Trong bài Tin Mừng tuần trước, Thánh Gio-an đã thuật lại cuộc
gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ xứ Sa-ma-ri-a. Chúng ta học nơi người phụ
nữ niềm xác tín rằng cuộc sống con người thuộc về Chúa, và chỉ có Chúa mới lấp
đầy nỗi khát vọng của chúng ta mà thôi.
Hôm nay, Đức Giê-su và các môn đệ đang ở Giê-ru-sa-lem để
tham dự lễ Lều tạm. Trong ngày bế mạc của tuần đại Lễ, Đức Giê-su đã loan báo:
Ta là ánh sáng thế gian. (Ga 8:12). Điều này gây ra cuộc tranh cãi giữa Đức
Giê-su với các nhà lãnh đạo tôn giáo và đại diện là những người Pha-ri-sêu. Sau
cùng họ tính ném đá Người, nhưng Đức Giê-su đã lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.
Trên đường đi ra, Đức Giê-su và các môn đệ nhìn thấy người mù
từ lúc mới sinh. Anh không phải là người mù duy nhất hiện có mặt tại
Giê-ru-sa-lem. Anh là kẻ mù như những người mù và những người tàn tật khác ngồi
ăn xin bên vệ đường để đợi chờ sự bố thí và lòng thương xót của khách hành
hương. Họ không thể vắng mặt vào các dịp lễ hội như thế này!
Anh là kẻ bị ruồng bỏ! Anh và người phụ nữ xứ Sa-ma-ri-a cùng
một thân phận. Họ bị coi thường đến nỗi ngay cả tên của họ cũng không ai biết.
Nhưng nhờ vào chi tiết này, chúng ta có thể đồng hóa mình vào câu chuyện một
cách dễ dàng. Bởi vì, họ có thể là những nhân vật biểu tượng để ám chỉ các tín
hữu thời sơ khai và chúng ta ngày nay, những người đang khao khát tìm nguồn nước
hằng sống, những người đang mò mẫm để được nhìn thấy ánh sáng.
Người mù chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt của chính mình,
khuôn mặt của cha mẹ anh. Anh là một con người sống như không sống, anh hiện diện
mà làm như chưa từng có mặt. Anh là một ngọn đèn chưa bao giờ được tỏa sáng, một
tiếng nói chưa bao giờ được thốt ra khỏi miệng. Dân chúng và khách hành hương đi ngang qua cho dù đã
nhìn thấy hình hài của anh, mà sự thật chẳng ai thấy anh ta ra sao!
Tuy nhiên chúng ta nên biết rằng: anh bị mù nhưng tai anh
không điếc, anh vẫn con nghe thấy các biến chuyển xẩy ra chung quanh anh. Mũi
anh vẫn còn ngửi và phân biệt được sắc hương. Người ta gọi anh là người mù; nhưng
chưa hẳn anh đã không biết gì!
Trước ngày hôm nay, người mù ngồi đó không nhìn thấy ai và người
ta cũng không nhìn thấy anh như một tạo vật của Thiên Chúa. Anh có mặt như chưa
bao giờ tồn tại. Anh chưa bao giờ thấy ánh sáng của mặt trời cho đến hôm nay!
Hôm nay, với Đức Giê-su, người mù từ lúc sinh ra đã trở thành
một tạo vật mới, một bằng chứng sống để tôn vinh Thiên Chúa; nhưng cho dù như
thế những người hàng xóm, hàng ngũ lãnh đạo và thậm chí cha mẹ anh vẫn không
nhìn ra sự thay đổi nơi anh!
Anh hay họ, ai bị mù?
Các môn đệ nhìn anh và thấy một câu hỏi thần học: thưa Thầy,
ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? Tầm
nhìn của họ đã bị bóp méo bởi họ tin rằng đau khổ, bịnh tật và sự chết là hậu
quả của tội lỗi. Đức Giê-su không chỉ đáp trả bằng lời nói khi công bố ‘Ta là
ánh sáng thế gian’ mà cả bằng hành động; đó là làm cho người mù từ thủa mới
sinh được nhìn thấy. Đức Giê-su đã làm dấu lạ này để bộc lộ vinh quang của Người.
Sau khi làm cho người mù được sáng mắt, Đức Giê-su biến mất,
nhường lại vị trí cho người vừa được sáng mắt có cơ hội bảo vệ và tuyên xưng niềm
tin của ông về những điều mà ông đã cảm nhận, đã thấy và sẵn sàng tuyên xưng.
Ông đã trở nên tạo vật mới. Từ trước đến giờ ông chưa nhìn thấy điều gì; đây là
lần đầu tiên ông nhìn thấy ánh sáng. Ánh sáng thể lý mà ông ta vừa được sáng tạo
là bước đầu dẫn ông nhận ra nguồn sáng thiêng liêng mà ông nhận được từ Đức
Giê-su, Đấng đã lấy bùn làm thuốc dẫn sai anh đi và anh đã đi, đã rửa và đã
nhìn thấy.
Khi trả lời cho những người hàng xóm của mình, người vừa được
sáng mắt quả quyết rằng chính tôi là người mù bẩm sinh, và tôi xin làm chứng rằng
có người tên là Giê-su, đã bôi bùn vào mắt tôi, sai tôi đi rửa tại hồ Si-lô-ác.
Tôi đã làm theo lời Người dậy bảo và tôi đã nhìn thấy. Hiện giờ tôi vẫn không
biết Đức Giê-su đang ở đâu. Con đường đức tin của anh đã hé mở.
Trong khi đó, với những người láng giềng thì anh vẫn bị xem
như là người bị mù. Quả thật đây là hai hình ảnh trái ngược nhau: người vừa được
sáng mắt đã nhìn thấy, còn những người láng giềng không nhìn thấy diễn tiến của
sự việc, nên họ không nhận ra việc anh được sáng mắt. Họ tưởng là mắt của họ
sáng, nhưng thực ra họ không nhìn ra sự thay đổi mà Đức Giê-su đã làm cho người
mù, cho nên họ vẫn mù tối trong lối suy nghĩ và cái nhìn bị đóng khung của họ.
Sau đó, anh bị dẫn đến trình diện những người lãnh đạo tôn
giáo, thuộc phái Pha-ri-sêu. Hai lần họ thẩm vấn anh. Hai lần anh đã làm chứng và
tôn vinh Thiên Chúa. Anh đã dõng dạc trả lời cho họ biết rằng “Đức Giê-su là một
ngôn sứ.” Một bước tiến trên hành trình đức tin của anh được tỏ hiện khi tuyên
xưng Đức Giê-su là ngôn sứ. Trong khi đó, mắt của những người Pha-ri-sêu vẫn bị
đóng kín bởi tín niệm dựa vào truyền thống của họ. Họ mù quáng vì đã chọn không
nhìn vào các dấu chỉ mà Đức Giê-su đã thực hiện. Họ đã chọn quyền lực, qui tắc,
truyền thống, tập tục và giai cấp để đối chọi với sự thật mà Đức Giê-su đem đến;
cho nên họ không nhận ra Người là Đấng Cha sai đến, là Ánh Sáng cho trần gian.
Ngay cả cha mẹ anh cũng không muốn xác nhận những gì đã xẩy đến
cho anh. Họ không muốn dính vào sự thay đổi mà con của họ vừa mới trải qua. Họ
chỉ muốn xác nhận về cuộc sống quá khứ của anh. Con của họ bị mù từ thủa mới
sinh. Họ không làm gì khiến anh mù. Còn những gì xẩy ra trước mắt thì họ chối
là không biết. Họ không dám làm chứng cho sự thật vì sợ bị trục xuất khỏi hội
đường. Điều này phản ảnh một thực tế đã xẩy ra cho Hội Thánh tiên khởi và có thể
cũng xẩy ra cho cộng đoàn của Gio-an, đó là những ai tin vào danh Đức Ki-tô thì
bị trục xuất khỏi hội đường.
Nói chung, tất cả mọi người, ngay cả cha mẹ anh, đến những
người hàng xóm và những người lãnh đạo tôn giáo thời đó, đã nhìn nhưng không ai
thấy anh. Nếu họ thấy anh thì họ sẽ phải đối diện với sự mù quáng của họ. Sự
khác biệt giữa anh và họ là người mù từ khi mới sinh biết mình bị mù, còn họ tưởng
mình sáng mắt nên họ phải trả lời cho đôi mắt không nhìn thấy của họ, như Đức
Giê-su đã phán dậy: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ
đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn.
Sau khi người mù vừa được sáng mắt bị trục xuất thì Đức
Giê-su, người đã bị trục xuất trước, đến gặp anh. Trong cuộc gặp gỡ này Đức
Giê-su bộc lộ căn tính của Người, lập tức vừa nghe đến đó anh vội vàng quỳ xuống
và tôn vinh Người. Anh đã thấy và anh đã tin Đức Giê-su, Người vừa ban ánh sáng
cho anh, là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa và để nhờ tin mà anh và chúng ta có sự sống
nhờ Danh Người. Anh đã đi đến đích điểm của lòng tin, trong khi đó những người
tự nhận mình là sáng mắt lại cứ sống trong u tối vì tự trói mình trong ‘sự khôn
ngoan’ của một hệ thống tôn giáo đóng kín của họ!
Thưa anh chị em,
Nhờ tin vào Danh của Đức Giê-su mà chúng ta có sự sống, chúng
ta được chiếu sáng. Nhưng trên thực tế, chúng ta vẫn còn đi trong bóng đêm, vẫn
còn sống trong mù lòa. Mù không phải vì tầm nhìn ngắn về mặt thể lý của chúng
ta. Mù cũng không phải về bóng tối xung quanh chúng ta, thật ra chúng ta mù vì
bóng tối trong ta che lấp mọi sự. Nó bao gồm cách chúng ta nhìn người khác và
những gì chúng ta nhìn thấy chung quanh mình. Chính vì thế nên chúng ta không
nhìn thấy Thiên Chúa, con người, sự vật hay hoàn cảnh như đã được xẩy ra như ý
muốn của Ngài khi tạo dựng chúng ta và vũ trụ này. Tất cả mọi sự Thiên Chúa dựng
nên đều tốt đẹp!
Nếu chúng ta muốn thấy Chúa, nhìn ra cuộc sống mình và những
người khác như họ thực sự hiện diện thì mắt chúng ta phải được Đức Ki-tô mở ra
trước. Chúng ta phải thay đổi, không chỉ nhìn bằng đôi mắt, mà bắt đầu tập nhìn
bằng trái tim nhân hậu mà Thiên Chúa đặt để trong mình.
Trước tiên hãy suy nghĩ và khám phá ra lối nhìn của mình?
Anh hay chị có biết độ nhìn của tôi tốt đến độ nào không? Tôi
nhìn chồng/vợ tôi tốt đến độ nhà tôi phải cảm phục về độ xác thực đó. Sau đó tôi
liệt kê một danh sách để giúp nhà tôi thay đổi. Nhưng sau đó tôi lại tự hỏi tại
sao tôi cứ phải là người như thế nhỉ? Tại sao lúc nào cũng phải là tôi?
Điều mà tôi muốn nói ở đây là đôi mắt của tôi nhìn người khác
và nhốt họ trong cách suy nghĩ của tôi, không phải là của họ. Vì thế, tôi tưởng
là tôi sáng mắt, thật ra tôi mù trong các nhận định thiếu xác thực và không mấy
phù hợp với hoàn cảnh và các diễn tiến xẩy ra trong cuộc sống của họ. Tôi cần
thay đổi!
Có lẽ tôi cần khám phá Đức Giê-su là ai trong cuộc sống của
tôi trước? Tôi có nhận ra tình yêu thương của Đức Giê-su trong tôi không? Bởi
vì nếu chúng ta không cảm nhận tình yêu của Người trong cuộc sống mình thì cách
cư xử của chúng ta giống như những người láng giềng, những người lãnh đạo, thậm
chí giống như cha mẹ của người mù mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm
nay. Họ không nhìn nhận các diễn tiến xẩy ra trong cuộc sống của ông.
Tất cả chúng ta đều bị mù trong cuộc sống. Và trong hoàn cảnh
bị mù lòa mà cứ tưởng mình sáng mắt, nên chúng ta dần dần đánh mất tình yêu, tiêu
hủy dần dần các mối quan hệ khi chúng ta sống trong sự cạnh tranh, luôn ước ao
chiếm vị trí đầu trong mọi công tác để tìm sự tán dương và khen thưởng nơi người
khác. Tôi bị sức ép của danh vọng, uy quyền và tiếng khen chi phối. Tôi lầm tưởng
rằng những gì chúng ta có được là do cố gắng và năng lực của bản thân mà quên
đi bao đóng góp, hy sinh của nhiều người đã gầy dựng và hình thành trong tôi. Trong
khi đó, bản thân tôi chỉ góp một phần rất nhỏ bé, thế mà tôi vẫn cứ lừa dối và
cho rằng kết quả đó là của mình.
Sau cùng, chúng ta hãy xin Chúa mở mắt để nhận ra sự hiện diện
của Đức Giê-su trong cuộc sống mình và có cái nhìn như cái nhìn của Chúa trong cách
cư xử với nhau. Amen!
No comments:
Post a Comment