Friday, 31 January 2020

TIẾN DÂNG CHÚA ĐỂ LUÔN THUỘC VỀ CHÚA.



Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng Lễ Dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa. Bài Tin Mừng kể lại việc Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a tuân theo luật Mai-sen, bế hài nhi Giê-su, người con trai đầu lòng mới được sinh ra 40 ngày, lên Đền thờ Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Thiên Chúa.

Trong khi cử hành lễ này thì tôi lại nhớ đến tấm lòng bao dung, quảng đại và hy sinh mà các bậc cha mẹ đã trao ban cho con cháu. Họ đã nỗ lực học để quên mình mà luôn khuyến khích và cho phép con cái của họ thực hiện những gì mà các cháu được kêu gọi để hoàn tất.

Như tất cả chúng ta đều biết rằng trước khi con cái thuộc về cha mẹ hay thuộc về gia đình mình thì các cháu phải thuộc về Chúa trước. Thật vậy, mọi thành viên trong gia đình của chúng ta nói riêng và gia đình Hội Thánh nói chung đều là những món quà vô giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.

Lối suy nghĩ này quả thật rất ích lợi. Khi sinh ra chúng ta biết mình lệ thuộc vào ai. Kiểu sống tự sinh tự diệt không còn được chấp nhận. Mỗi người chúng ta được sinh ra để thuộc về nhau. Chúng ta có bổn phận và trách nhiệm lo lắng và chăm sóc cho nhau.

Dọc theo năm tháng của dòng đời, chúng ta càng thấy rõ điều này hơn. Trước hết chúng ta thấy gia đình mình đông hơn, ngoài cha mẹ và anh chị em, chúng ta còn có những người bạn. Họ đã đến để thuộc về chúng ta và chúng ta cũng thuộc về họ. Như vậy, sống là chấp nhận thuộc về gia đình, xóm giáo, cộng đòan và Hội Thánh.
Không ai trong chúng ta lại sống cho riêng mình mà được tồn tại hết. Sống là sống cho người khác. Cho đến một ngày con tim của chúng ta nhận ra một sự nối kết, một cách thuộc về với một đối tượng mà không ai có thể cắt đứt hay kéo chúng ta ra khỏi vòng tay của người đó được. Và từ đó một chu kỳ của ‘thuộc về’ được gầy dựng bằng chính tình yêu và lòng chung thủy của chúng ta dành cho nhau.

Vì vậy, để sống và thưc hiện được điều này, tất cả chúng ta, đặc biệt những ai đang nắm giữ trọng trách lãnh đạo trong gia đình, tại giáo xứ và của Hội Thánh, họ cần học cách sống ‘từ bỏ -letting go’ cái tôi, từ bỏ tự nhận mình là đúng hay tự cho mình là người cầm cán cân công lý; rồi để cho con cái trong gia đình, thành viên trong các tổ chức đời cũng như đạo có thể khám phá ra thế giới, môi trường, hướng đi, ơn gọi mà trong đó họ có thể thiết lập nền tảng, đóng góp và xây dựng một cách tích cực nhất. Thậm chí, chúng ta cần cho phép và chấp nhận những sai lỗi của họ và biểu lộ tình thương qua việc hỗ trợ và đứng bên các cháu nữa. Tôi tin tưởng rằng, là cha mẹ và người lãnh đạo, chúng ta sẵn sàng chấp nhận thua để con cháu mình thắng, vì yêu thương chúng.

Và trong ngày lễ hôm nay, Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a đã chỉ cho chúng ta con đường, dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa, để Người tự do thực hiện chương trình mà Thiên Chúa đã chuẩn bị và muốn Người thực hiện.

Đức Giê-su đã sống điều này một cách thật nghiêm chỉnh. Người thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Người đã xác định điều này khi phán “Này Tôi xin đến để thực thi ý Chúa (Dt 10:19) và “Ta với Cha là một” (Gio-an 10:30).

Có biết bao thử thách đã đến cám dỗ Người sống cho riêng mình, như: nếu ông là Con Thiên Chúa thì biến đá thành của ăn, chứng tỏ uy quyền bằng cách nhẩy xuống từ nóc đền thờ này đi, và ngay trong giây phút sinh tử, Đức Giê-su còn bị thử thách rằng nếu Người là Đức Ki-tô thì hãy tự cứu mình, v.v… Tất cả thử thách trong cuộc sống nhằm lôi kéo Người sống theo ý mình, không muốn thuộc về Cha. Nhưng Người đã chiến thắng tất cả. Đức Giêsu không tự mình nói, không tự mình làm và đã vượt qua cái tôi bằng cách để cho Thiên Chúa, Cha Người làm chủ cuộc sống sứ mạng của Người.

Trở về với cuộc sống của chúng ta, thực tế dậy chúng ta biết rằng không ai trong chúng ta được sinh ra rồi để cho người khác kiểm soát hay thống trị mình. Chúng ta là quà tặng mà Thiên Chúa ban cho nhau. Bằng cái nhìn tích cực, chúng ta có thể cho rằng những người đã hiện diện trong cuộc đời mình đều nắm giữ một vai trò nào đó trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho mình. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng có cái nhìn như thế. Trong những lúc yếu đuối, chúng ta có thể xem họ như chướng ngại vật cản bước tiến của mình, hủy đi mối tương quan giữa mình và họ. Mỗi khi như thế, chúng ta cũng nên trở về để nhớ lại sự kiện hôm nay, và ‘tiến dâng’ họ cho Thiên Chúa, xin Người ban bình an và chúc phúc cho họ để mối dây tương quan, sự liên kết ‘thuộc về’ giữa họ và chúng ta được bền chặt hơn.


Trở về bản thân, chúng ta cần khám phá ra những gì mà Thiên Chúa đã ban tặng cho mình. Bởi vì, làm thế nào chúng ta có thể dâng cho Thiên Chúa điều chúng ta không có! Công việc này quả thật rất khó khăn khi tìm cách liệt kê và còn phải kể ra những quà tặng đó với lòng biết ơn, không kiêu hãnh, không ngạo mạn, mà chỉ có chân thành. Trên thực tế, chúng ta có thể xin lễ tạ ơn, nhưng lại thường hay quên thể hiện dâng lên Thiên Chúa lối sống tạ ơn về những gì đã được trao ban cho mình bằng việc làm cho tha nhân.

Vì thế, đây là lúc chúng ta cần xem xét vấn đề này một cách thật nghiêm túc. Ngoài việc nhìn lại chính mình và dành thời gian để suy gẫm về ân huệ, quà tặng, sự hiên diện và can thiệp của Thiên Chúa đã thể hiện trong đời mình. Với lòng tạ ơn chúng ta cần chia sẻ những điều đã lĩnh nhận cho người khác. Tiến dâng là như thế. 
Sau đó, giống như thái độ của bà An-na và ông già Si-mê-ôn trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ đã nhận được món quà vô giá qua việc gặp gỡ con trẻ Giê-su. Trái tim của họ được lấp đầy nguồn hạnh phúc được ơn cứu độ mà Đức Giê-su đem đến cho họ. Như họ, với lòng biết ơn chúng ta cũng đã nhận bao quà tặng trong cuộc sống và quà tặng vô giá nhất là sự hiện diện của Đức Giêsu trong hành trình cuộc sống mình. Vì thế, hãy tiến dâng cho Thiên Chúa những gì mà chúng ta đã lĩnh nhận để chúng ta và mọi người mà chúng ta đã gặp đều thuộc về Thiên Chúa và thuộc về nhau. Amen!

Tuesday, 21 January 2020

HẠNH PHÚC ƠI, BẠN Ở ĐÂU?



Cuối tuần này, những người tín hữu Việt Nam cùng nhau đón mừng năm mới âm lịch: Xuân Canh Tý. Một năm cũ Kỷ Hợi đã qua đi với bao hồng ân. Chúng ta hân hoan long trọng đón chào năm mới Canh Tý bằng tâm tình Tạ Ơn và Phó Thác. Và một trong những hồng ân cao trọng đó là được trở nên những người môn đệ của Chúa. Đây không phải là điều chúng ta kêu xin, mà trước tiên được tuyển chọn bởi sự quan phòng của Chúa Tình Yêu.

Với nghĩa vụ của người được chọn, chúng ta cùng nhau nhớ lại sứ điệp mà Đức Giê-su đã loan báo khi bắt đầu thi hành sứ vụ rao giảng mà chúng ta được nghe trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ ba thường niên, vào cuối tuần này, đó là “anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”

Hãy sám hối không chỉ để sửa một sai lỗi nào đó mà là thay đối cách sống, đổi mới cách nhìn để đón nhận Nước Trời làm gia nghiệp, sống và tuân phục bản hiến chương mà Đức Giê-su công bố trong các mối phúc thật mà chúng ta được nghe trong giây phút linh thiêng và trang trọng giữa năm cũ và mới, giữa phút giây chuyển tiếp, giao lưu giữa hồng ân của năm cũ Kỷ Hợi và ân huệ trong năm mới Canh Tý này. Giao Thừa là thế!

Và, trong giây phút thánh thiêng này còn gì ích lợi hơn bằng việc chúng ta cùng nhau cử hành Thánh Lễ với các ý nguyện: Tạ Ơn và Xin Ơn. Hai ý nguyện này tưởng chừng như là hai, nhưng thật ra được nối kết với nhau như một: trong Chúa chúng ta đi tìm một ý lực sống cho năm mới này.

Trước hết, chúng ta không chỉ tạ ơn về những hồng ân mà Thiên Chúa, đấng làm chủ đất trời đã ban cho chúng ta trong năm qua. Nhưng ngay cả những thất bại, những bất hạnh, đắng cay đã xẩy ra trong năm cũ cũng là những cơ hội giúp ta gạn lọc và chọn lựa những gì thích hợp với cuộc sống hơn. Nói tóm lại, khi vui cũng như lúc buồn, khi hạnh phúc cũng như lúc đau khổ đều là những cơ hội để chúng ta tạ ơn, vì tất cả đều là hồng ân!

Sau đó, với tâm tình tạ ơn này chúng ta quên đi những khắc khoải, ưu tư, phiền muộn của năm cũ Kỷ Hợi, để bắt đầu năm mới Canh Tý bằng sự kết hợp với Chúa Xuân mà xin Ngài ban phúc lành cho ông bà, cha mẹ, anh em họ hàng và bạn bè thân hữu được tràn đầy hạnh phúc, làm ăn phát tài và nhất là được ơn lắng nghe và làm theo Ý Chúa thì đã quá đủ cho nhau rồi .

Việc cầu mong cho nhau được hạnh phúc là điều thiện hảo, tốt lành. Đó là hành trang giúp chúng ta đạt được niềm vui của những người con cái của Cha trên trời. Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta, còn chúng ta không mau mau ra đi mà chúc tuổi nhau. Tuy nhiên, thật đáng buồn vì việc chúc phúc này đôi khi đã được thực hiện như là một thói quen, kiểu xã giao ‘ông cho đi bà cho lại’. Và như thế thì việc chúng ta làm cũng chẳng có gì mới lạ. Miệng thì nói lời chúc phúc nhưng mấy ai trong chúng ta vui với hạnh phúc của người khác! Và chưa vui với niềm vui và hạnh phúc của tha nhân thì nói chi đến việc đem hạnh phúc đến cho họ.

Biết như thế, nên ngay ngày đầu năm, Mẹ Giáo hội, trong bài đọc một đã dâng lên lời cầu: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em. Được Thiên Chúa chúc phúc là điều tốt, nhưng vẫn chưa đủ. Chúng ta còn được mời gọi để đem lời chúc phúc đó cho tha nhân. Muốn được như thế, chúng ta cần ôn lại bài học về ‘Tám mối phúc thật’ mà Chúa dậy chúng ta trong bài Tin Mừng của Thánh lễ đêm Giao Thừa hàng năm. Đó không chỉ là những huấn lịnh hay lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nhưng đó là lối sống mà Chúa muốn chúng ta chọn để sống trong năm nay.

Các mối phúc của Chúa không phải là điều dễ chấp nhận. Thật chuớng tai và thua thiệt. Tôi xin chia sẻ cho anh em vài kinh nghiệm sống đã được thu lượm:

Ai cũng mong giầu có thì Chúa lại phán: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó.” Nghèo khó để biết mình và biết được những gì chúng ta đang có là ân huệ của Chúa. Biết để tập sống giầu bằng cách chia sẻ cho nhau mà ca ngợi Chúa.

Vì không chịu nổi việc cấm cách, bị theo dõi, bắt bớ; nên tôi mới liều chết để sang đây. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho các con khi bị bắt bớ”. Việc đón nhận niềm hạnh phúc khi bị bắt bớ vì Danh Chúa là một ân huệ thật đặc biệt, không phải ai ai cũng được diễm phúc chết vì đạo đâu. Ngay cả các bậc vị vọng trong nước cũng mấy ai có được ơn này.

Ngày hôm nay người ta bắt và cấm đạo một cách tinh vi hơn. Một trong những phương thức có thể đang được áp dụng là ‘vỗ cho béo, nuôi cho rửng mỡ’ để ngủ quên trên nhung lụa và quên đi vai trò ngôn sứ. Thử thách này cũng xuất hiện tại các nước bên này.

Còn tôi, khi sang tới bên này tôi không dám góp ý hay lạm bàn về cách hành xử của các đấng các bậc tại quê nhà nữa. Tôi tin tưởng, với ý ngay lành, các ngài đang thực hiện trách vụ được trao phó; đôi khi cách hành xử của các ngài không phù hợp với lối suy nghĩ của tôi, của anh, chị hay bất kỳ ai khác thì cũng là lẽ thường tình. Vì môi trường và lối sống đã ảnh hưởng trên cách suy tư của tôi. Và tôi cũng tự hỏi mình rằng mình có quyền gì để yêu cầu người khác phải làm theo ý mình; ngay khi chính mình lại chưa làm được! Hoặc, Chúa có đặt tôi làm quan án để phê phán việc làm của người khác đâu! Hơn thế nữa, nếu tôi sống trong hoàn cảnh của các ngài, có lẽ tôi cũng ‘hợp tác’ và ‘cộng tác’ một cách tích cực hơn để phát triển và giương cao ngọn cờ đạo giáo.

Sống hiền từ là chấp nhận phần thua về mình. Thoạt đầu chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu vì người ta sẽ lấn tới, nhưng lâu dần chính sự hiền từ đó sẽ làm cho người ta thay đổi thái độ và đem lại hiệu quả lâu bền. Chúa đã hiền từ và tha thứ cho chúng ta thì việc đối xử nhân hậu với nhau cũng là phúc lành của Chúa thôi, có phải là của chúng ta đâu!

Tất cả những mối phúc trong ‘Tám mối phúc thật’ là những gì Chúa đã sống. Chúa Giêsu, không trình bầy một lý thuyết về hạnh phúc, mà muốn chia sẻ cho chúng ta chính kinh nghiệm sống của Ngài. Nói chung, tám mối phúc thật xét theo nội dung cũng chỉ là mối phúc duy nhất: Phúc cho ai có lối sống như Chúa Giêsu.

Trong tâm tình đó, Mẹ Hội Thánh ưu tư và ước muốn cho con cái mình được hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thật chỉ có thể có được khi chúng ta biết rập khuân theo lối sống của Chúa. Vì thế, trong Chúa chúng ta đến với nhau, để mỗi giây mỗi phút chúng ta là nguồn hạnh phúc cho nhau. Để rồi, cho dù mùa xuân của trời đất có qua đi nhưng mùa xuân trong lòng anh chị em vẫn triển nở không ngừng. 

Sau cùng, nhân dịp Xuân về, thay cho lời chúc tuổi, chúng tôi trân trọng gửi đến anh chị em lời nguyện mà tôi không còn nhớ xuất xứ ở đâu nữa. Việc quên xuất xứ này không đáng khích lệ; nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta được biến đổi khi cùng nhau dâng lên Chúa các lời nguyện này:

“Lậy Chúa, đã bao năm con nài xin sức khoẻ, để con có sức mà làm những việc vĩ đại và hoành tráng; Ngài lại cho đau yếu, để con biết mình yếu đuối.
Con cầu khấn giàu có, để con hạnh phúc; Ngài lại ban nghèo khó, để con khôn ngoan chọn lựa sự giầu có của Thiên Chúa.
Con cầu xin thế lực, để được người đời tôn vinh; Ngài lại cho yếu hèn, để con biết cậy nhờ Chúa.
Con van nài mọi sự, để con sống hưởng thụ; Ngài lại cho sự sống, để con vui hưởng mọi sự.
Con chẳng được ban những điều con nài xin; nhưng lại được tất cả những gì con đang mong chờ.
Và bất kể đời con ra sao; những ước nguyện thầm kín của con Ngài vẫn ban.
Như vậy, con đã được chúc phúc và đời sống con thật phong phú giữa muôn người.”

Chúng con xin dâng lời tạ ơn vì Thiên Chúa hằng quan tâm đến chúng con, ngay cả trước khi chúng con khấn xin.

Nguyện xin Ngài thánh hóa và gìn giữ bản thân chúng ta được vẹn toàn và không có gì đáng trách trong mọi ngày của cuộc sống, nhất là trong năm mới Canh Tý 2020 này.



Thursday, 16 January 2020

CHỨNG THẬT HAY CHỨNG GIAN!




Ngày nay, song song với các phát minh trong các lãnh vực khoa học thì môn công nghệ thông tin đã có những tiến bộ vượt bực. Mọi tin tức được phát sóng và truyền đi mau hơn khiến chúng ta có cảm tưởng thế giới bị thu gọn lại. Việc xẩy ra ở tận phương trời nào cũng được tường trình như là các sự kiện xẩy ra trước mắt mình. Đó là công việc của các phóng viên và ký giả mà chúng ta coi họ như là những ‘nhân chứng sống – eyewitness’

Trong mấy tháng qua, một số vùng tại đất Úc đã chìm sâu trong biển lửa và được mọi người trên thế giới biết đến bởi các bài tường trình, phóng sự bằng hình ảnh trực tiếp của các cơ quan truyền thanh, truyền hình, you tube, facebook và các trang mạng thông tin, v.v… Mắt chúng ta nhìn thấy sức tàn phá của tai ương, tai chúng ta nghe được tiếng than khóc của các nạn nhân. Tất cả nhờ vào tài năng của các ‘nhân chứng sống – eyewitness’.

Tuy nhiên, cũng bởi tài năng mà các nhà chuyên môn có thể ‘chỉnh - sửa’ và cho chúng ta nhìn và nghe những gì họ muốn. Nói chung, con người vẫn dành phần kiểm soát thông tin được truyền đi vì lợi ích của mình.

Sự quan trọng và tầm ảnh hưởng của các nhân chứng cũng được một số nhà thuyết giảng dùng. Họ biết tâm lý của thính giả, vì thế để củng cố cho các lời giảng thuyết của họ không có gì hữu hiệu bằng chứng từ của các nhân chứng, những người này có thể đã được chuẩn bị trước, như những người cò mồi. Đó là chưa kể đến khả năng làm chủ diễn đàn, thu hút và lôi kéo đám đông tin theo họ. Họ có tài thu phục và xách động quần chúng. Thậm chí, có những người dùng và giải thích Lời Chúa hay giáo huấn của Hội Thánh như công cụ để hỗ trợ cho lập luận và ý tưởng của họ.

Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa các vị tư tế và các thầy thông luật. Họ đến chất vấn về nguồn gốc và việc làm của Gio-an. Họ hỏi ông có phải là Đức Ki-tô, ngôn sứ Ê-li-a hay một ngôn sứ nào đó hay không? Trước khi nghe câu trả lời của Gio-an, chúng ta hãy dành đôi phút tìm hiểu về nguồn gốc, vị thế và danh tiếng của Gio-an.

Dựa trên các bản văn đã ghi lại trong các sách Tin Mừng, chúng ta được biết Gio-an xuất thân từ một gia đình vọng tộc và danh giá. Ông Da-ca-ri-a, cha của Gio-an thuộc dòng tộc tư tế A-a-ron. Nhưng Gio-an có đuợc dậy dỗ và lớn lên trong khung cảnh của đền thờ hay không thì không ai hay biết. Chúng ta chỉ biết rằng Gio-an càng lớn càng thêm mạnh mẽ. Và, ngay từ thủa ấu thơ, Gio-an đã sống trong hoang địa cho đến ngày ông ra mắt toàn dân Ít-ra-en.

Tại hoang địa, Gio-an đã có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa. Và chính trong hoang địa mà Gio-an đã khám phá ra ơn gọi, sứ mạng mà Thiên Chúa muốn ông thi hành. Qua Gio-an chúng ta nhận thấy bài học của Chúa, có nghĩa là chỉ có những lúc chúng ta đối diện với sự thật của đời mình, trút bỏ hoàn toàn các mặt nạ, trút bỏ kiêu ngạo, lo lắng, phân tán đi vào cõi sa mạc của chính mình để lắng nghe Lời Chúa thì chúng ta mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa, có cơ hội khám phá ra Thánh Ý của Ngài, như trường hợp của Gio-an Tẩy Giả.

Trước khi kêu gọi dân chúng dọn sẵn con đường cho Chúa đến, sửa lối cho thẳng để Người đi thế nào thì bản thân Gio-an cần có cảm nghiệm về việc chuẩn bị, thống hối và dọn đuờng cho Chúa nơi chính mình trước. Như thế, chúng ta nhận ra rằng: thời gian sống trong hoang địa thật quan trọng đối với sứ vụ và sứ điệp của ông. Đây là một hành trình cần phải có để ông chuẩn bị hoàn thành tốt sứ vụ làm người tiền hô, đi trước để dọn đường cho sự xuất hiện của Đức Ki-tô, Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Người.

Ngay tại bờ sông Gio-đan, Thánh nhân đã được nhiều người biết đến. Lối sống và lời rao giảng của Gio-an thu đã hút họ, và người ta đã lầm tưởng và coi ông như Đấng Thiên Sai, nhưng Gio-an chỉ nghĩ đến sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao ban cho là giới thiệu về Đức Giêsu cho nhân loại.

Vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Gio-an đã vô cùng can đảm khi nhìn nhận sự thật và công khai trả lời cho những người đến chất vấn ông biết rằng, ông không phải là Đức Ki-tô, cũng không phải là Ê-li-a hay một vị ngôn sứ nào đó. Ông chỉ là người dọn đường, tiếng hô trong hoang địa.

Ông đã không tự làm chứng về mình. Chứng từ của ông qui về Đức Giê-su. Lời chứng này nói lên điều Gio-an đã thấy. Cái thấy của ông hôm nay là hồng ân được ban tặng từ Chúa Cha, và soi sáng bởi Chúa Thánh Linh, nên Gio-an đã nói “Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Gio-an 1:33-34)

Trước đó, Gio-an đã làm chứng và giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian. Khi nghe đến các tước hiệu hay danh xưng này, chúng ta nghĩ và hiểu ngay căn tính của con người mà Gio-an muốn giới thiệu. Đó chính là Đức Giê-su, Con Chiên vẹn toàn đã hy sinh cuộc sống của Người để cứu độ và ban cho chúng ta ơn tha tội. Nhưng những người cùng thời với Đức Giê-su, ngay cả Gio-an vẫn còn mù mờ về chân tướng của Đức Giê-su.

Thật vậy, khi ở trong tù, các môn đệ của Gio-an đã báo cho ông biết về những việc mà Đức Giê-su đã làm khiến ông phải sai họ đến hỏi Chúa rằng: Thầy có phải là Đấng mà chúng tôi đang mong đợi hay chúng tôi còn phải chờ Đấng khác. Có lẽ trong hoàn cảnh đang bị tù đầy như thế, Gio-an đã nghĩ rằng nếu Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, người được Thiên Chúa tuyển chọn thì Chúa phải vào để cứu ông ra khỏi tù và kết tội vua Herode về tội lỗi mà nhà vua đã phạm. Trái lại, Đức Giê-su dường như không chỉ im lặng trước bạo quyền, không binh vực ông mà còn làm bạn với những người tội lỗi nữa.

Đức Giê-su đã không trả lời trực tiếp câu hỏi của Gio-an, Người nhẹ nhàng nói cho các môn đệ của Gio-an làm nhân chứng về các điều mà họ đã thấy và đã nghe, đó chính là người mù được sáng mắt và nhìn thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại và những người nghèo được nghe Tin Mừng. Sau đó, Đức Giê-su còn nhắc khéo cho Gio-an biết rằng ông thật là có phúc, nếu không bị vấp ngã vì các công việc mà Đức Giê-su đã làm. Ở đây, Đức Giê-su muốn nói với Gio-an rằng: qua lời tường trình về các công việc Đức Giê-su đã làm mà các ngôn sứ đã loan báo thì ông có tin Người là Đấng Thiên Sai hay không?

Chúng ta không hề hay biết Gio-an có đón nhận lời chúc phúc của Đức Giê-su hay không? Qua cách nói gián tiếp để ca tụng lối sống chứng nhân của Gio-an, chúng ta thấy được Đức Chúa đã coi trọng Gioan đến dường nào! Ông đuợc ví như cây sậy tuy phất phơ và ngả nghiêng trước gió, nhưng đã không bị lôi cuốn và gục ngã trước quyền lực. Gio-an tôn trọng sự thật nên đã không vì hư danh mà đánh lừa dân chúng. Ngài can đảm làm chứng về sự thật. Và vì sự thật mà Ngài phải giữ đứng vị trí của mình, là tiền hô, người dọn đường cho Đức Chúa. Và đã là người dọn đường thì Gio-an phải biết đứng bên lề đường, nhường lối đi cho người được Thiên Chúa tuyển chọn bước vào. Đó là sự thật mà không mấy ai trong chúng ta đủ can đảm đón nhận.

Thật vậy, lối cư xử của Gio-an hoàn toàn ngược lại với lối sống của một số người trong chúng ta hôm nay. Chúng ta muốn thể hiện chính mình, muốn được tuyên dương công trạng, thích phô trương thành tích, muốn được triệu người ‘like’. Vì thế, chúng ta phải sống ảo. Thật và giả lẫn lộn cho đến một ngày mình cũng không còn biết mình là ai nữa! Sự thật dần dần biến mất để nhường chỗ cho giả dối. Sống giả mà được nhiều người ‘like’ thì vẫn thích hơn là sống thật mà bị ghét là quan niệm sống và giao tiếp của nhiều người hôm nay. Đứng trước các hiện tượng xem ra có vẻ bi quan như thế, chúng ta nên ngồi lại mà chỉnh sửa sao cho đúng với căn tính của người tín hữu.

Gương chứng nhân và chứng từ của Gio-an trong bài Tin Mừng hôm nay là lời mời gọi mà Chúa muốn nhắc nhở chúng ta. Chúng ta xác tín rằng tín hữu không chỉ là một tước hiệu, nhưng đó là đặc ân của Thiên Chúa dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tín hữu là những người bước theo chân Đức Ki-tô để thực hiện và chia sẻ nhiệm vụ của ‘Chiên Thiên Chúa’, sẵn sàng gánh và hứng chịu những khổ đau của tha nhân. Như Gio-an, chúng ta tôn trọng sự thật, không sống vì hư danh, không làm để khoe khoang mà sẽ làm mọi sự, bởi vì chúng ta được thúc đẩy bởi tình yêu và gương hy sinh của Đức Giê-su, Con Chiên vẹn toàn, Đấng đã yêu thương chúng ta đến cùng như thế nào thì chúng ta cũng phải là nhân chứng về tình yêu của Chúa, bằng cách sống hy sinh cho nhau, giống như Người vậy. Amen!




Thursday, 9 January 2020

PHÉP RỬA, KHỞI ĐIỂM CỦA SỨ VỤ



Trong cuộc sống, có những cuộc gặp gỡ để lại các dấu ấn và những kỷ niệm khó quên. Cũng có những biến cố khiến chúng ta phải đưa ra quyết định, dù đi theo hướng nào cũng đòi hỏi sự hy sinh và một khi đã chọn lựa rồi thì chúng ta phải toàn tâm toàn ý mà chu toàn cho khỏi lỡ việc. Nói chung, tất cả mọi sự kiện hay những dịp tao ngộ luôn là lời mời gọi hay là dấu chỉ giúp chúng ta trưởng thành hơn.

Thánh An Phong được sinh ra và lớn lên trong một gia đình quí tộc. Năm 17 tuổi, ngài đã đạt được hai tước vị: tiến sĩ giáo luật và tiến sĩ dân luật. Sau đó, Ngài hành nghề trạng sư. Một trạng sư trẻ, nổi tiếng và hầu như chưa thua một vụ kiện tụng nào. Cho đến một ngày kia, trong một vụ kiện, An Phong đã nắm chắc phần thắng trong tay; nhưng ai ngờ kết quả hoàn toàn trái ngược, thân chủ của ngài bị xử thua, bởi vì vụ kiện đã được quyết định bởi vị thẩm phán trước khi phiên tòa bắt đầu.

Sau khi thua cuộc, theo như sử liệu ghi lại, An Phong đã tự nhốt mình 3 ngày trong phòng. Sau đó, ngài đi thăm các bịnh nhân mang các chứng bịnh nan không có thuốc chữa như bịnh Si-da ngày nay. Trong thời gian phục vụ các bịnh nhân, An Phong nhận được ánh sáng của Thiên Chúa trong một thị kiến yêu cầu ngài từ bỏ con đường vinh hoa của thế gian để phục vụ Hội Thánh và vinh quang của Thiên Chúa.

Như vậy biến cố thua kiện được coi như một dấu chỉ mở đầu cho một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa của An Phong. Từ dấu chỉ đầu tiên như ngôi sao dẫn đường đó, An Phong nhận ra một sự thật là Thiên Chúa đang chờ ngài. Ngài đã lên đường tìm kiếm, không chỉ qua việc sống thân mật với Thiên Chúa mà thôi,  mà còn nhìn thấy Chúa qua việc phục vụ bịnh nhân nữa. Tất cả nói lên nỗ lực tìm kiếm để đi đến một quyết định thay đổi cuộc sống của Ngài. Ngài đã hiến thân phục vụ Hội Thánh và sau này qua việc gặp gỡ dân nghèo tại Scala, An Phong, lúc đó đã là một linh mục, tiến thêm một bước quan trọng khác, không chỉ làm thay đổi đời ngài mà còn làm thay đổi bao thế hệ con cháu của ngài sau này nữa, đó là việc thành lập một Hội Dòng chuyên lo việc rao giảng và phục vụ người nghèo, đó là Dòng Chúa Cứu Thế. Nói gì thì nói, việc thua kiện vẫn là biến cố đầu tiên đánh động và làm thay đổi vận mạng của Cha Thánh An Phong.

Cuộc đời của chúng ta cũng thế, đã có những cuộc gặp gỡ để lại dấu ấn và những kỷ niệm khó phai mờ. Lại có những người nhận ra hướng đi mà Thiên Chúa muốn họ thực hiện chỉ sau một lần tĩnh tâm. Đã là con người, chúng ta sẽ phải đối diện với những khoảnh khắc như thế. Dù cho tiến trình tìm kiếm và biện phân khó khăn và dài đến đâu, chúng ta cũng cần có quyết định sao cho phù hợp với lối sống của chúng ta.

Một người đàn ông đã lập gia đình, lại vô tình gặp phải một mối quan hệ với bạn đồng nghiệp tại nơi làm việc khiến cho mối tình chung thủy mà anh đã hứa với vợ anh có thể bị đe dọa. Trong giây phút đó, anh biết mình sẽ phải làm gì để làm chứng cho lời hứa mà đem lại hạnh phúc cho gia đình của mình.

Lại có một nam tu sĩ kia, sau khi đã tuyên khấn và đi thực tế để học thêm kinh nghiệm cho đời tu. Trong thời gian đó, thầy đã gặp một cô thiếu nữ đang cần sự giúp đỡ. Và dĩ nhiên, với một con tim nhậy cảm, tấm lòng chạnh thương trước những khó khăn mà cô đang gặp phải, thầy tận tâm lo lắng cho cô. Cho đến một hôm kia, thầy nhận ra rằng mối quan hệ của họ không còn thuần túy là mối liên hệ giữa một hướng dẫn viên và một người đang cần được hướng dẫn nữa. Mối quan hệ, tuy chưa có gì là sai trái, nhưng dường như đã hơi vượt qua ranh giới. Thầy hồi tâm và biết mình cần phải làm gì. Thầy cần có quyết định!

Hầu hết tất cả mọi quyết định đều đòi hỏi lòng hy sinh. Tuy nhiên, chúng ta vẫn hy vọng rằng quyết định và sự hy sinh của chúng ta dành cho nhau sẽ đem đến hạnh phúc và giá trị lâu bền. Chúng ta hướng về tương lai và mong chờ nhiều cơ hội mới sẽ diễn ra với những giải pháp thật tốt đẹp đang chờ đợi. Như vậy, thời gian này cũng thật thú vị. Đó là thời gian của sự khởi đầu mới.

Đức Giê-su cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Trong cuộc đời của Người thì biến cố lĩnh nhận phép rửa hôm nay đánh dấu một bước ngoặt lớn. Nó có thể được coi như là sự kiện kết thúc quãng đời ẩn dật và báo trước cuộc sống công khai của Người.

Anh chị em thân mến,

Trong thời gian qua chúng ta đã mừng kính mầu nhiệm “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” qua thân phận của một hài nhi trong Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Ngày hôm nay, qua việc dìm mình trong nước tại dòng sông Gióc-đan, Đức Giê-su hoàn toàn đi vào thế giới của chúng ta. Người hòa nhập và lớp tội nhân và nên một giữa chúng ta. Giữa Người và chúng ta không có một rào cản nào. Đức Giê-su không chôn mình trong hoang địa, không xa lánh thế trần, nhưng là người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Qua hành động dìm mình vào trong nước hôm nay, Đức Giê-su đã chứng tỏ cho chúng ta thấy tình thương và sự hiệp thông mà Người đem đến. Đức Giê-su đã nên một với con người, và mời gọi chúng ta trở thành một với Người, trong cùng một phép rửa mà Người sẽ trải qua và ban cho chúng ta sau này.

Biến cố Đức Giê-su đón nhận phép rửa bởi Gio-an tẩy giả hôm nay không phải là bí tích rửa tội mà Đức Giê-su có ý định thành lập bởi máu của Người, đem đến cho chúng ta ơn tha tội. Phép rửa của Gio-an giục lòng sám hối. Chính vì điểm này, sẽ có một vài ý nghĩ cho rằng tại sao Đức Giê-su lại đón nhận phép rửa. Việc này chỉ dành cho những người tội lỗi thôi. Cho dù Đức Giê-su đã trở thành người phàm giống chúng ta mọi sự, hẳn nhiên ngoại trừ tội lỗi. Không có tội thì tại sao Đức Giê-su lại để cho Gio-an tẩy giả rửa. Đó cũng là suy nghĩ của Gio-an tẩy giả. Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã đưa ra câu trả lời thật đơn giản như sau: hãy cứ làm như thế để ‘giữ trọn đức công chính.’

Sau khi đón nhận phép rửa bởi Gio-an, và lúc Người vừa bước từ dưới nước lên thì tầng trời mở ra, Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống và ngự xuống trên Người và những người chung quanh. Và chính bởi quyền năng của Thánh Linh mà Người đã đem nền công chính đích thực của Thiên Chúa xuống cho nhân loại qua sứ vụ của Người. Thời đại của ân sủng được khai mạc. Con người được tặng ban những ơn cần thiết. Như một phàm nhân, Đức Giê-su đã phục hồi phẩm giá của con người. Mọi người đều được tôn trọng và đối xử thật công bằng. Ai ai cũng cảm nhận được tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa. Một nền hòa bình vĩnh cửu được hiển trị nói lên triều đại công chính của Thiên Chúa đã hiện diện nơi sứ vụ mà Đức Giê-su khai mạc qua phép rửa của Gio-an hôm nay.

Cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay còn là cơ hội để ta suy tư về chính ơn thanh tẩy mà ta lĩnh nhận. Đây không là nghi thức công nhận ta trở thành người theo Chúa. Nhưng, là khởi đầu của một hành trình trải dài trong cuộc sống.  Trong bí tích rửa tội chúng ta được mời gọi bước vào một hành trình không có đoạn kết. Phép rửa mời gọi ta dấn bước theo chân Chúa. Vì thế, chúng ta quyết tâm canh tân, làm mới điều chúng ta tin và mạnh dạn làm chứng hành trình theo Chúa của chúng ta. Có nghĩa là trên hành trình đó, chúng ta chỉ mong ước thưc hiện ý Chúa mà thôi.

Tóm lại, theo Chúa, hợp tác với Chúa trong việc đem tin vui đến cho người khác là sứ vụ mà chúng ta cần được hâm nóng trong Thánh lễ chịu phép rửa hôm nay, đánh dấu ngày khai mạc sứ vụ của Đức Giê-su, Đấng đã đến dìm mình dưới nước của dòng sông Gióc-đan để kéo chúng ta lên và bước đi với sứ vụ của Người luôn mãi. Amen!



Friday, 3 January 2020

VỚI CHÚA KHÔNG AI LÀ NGƯỜI NGOÀI CUỘC.



Hôm nay là Lễ Hiển Linh. Lễ mừng việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hành trình tìm kiếm của ba vua, đại diện cho muôn dân muôn nước đến để triều bái Vua dân Do Thái. Tuy nhiên, căn cứ vào các giải thích của các nhà chú giải Thánh Kinh, chúng ta được biết chẳng có vua chúa trần gian nào đến bái thờ hài nhi Giêsu hết, ngoại trừ Vua Hê-rô-đê, sau khi bị lừa đã ra lịnh tiêu diệt hài nhi Giê-su, bằng cách sai người đi giết các trẻ em trong vùng Bê-lem và lân cận, từ hai tuổi trở xuống!

Vậy, ai là những người đã đến từ Phương Đông để tôn thờ Hài Nhi? Họ là các nhà chiêm tinh, chuyên nghiên cứu thiên văn và nhìn ngắm sao trời để đoán ra vận mạng của môt số người nổi tiếng. Tuy hành trình và mục tiêu kiếm tìm của họ đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và noi gương. Nhưng việc hệ trọng mà Thánh sử muốn ghi lại không phải là con đường tìm kiếm của các nhà chiêm tinh; nhưng đó là sứ điệp Thiên Chúa làm người và việc tỏ bầy cho muôn dân biết về sự thật này là điều quan trọng mà chúng ta cần ghi nhớ.

Vì thế, trong lễ Hiển Linh, chúng ta nhận ra chiều kích tràn đầy của việc Giáng Sinh. Giáng Sinh dù thế nào vẫn chỉ là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho dân Ít-ra-en, dân riêng của Ngài. Với Lễ Hiển Linh, mầu nhiệm đó đạt đến mức toàn diện. Thiên Chúa sinh ra làm người và tỏ mình cho muôn dân muôn nuớc, dĩ nhiên bao gồm cả chúng ta nữa. Việc tỏ mình là sáng kiến của Thiên Chúa, không ai có thể yêu cầu hay buộc Ngài phải làm chuyện đó. Sáng kiến này phát sinh từ kho tàng ân huệ của Thiên Chúa.

 Tuy nhiên, con đường tìm kiếm của các nhà chiêm tinh cũng đáng cho chúng ta phải suy nghĩ. Họ đã không nhận ra sự xuất hiện của Thiên Chúa bằng truyền thống, hay tìm ra Chúa qua mớ giáo lý kinh điển do cha ông truyền lại. Thiên Chúa đã đến trong hoàn cảnh, lối sống và khả năng chuyên môn của họ. Ngài đã xuất hiện ngay trong tầm nhận biết của họ. Họ là các nhà chuyên môn nghiên cứu về các vì sao, biết về nhiệm vụ, cách vận chuyển và ý nghĩa của các vì sao. Thiên Chúa đã dùng các vì sao để mời gọi họ lên đường. Các vì sao giống như những ý tưởng giúp cho họ định hướng và lên đường. Tất cả chỉ là những dấu chỉ nói lên một sự thật bên trong là họ khao khát tìm kiếm Thiên Chúa để thỏa mãn nỗi ước mong của họ. Thật vậy, chính niềm khao khát này thúc đẩy họ tìm kiếm và trong lúc kiếm tìm thì họ lại được thôi thúc cho đến khi thành toàn.

Nói thì như thế, nhưng hành trình tìm kiếm của họ không dễ dàng. Dù có ngôi sao dẫn đuờng, nhưng ngôi sao lại có lúc ẩn lúc hiện. Cũng có lúc các ông bị mất dấu; không phải do các ông đi lạc; nhưng ngôi sao không xuất hiện thì biết lối nào để đi. Trong hoàn cảnh đó, họ không hề thất vọng; tiếp tục tìm kiếm bằng cách dò hỏi những ai đã đuợc tiên báo về sự xuất hiện của con trẻ Giê-su. Đó là các thượng tế và kinh sư của đạo Do Thái, dân riêng của Chúa; nắm giữ trong đầu các lời loan báo của các ngôn sứ về nơi chốn của vị lãnh tụ, đấng chăn dắt dân của Thiên Chúa sẽ ra đời. Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó biết theo kinh điển mà không hề cất bước đi tìm nên cái biết của họ đã chẳng giúp gì cho họ. Vua Hê-rô-đê cũng biết; nhưng điều mà vua biết không đem vua lại gần Chúa; trái lại cái biết đó lại là nguyên nhân đem đến cho vua nỗi lo sợ. Phát sinh từ nỗi sợ hãi hoang tưởng, sợ mất quyền hành; vua đã tìm cách tiêu diệt bằng cách giết lầm hơn bỏ sót, ông ta đã giết hết những ai là mầm mống đe doạ sẽ lật đổ ngai vàng của ông.

Việc Hiển Linh khởi đầu qua việc sinh ra của Hài nhi Giê-su và trở nên trọn vẹn khi Đức Giê-su đã cho đi tận cùng cuộc sống của mình. Chính việc cho đi và tự hiến sau cùng của Người lại là cuộc tỏ mình huy hoàng nhất về chân tuớng đích thật của Người qua biến cố Phục Sinh. Vào ngày đó, con người của Đức Giêsu được bao phủ trọn vẹn thần tính của Thiên Chúa. Và chính nhờ ơn Phục Sinh mà chúng ta nhận ra thần tính của Đức Chúa. Các môn đệ là nhân chứng về cuộc Hiển Linh Phục Sinh. Niềm tin của chúng ta hôm nay cũng dựa vào lời chứng của các tín hữu tiên khởi; đó chính là: Thiên Chúa đã tỏ mình trong thân phận con người của Đức Giêsu, Người đã ở giữa chúng tôi và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người từ Chúa Cha mà đến.

Như vậy, qua trình thuật Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân muôn nước biết rằng: với Chúa không ai là người ngoài cuộc hết. Tất cả đều được mời gọi đón nhận và làm chứng về ơn cứu độ. Ai ai cũng đựợc diễm phúc làm con của Ngài. Ai ai cũng đuợc mời gọi sống để tỏ bầy sự hiện diện của Thiên Chúa. Và một khi đã gặp gỡ Thiên Chúa, con người có nhiệm vụ loan báo và làm cho cuộc gặp gỡ đó  trở thành hiện thực trong hành trình niềm tin và cách sống đạo của chúng ta. Đây chính là hồng ân và sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.

Thưa anh chị em,

Vẫn biết rằng Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta là một hồng ân được tặng ban nhưng không và là sáng kiến của Thiên Chúa; nhưng việc Thiên Chúa tỏ mình không làm cho vinh quang của Thiên Chúa được tỏa sáng hơn, mà là vì lợi ích của chúng ta. Ánh sáng vẫn có đó, nhưng một khi con người cứ nhắm mắt lại thì ánh sáng dù có cũng như không. Vì thế, việc tìm kiếm Chúa, dù trong thân phận của hài nhi Giê-su hay trong thân xác của một Đức Chúa Phục Sinh, đều là nỗi khát vọng của con người. Muốn được thỏa mãn và đạt được khát vọng này, chúng ta phải đi tìm.  

Nói đến chuyện tìm kiếm khiến tôi nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và các môn đệ đầu tiên. Người đã hỏi họ rằng “các ông tìm gì?” Thật là một điều ngạc nhiên cho chúng ta khi nghe họ hỏi lại: “Thầy ở đâu?” Câu hỏi của họ có thể diễn giải rộng như Thầy ở đâu để chúng tôi có thể tiếp cận và chia sẻ cuộc sống với Thầy? Đứng trước yêu cầu chính đáng của họ, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ; Người lại mời họ “Hãy đến mà xem”. Chúa không chỉ cho họ đi đến đâu và xem cái gì? Người chỉ nói “Hãy đến mà xem”. Một lời mời gọi thách thức niềm tin của họ. Họ tin Thiên Chúa sẽ dẫn họ đi đến chỗ Thiên Chúa muốn và xem điều Thiên Chúa tỏ bầy. Có nghĩa là Người mời gọi họ tín thác vào lối sống của Người mà họ sẽ được xem thấy. Họ cần dấn thân, chia sẻ cuộc sống và buớc đi với Người, cùng Nguời đi trên các nẻo đường khác mà đến với mọi người, qua đó họ sẽ được xem thấy Chúa.

Cách thức mời gọi như thế lại được tìm thấy trong hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh trong bài Tin Mừng mà chúng ta nghe hôm nay. Họ đã được dẫn đường chỉ lối không chỉ bằng ánh sao lúc ẩn lúc hiện; nhưng còn qua miệng của Vua Hê-rô-đê: người đã toan tính hãm hại Chúa. Thiên Chúa hay thật, dùng cả người tính hãm hại con mình để dẫn lối chỉ đường cho người khác!

Có trăm phương nghìn cách Thiên Chúa dùng để nói với con người. Mỗi người là một cá thể riêng biệt. Và có bao nhiêu cá thể thì có bấy nhiêu cách qua đó Thiên chúa không ngừng dùng để tiếp cận với ta. Và có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu vì sao Thiên Chúa dùng để soi dẫn mở đường cho ta nhận biết và vâng nghe tiếng Ngài.

Tóm lại, Thiên Chúa thăm viếng và nói với chúng ta bằng tiếng nói của người con, Đức Giê-su. Lời của Người không ép buộc ai, và những ai đã nghe lời Chúa thì không thể cưỡng lại ý Chúa được. Một cách đặc biệt, qua mầu nhiệm Nhập Thể, và để tỏ mình ra, Thiên Chúa, một cách khiêm tốn, ẩn mình trong những từ ngữ và tiếng nói của con người. Không ai có thể nghe được Thiên Chúa nếu người ấy tự khép mình lại, xa lánh những người khác, chọn một cuộc sống đơn độc.

Sống với Đức Giêsu, chia sẻ mối thâm tình của Người sẽ đem đến cho ta niềm vui, để rồi lại đến lượt chúng ta là những chứng nhân mời gọi người ta đến chia vui với mình. Vẫn biết bổn phận của người môn đệ là như thế, nhưng liệu chúng ta có dám nói với những người trong cộng đoàn, xóm giáo, gia đình của chúng ta là hãy đến mà xem cuộc sống ‘tỏ mình’ của chúng ta rồi qua đó họ sẽ thấy Chúa không? Thật sự, đây là một thách đố cho chúng ta là các môn đệ của Chúa, không phân biệt giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân. Tất cả đều đuợc mời gọi để sống thân tình với Chúa và đủ can đảm để tuyên xưng với nhau rằng “Hãy đến mà xem lối sống biểu lộ tình thương của chúng tôi dành cho nhau đến dường nào.”