Ân huệ của Thiên Chúa tràn đầy trên
cuộc sống của Người; và mọi người ai ai cũng quý mến. Còn Cha Mẹ Người thì vẫn
nỗ lực tìm kiếm để vâng nghe ý định của Thiên Chúa trong niềm cậy trông và phó
thác.
Giống như các bà mẹ khác, Đức Maria cũng có hoài vọng và mơ ước
riêng dành cho Đức Giê-su. Tuy nhiên, Mẹ tiếp tục cầu nguyện và xin được tự do,
không bị vướng bận bởi các ước muốn của riêng Mẹ để luôn tôn trọng việc tự do
tìm kiếm ý định của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su và cùng với Người hoàn thành ý định
của Thiên Chúa.
Kể từ ngày Đức Giê-su rời nhà ra đi rao giảng. Mẹ đã chúc
phúc cho Người và vẫn thường xuyên theo dõi các việc làm của Người. Cách đây
không lâu, Mẹ nghe bà con kể việc Đức Giê-su chịu phép rửa bên bờ sông Gio-đan.
Họ cho Mẹ biết, trong lúc Đức Giê-su đang chịu phép rửa thì tầng trời mở ra và
có tiếng Chúa Cha phán “Này là Con ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.” Họ thật sửng
sốt khi chứng kiến việc kỳ diệu đó. Riêng Mẹ thì vẫn ghi nhớ các sự kiện, lời
nói xẩy ra cho con mình vào sâu thẳm tận đáy lòng.
Đang chìm đắm trong mối suy tư về con của mình. Bỗng nhiên, Mẹ
khám phá ra sự việc tiệc cưới đã hết rượu! Làm sao chuyện như thế này có thể xẩy
ra được. Trước khi khai mạc tiệc cưới, họ đã chuẩn bị thật kỹ lưỡng; thế mà làm
sao vẫn có thể xẩy ra như thế này. Thật là xấu hổ với nhà gái và bà con hai họ khi
để cho tiệc cưới lâm vào hoàn cảnh này. Mọi người đều bối rối.
Trong lúc đó, Đức Giê-su đang đi dạo chung quanh sân, làm như
Người không hề biết chuyện gì đã xẩy ra. Mẹ đứng dậy bước ra gặp Người. Thấy thế,
Đức Giê-su giang tay ôm cổ Mẹ mình và hôn nhẹ lên má của Mẹ, nhẹ nhàng khẽ kêu
‘Mummy, Mẹ có vui không? Mẹ gật đầu, ngước mắt nhìn lên khuôn mặt của con Mẹ với
tấm lòng và nghĩa cử yêu thương của một người Mẹ. Mẹ chỉ muốn giây phút đó kéo
dài. Không dám buông bỏ, chỉ muốn giữ mãi người con dâú yêu trong vòng tay yêu
thương của Mẹ.
Bỗng nhiên, Mẹ cảm thấy dường như có một nỗi lo xuất hiện
trong tâm rồi Mẹ tự hỏi: “Mình đang bảo vệ con hay bảo vệ chính mình.” Một mặt,
lời của cụ già Simeon ‘một luỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà’ vẫn vang vẳng bên
tai; mặt khác Mẹ lại nhớ đến điều mà Mẹ suy gẫm hằng ngày là xin Chúa cho Mẹ biết
mở rộng con tim, mở rộng vòng tay để hành xử trong tự do và chấp nhận ý định của
Thiên Chúa sẽ thực hiện trong và qua con của Mẹ. Vì thế, ‘đừng sợ nhưng hãy tin’
vẫn là châm ngôn trong cuộc sống của Mẹ. Đến lúc đó, Mẹ biết ngay Giờ của con
đã đến. Vì thế, Mẹ mạnh dạn bước đến nói với Đức Giê-su ‘Con ơi, họ hết rượu rồi.’
Mẹ ám chỉ đến tình trạng của đám cuới. Mẹ chỉ nói được như thế.
Phần Đức Giê-su, sau khi nghe Mẹ thông báo về tình trạng hết
rượu của nhà đám, Người nhìn vaò trong nhà, thấy rõ vẻ bối rối của họ, Người biết
những gì đã xẩy ra. Tuy nhiên, quay sang Mẹ, Người ngập ngừng nói ‘Mummy’, rồi
im lặng mới nói tiếp ‘thưa bà, chuyện đó có can hệ gì đến tôi và bà, giờ tôi
chưa đến.’ Câu nói hơi khó nghe. Nhưng ở đây, Đức Giê-su muốn tỏ rõ lập trường
về mối quan hệ giữa Đức Maria và Người. Liên hệ máu huyết tuy quan trọng, nhưng
vẫn không bằng mối tương quan của những ai luôn tìm kiếm và thực hiện điều
Thiên Chúa muốn. Vì vậy, vấn đề quan trọng là Người và Mẹ Người cần thi hành ý
định của Thiên Chúa.
Dấu lạ này xẩy ra ở đầu sứ vụ. Việc của Người còn dài. Giờ
Thiên Chúa tôn vinh Người chưa đến. Người cần thi hành ý muốn của Chúa Cha trước.
Câu trả lời của Đức Giê-su ‘Giờ tôi chưa đến’ ở đây khiến Mẹ nhớ lại lời mà Người
đã nói trong đền thờ là ‘Cha Mẹ không biết rằng con phải lo việc cha con
sao’. Mẹ tin vào sự lựa chọn của Đức
Giê-su. Người chỉ muốn tùng phục và vâng nghe theo ý của Thiên Chúa mà thôi, nên
Mẹ cũng chẳng cảm thấy buồn, bèn quay vào trong nhà và bảo những người giúp việc
là “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Nghe Đức Maria nói thế, họ nhìn
nhau ngạc nhiên. Còn Mẹ thì bước vào nhà để Đức Giê-su đứng đó cầu nguyện với
Cha Ngài là Abba.
Một lát sau. Mẹ nhìn thấy Đức Giê-su sai bảo gia nhân đổ đầy
nước vào sáu chum đá dành cho việc rửa tay trước khi nhập tiệc. Những người
giúp việc nghe xong lịnh truyền của Chúa bèn cảm thấy bối rối. Bởi vì, nghi thức
rửa tay trước khi nhập tiệc đã hoàn tất, giờ đây cần đổ đầy nước vào các chum để
làm gì! Tuy vậy, họ cũng không hỏi lại Người. Chỉ biết vâng nghe và làm theo. Sau
đó Đức Giê-su yêu cầu họ đem nước ra cho ông quản tiệc. Nước đã biến thành rượu
mà ông quản tiệc không hề biết. Chỉ có những người cộng tác biết mà thôi!
Phần Mẹ, qua mẩu đối thoại hôm nay giúp chúng ta nhận ra niềm
tin của Mẹ, luôn kiên cường, phó thác và hết lòng cậy trông, không nghi ngại.
Có một sự biến chuyển thật diệu kỳ ở đây. Đó là từ đầu trình
thuật chúng ta chưa hề biết ai là chú rể. Theo tục lệ của người Do thái thì chú
rể là người cung cấp rượu. Đến lúc này, qua việc Đức Giê-su biến nước thành rượu
chúng ta nhận ra ý của Thánh sử muốn công bố cho chúng ta biết Đức Giê-su không
chỉ là rượu mới, mà còn là Chủ cung cấp rượu cho muôn dân. Người là chủ bữa tiệc
hoan lạc của ngày cánh chung, mà hiện nay chúng ta cùng nhau cử hành trong các
Thánh lễ.
Tại Cana, trong tiệc cưới hôm nay, Đức Giêsu đã đến khai mạc
ngày hoan lạc ấy. Ở Na-im, Người đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của
người Mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi cho con của bà sống lại. Ở
Giê-ri-cô, Người đã biến tâm hồn ích kỷ, chỉ biết vơ vét của ông Da-kêu thành một
tâm hồn quảng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, lúc mà thiên hạ
tưởng như Người đã bó tay; nhưng chính trong lúc đó Người đã biến đổi kẻ trộm
thành người khách đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục
sinh, Người đã biến đổi sự chết thành sự sống.
Vì thế, qua dấu lạ hôm nay, Đức Giê-su đã tỏ bầy cho chúng ta
nhìn thấy vinh quang của Người. Phải chăng đây cũng là cuộc hiển linh, cuộc tỏ
mình để biến đổi tất cả những ai tin vào Người trở thành rượu thơm ngon hảo hạng,
dành cho thế giới đang có nhiều sự đổi thay hôm nay. Giữa các sự đổi thay nhanh
như chớp, người tín hữu cần đến với Đức Giê-su là nguồn của mọi sự đổi mới. Chỉ
có trong Người thì mọi sự thay đổi mới bền vững và có giá trị lâu bền. Hãy đến
với Chúa, Người sẽ biến đổi cuộc sống tẻ nhạt, không chút đổi thay của chúng ta
thành rượu ngon cho mọi bữa tiệc mà chúng ta cùng tham dự. Amen!
No comments:
Post a Comment