Wednesday, 28 October 2020

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÊN THÁNH?


Hôm nay cùng với toàn thể Hội Thánh chúng ta mừng lễ các Thánh. Ngày của các Thánh, những người xuất thân và có cuộc sống bình thường như chúng ta. Ngày mà Thiên Chúa đem niềm vui, sự hân hoan và niềm hy vọng cho chúng ta. Ngày thắng trận khải hoàn của thân phận làm người. Làm người là lựa chọn đúng đắn để được làm Thánh.

Các Thánh đã xuất hiện qua từng thời đại, hiện diện tại mọi nơi, mọi chỗ và hiện đang hiệp thông trong niềm tin với mỗi người chúng ta. Hiển nhiên khi nói như thế, chúng ta tin rằng trong hàng hàng lớp lớp các Thánh đang ca ngợi Thiên Chúa trên chốn cửu trùng có tổ tiên, các bậc tiên nhân, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, bạn hữu, họ hàng thân thuộc của chúng ta, v.v…

Nói chung, các Thánh là những người đã đến và đi trước chúng ta, đã được đánh dấu bằng dấu ấn của niềm tin, đã vui lòng đón nhận sự thanh luyện qua các đau khổ, đã tiếp nhận và để cho ánh sáng và sự thánh thiện của Thiên Chúa chiếu soi từng ngõ ngách trong cuộc đời của các Ngài, đã được rửa sạch bởi con đường Thập giá và máu của Đức Ki-tô.

Các Thánh, đa số, thuộc về tầng lớp bình dân, có cuộc sống âm thầm, bình thường, thậm chí không mấy người biết đến. Điều quan trọng là mối dây hiệp thông giữa Chúa và các Thánh thật đáng ca tụng. Mọi thứ các Ngài có đều dành cho Đức Giê-su. Mọi thứ các Ngài có đều thuộc về Đức Giê-su. Mọi việc các Ngài làm, những điều các Thánh nói, lối họ cư xử đều được xuất phát từ Đức Giê-su. Nói chung, các Thánh đã vì Chúa, cho Chúa và với Chúa mà sống. Chúa và các Thánh là một. Vì thế, sau khi hoàn tất ý định của Thiên Chúa thì hiện giờ các Thánh trở về với nguồn của sự thánh thiện, ở gần bên Chúa hơn chúng ta.

            Anh chị em thân mến,

            Giờ đây, đối diện với thực tế, mỗi người đều có bối cảnh, vị trí và cuộc sống tuy khác nhau, nhưng lời mời gọi nên Thánh thì giống nhau. Chúa chỉ đòi chúng ta thánh hiến và đáp trả cho Ngài những gì mà chúng ta đã lĩnh nhận. Nói khác đi, làm thế nào để nên Thánh?

            Đó chính là con đường mà Đức Giê-su đã dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay. Các mối phúc này trở nên hiện thực mỗi khi tai chúng ta nghe thấy chúng. Chúa nói với chúng ta ngay bây giờ, trong lúc này không phải là điều chúc phúc cho những người đã chết mà là hạnh phúc cho những kẻ đang sống. Vì thế mỗi khi tai chúng ta nghe được những lời này thì lòng chúng ta có cảm nhận được hồng ân và sự chúc phúc của Đức Giê-su hay không?

Người phán: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:3-12)

Lời Chúa trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe rất quen thuộc, quen đến độ chúng ta có thể quên đi tầm quan trọng và thách đố của nó. Rõ ràng, không mấy ai sống trong các hoàn cảnh cơ cực nói trên mà thấy hạnh phúc bao giờ. Thực tế cuộc sống nói với chúng ta như thế. Thế mà căn cứ theo Lời Chúa phán thì họ được hạnh phúc!

Thật ra, hạnh phúc mà Đức Giê-su nói ở đây không thuộc về quá khứ, cũng không chỉ dừng lại ở đây và trong lúc này. Nhưng hoàn cảnh mà họ đang chịu, cho dù không may mắn, lại là một khởi điểm cho những ai tin vào sự hòan thành của Nước Thiên Chúa đã được khai mạc bởi Đức Giê-su. Nói khác đi, những công dân trong Nước Thiên Chúa, chiến đấu với nhiều khó khăn trong hiện tại, bằng niềm tin họ hy vọng rằng sẽ được hạnh phúc khi Thiên Chúa khai mạc thời đại mới, thời đại của ân sủng nói lên một tạo dựng mới. Họ sống với niềm hạnh phúc như thế và đó là điều làm cho họ nên Thánh.

Nói tóm lại, niềm hy vọng mà họ có không chỉ đơn thuần nhắm đến hạnh phúc ngày sau hết trên Thiên Đàng. Nhưng ngay bây giờ, họ cảm nhận và hạnh phúc với các giá trị của Nước Thiên Chúa. Điều này đúng đối với những ai có tinh thần nghèo khó, biết nương tựa mọi sự vào Chúa, và hạnh phúc càng rõ nét hơn cho những ai có tấm lòng trong sạch, biết thương xót, dầy công trong việc xây dựng hoà bình, can đảm bị ngược đãi vì Danh Chúa Giê-su. Họ làm được như thế vì Đức Ki-tô đã thánh hóa họ.

Các Thánh đã không chỉ tuân theo và thực hành lời dậy bảo của Chúa trong bài giảng trên núi hôm nay, nhưng mỗi một vị Thánh, dù được Giáo Hội tuyên phong hay không, đều đã trở thành một mối phúc thật cho môi trường, hoàn cảnh mà họ đang sống.

Thật vậy, các Thánh của chúng ta không đặt mục tiêu trở thành một vị Thánh, thay vào đó các Ngài sống một cuộc đời tận tụy, dành thời gian để phục vụ Đức Chúa và giúp đỡ những người gặp khó khăn.

Họ là tất cả mọi người, trẻ và già, nghèo và giàu, kết hôn và độc thân, người đàn ông khiêm nhu và người phụ nữ có tấm lòng cao cả và vĩ đại, trẻ em và người lớn, họ là những người đã để cho ánh sáng của Đức Ki-tô chiếu soi mọi ngõ ngách trong cuộc sống của họ.

Hôm nay, chúng ta ngước mắt nhìn lên các Thánh, không phải để ngưỡng mộ sự tốt lành của các Ngài cho bằng để tôn vinh sự thánh thiện của Thiên Chúa, Cha chúng ta, chính Ngài đã chiếu ánh sáng qua cuộc sống của họ. Và đồng thời, chúng ta có thể nhìn thấy chính mình ở trong hàng ngũ đó.

Khi mừng lễ các Thánh, chúng ta nhận được sự phù hộ, khích lệ và thúc đẩy của các Ngài. Chúng ta hãy vui mừng vì niềm hy vọng của chúng ta được đặt để trong sự chiến thắng của các Ngài. Bởi vì qua cuộc sống, các Thánh nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta được kêu gọi để trở thành người nam và người nữ thánh thiện của Thiên Chúa, những người sẵn sàng để ánh sáng và sự thánh thiện của Thiên Chúa chiếu tỏa và bao phủ cuộc đời mình, và qua đó thế gian nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng đã biến đổi thân xác phàm trần của chúng ta trở nên tinh tuyền và thánh thiện giống như thân xác sáng láng và vinh hiển của Ngài. Amen!

 


Wednesday, 21 October 2020

YÊU LÀ THẾ ĐẤY!


Như chúng ta vẫn thường biết, bất cứ một tổ chức hay một cơ cấu nào; nếu muốn tồn tại đều cần có những qui định để bảo vệ các sinh hoạt và duy trì sự phát triển của nó. Chúng ta thường gọi đó là Lề luật. Ngày xưa, qua ông Maisen, Chúa đã ban cho dân Do Thái các giới răn của Ngài. Từ những giới răn này, người Do Thái thường bàn bạc với nhau để tìm hiểu xem điều luật nào lớn và quan trọng nhất. Hôm nay, họ đến chất vấn Đức Giêsu. Và, Người đã nối kết hai điều luật lại với thành một. Ngài dạy họ và chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người là trọng tâm của cuộc sống.

Để minh họa điều này, chúng ta cùng nhau nghe một câu chuyện; truyện ấy như sau: Vào các thế kỷ đầu, ai muốn đi tu thì phải vào rừng vắng, sống hãm mình và chịu nhiều gian khổ để tôi luyện bản thân cho thành toàn. Vào một dịp tĩnh tâm hàng năm, cha Bề trên dẫn các thầy dòng của mình đi vào hoang địa để ăn chay, hãm mình, và mỗi người được chỉ định ở một lều riêng biệt cho dễ cầu nguyện. Đến giữa tuần, có một số thầy từ các tu viện khác đến thăm cha Bề trên. Để nói lên tấm lòng hiếu khách, cha đã nấu cho các vị một chút gì ăn cho bớt đói; và, cũng vì lịch sự, ngài đã cùng dùng bữa với ho. Trong khi đó, các thầy cùng dòng với cha bề trên, tuy có thể đang giữ chay, nhưng lòng lại không giữ. Vì thế, khi nhìn thấy khói bốc lên từ lều của cha Bề trên, các thầy có ý nghĩ là Bề trên của mình đã phá chay, nên ùn ùn kéo nhau đến để chất vấn!

Thấy các thầy dòng, nhất là qua thái độ và sắc mặt của họ, cha Bề trên nhìn thấu tâm trạng của họ, bèn ôn tồn hỏi: “Anh em đến đây thăm tôi hay là bắt lỗi tôi, tại sao các thầy cứ nhìn tôi trừng trừng như thế?” Họ trả lời: “Thưa cha, cha đã phạm luật giữ chay mà chúng ta tình nguyện tuân giữ.” Cha từ tốn nhìn các thầy rồi đáp: “Đúng là tôi đã vi phạm luật giữ chay. Tôi không giữ lề luật của chúng ta đã đặt ra, nhưng khi chia sẻ thức ăn với các thầy bạn thuộc tu viện khác, tôi đã sống luật của Thiên Chúa. Các thầy không nghĩ là Đức Yêsu cũng đã làm như vậy sao? Hỡi các thầy, đừng vịn vào lề luật để bắt bẻ hay làm khó nhau. Các thầy còn nhớ đến lời Chúa dậy: có hai giới răn quan trọng, chứ không phải chỉ có một mà thôi đâu. Chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn và yêu nhau như chính mình. Chúng ta không vào đây để trốn thế gian và sống một mình với Chúa. Nhưng chúng ta đến đây tìm Chúa và yêu thương nhau trong Chúa.”

Giống như các thầy dòng nọ, có lẽ chúng ta chỉ biết yêu mến Chúa qua việc chu toàn lề luật, siêng năng tham dự thánh lễ, ăn chay, kiêng thịt, đọc kinh cầu nguyện, hành hương để huởng ơn “toàn xá” và các công việc đạo đức khác mà quên mất đi việc làm để biểu lộ của Tình yêu. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà quên đi việc quan tâm, lo lắng và giúp đỡ nhau. Việc làm của chúng ta cho nhau là một bằng chứng hùng hồn của Tình Yêu mà chúng ta đạng lĩnh nhận.

Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa và tha nhân. Yêu Chúa như Chúa yêu người không phải là việc dễ dàng. Tuy nhiên, yêu tha nhân còn khó hơn bội phần. Vì, làm sao chúng ta có thể yêu được con người với đủ mọi khuyết điểm; và đôi khi họ còn được coi như những người trái ý và không cùng phe với chúng ta.

Kính thưa quí ông bà và anh chị em,

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời chúng ta đặt lại vấn đề căn bản: Đạo Công giáo là đạo gì? Đạo Công giáo không chỉ gồm tóm những điều khoản phải giữ; nhưng đó là đạo Tình Yêu, đó là con đường yêu thương. Đây không chỉ là bài học của Chúa hôm nay, nhưng chính là con đuờng Chúa đã đi qua.Vì thế, cách sống đạo của chúng ta không chỉ dựa vào chuyện đọc kinh ê a, dài dòng, hoặc tổ chức các chuyến hành hương, tụ họp biểu dương niềm tin tôn giáo; nhưng còn phải và nhất là: Hãy yêu thương nhau.

Lời Chúa phán trong bài Tin Mừng hôm nay còn chạm đến tận đáy lòng chúng ta. Vì thế muốn lĩnh nhận Lời Chúa hôm nay một cách triệt để và đúng đắn thì chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để cho Tình Yêu Chúa chiếm đoạt rồi tự khắc chúng ta sẽ yêu Chúa và yêu người như lòng Chúa mong ước.

YÊU ĐỂ SỐNG và SỐNG ĐỂ YÊU là cẩm nang của người môn đệ. Đơn giản nhưng khó sống!

Nhìn lại chuỗi kinh nghiệm sống, hẳn anh chị em đã trải qua những giây phút đang yêu. Lúc đó, anh chị tìm mọi cách để đến với nhau. Ngày nào không gặp mặt thì lòng cảm thấy bâng khuâng, nhung nhớ. Anh chị không thể ngồi đó mà chờ cơ hội. Nhưng, phải ra đi để tìm đến nhau, chiều chuộng và trao ban cho nhau những gì trân quý nhất. Các việc làm đó nói lên điều gì? Phải chăng, đó là hành động thể hiện việc anh chị yêu thương nhau.

Tuy nhiên, việc trước tiên mà anh chị cần làm là nhận ra đối tượng của tình yêu. Bởi vì, chúng ta không thể bảo rằng mình đang yêu nếu đối tượng mình yêu thật sự không hiện hữu, và đâu là sự hiện diện đích thật của người mình yêu? Họ là ai?

Đây là những câu hỏi vô cùng khó khăn mà chúng ta cần trả lời, không bằng chữ viết nhưng bằng các hành vi trong cuộc sống. Thật ra trong khi tìm kiếm đối tuợng để yêu thương, chúng ta lại trở về vấn nạn căn bản là ‘động lực nào thúc đẩy chúng ta yêu nhau’. Chính Tình yêu của Thiên Chúa là nguồn động lực duy nhất thúc đẩy tôi ra đi. Không ‘yêu Chúa’ thì cho dù có yêu nhau đến mức độ nào thì thứ tình yêu đó cũng khó bền vững. Chỉ ở trong Chúa và với Chúa thì tình yêu của chúng ta mới đi đến chỗ thành toàn và viên mãn.

Vì thế, thay vì đi tìm câu trả lời của vấn nạn đâu là giới răn quan trọng nhất thì chúng ta hãy chìm đắm trong Tình Yêu của Chúa, rồi tự khắc chính Tình Yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta buớc ra khỏi tháp ngà và các tiện nghi của cuộc sống để ra đi mà chia sẻ cho tha nhân, đặc biệt cho những ai không được bảo vệ, như đã được nói đến trong bài đọc một, họ là ‘các người di dân, góa bụa và trẻ mồ côi’.

Tại sao họ lại được Chúa quan tâm một cách đặc biệt như thế? Bởi vì, trong một bối cảnh mà các mối liên hệ trong gia đình, dòng tộc và giống nòi được coi là nền tảng để bảo vệ con người, mà những người trong các nhóm này lại mất đi yếu tố an toàn bảo vệ họ; như vậy nguy cơ bị đối xử tàn bạo và bị bóc lột dễ xẩy ra. Vì thế, Chúa mới yêu cầu chúng ta quan tâm đến họ nhiều hơn. Tuy vậy, họ vẫn chỉ là những hình ảnh tiêu biểu được nhắc nhở trong bối cảnh của thời đó. Thật ra, Thiên Chúa và tha nhân không còn là đối tượng xa vời tầm tay vươn tới của chúng ta. Ngài đã nhập thể mang thân phận con người. Ngài là anh, là chị, là tôi, là những người thân quen trong gia đình, tại các xóm giáo, nơi các nhóm cầu nguyện và đặc biệt hơn nữa, Ngài còn hiện diện nơi những người bị tổn thương, bị quên lãng và sống lây lất ở ngoài đường, gầm cầu và phố chợ.

Sau cùng là mức độ của lòng mến. Chúa đòi chúng ta yêu mến “hết” lòng và “hết” trí khôn là cho đi tất cả, là dâng hiến mọi sự. Trong ngôn ngữ của người Do Thái, các chữ “lòng”, “linh hồn” và “trí khôn” có nghĩa toàn bộ con người. Do đó, giới răn hôm nay có nghĩa là: “Hãy yêu mến Thiên Chúa và thương yêu nhau bằng tất cả con người mình, cho đi tất cả con người mình, dâng hiến toàn bộ con người mình.” Nói khác đi, trong Tình yêu thì không còn sự chia cách, không còn phân biệt giữa người này với người khác. Tất cả đều được hoà hợp trong Tình Yêu, nơi đó không còn biên giới, không còn hận thù, không còn tỵ hiềm hay chia rẽ; mà chỉ có hiệp thông, tha thứ và bình an.

Cầu xin cho nhau đạt được ước nguyện đó. Amen!

 

Tuesday, 13 October 2020

THUỘC VỀ THIÊN CHÚA

 Anh chị em thân mến,

Có một thực tế mà chúng ta dường như nên chấp nhận, đó là việc tham gia vào các công cuộc đổi mới ‘môi trường’ theo đúng tinh thần của Phúc Âm vẫn còn xa lạ với cuộc sống đạo của nhiều tín hữu. Chúng ta vẫn thờ ơ và tỏ ra thiếu quan tâm với những gì đang xẩy ra trong xã hội. Chúng ta có khuynh hướng chấp nhận việc tách rời tôn giáo ra khỏi cuộc sống của người công dân. Nói cách khác, cuộc sống của chúng ta có thể chia thành nhiều mảng. Việc thờ phượng và yêu mến Chúa dừng lại trong các nghi lễ và bị cầm tù tại các khuôn viên của nhà thờ. Khi tham dự nghi lễ xong, vừa bước chân ra khỏi nhà thờ thì chúng ta đã trở về với cuộc sống khác, một con người thuộc về trần thế. Với lối sống như thế, chúng ta dần dần sẽ thiếu nhậy cảm với những điều tạo ra các bất công, không nhìn thấy các nguyên nhân tạo ra cuộc sống giai cấp và thiếu công bình trong đời sống.

Như anh chị em đã biết: công việc xây dựng và mở mang Nuớc Chúa không chỉ lệ thuộc và giới hạn bởi các việc làm trong các nghi thức phụng tự, như đọc kinh, tham dự những cuộc hành huơng, Thánh lễ hay các công việc đạo đức mà thôi. Nhưng đó cần bao gồm cả đời sống. Chúng ta không thể phân chia đời sống của chúng ta thành nhiều mảnh: như theo đạo rồi quên đời, theo Chúa rồi bỏ thế gian. Không phải vì yêu thuơng thế gian mà Thiên Chúa đã sai người Con duy nhất của Ngài đến thế gian đó sao! Và nhờ vậy, mà thế gian đã được cứu độ. Vì thế, cả hai mặt ‘đạo và đời’ cần được gắn bó với nhau. Và đó là điểm mà chúng ta cần lưu tâm trong lúc suy niệm bài Tin Mừng hôm nay.

 Trước tiên, chúng ta cần ghi nhận một điều là con người thường có khuynh hướng bắt tay với nhau để chống lại kẻ thù chung, đúng như câu mà chúng ta thường được nghe nói rằng “kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta!” Và hôm nay, trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đã gặp phải tình huống đó. Những người thuộc nhóm Hê-rô-đê, là những người có địa vị trong guồng máy của đế quốc La-Mã và nhóm Pha-ri-siêu, họ nghiêm chỉnh trong việc tuân giữ luật lệ Do Thái. Tuy hai nhóm người này là đối thủ của nhau, nhưng hôm nay họ liên kết với nhau để cố gắng làm mất uy tín của Đức Giê-su hầu tiêu diệt Người.

Trước khi đặt câu hỏi, họ tán dương và ca tụng Đức Giê-su là Người tôn trọng sự thật, là Đấng chỉ bảo đường lành, là Thầy dậy đường công chính. Những lời ca tụng của họ không phát sinh từ ý ngay lành cho bằng bộc lộ ác ý để gài bẫy Người. Họ dương dương tự đắc và nghĩ rằng Đức Giê-su sẽ bị bí với câu hỏi mà họ nghĩ rằng rất phức tạp, đó là “có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Nếu câu trả lời của Đức Giê-su là “không” thì nhóm người thuộc nhóm Hê-rô-đê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn qua việc không nộp thuế cho đế quốc La-Mã. Còn nếu Đức Giê-su trả lời "có" thì những người phe Pha-ri-siêu sẽ thừa dịp này mà tố cáo Chúa là người thân với chính quyền bảo hộ, hà hiếp và bóc lột dân chúng. Người không xứng đáng là người lãnh đạo tôn giáo (vì không làm theo ý của họ!)

Theo như cách suy nghĩ và lối suy luận của họ thì Đức Giê-su chắc chắn bị rơi vào bẫy. Người sẽ không còn đường thoái thác. Đức Giê-su không còn chọn lựa câu trả lời nào khác, ngoại trừ có hay không. Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Đường nào cũng dẫn Đức giê-su vào ngõ cụt. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu làm cho cả hai nhóm không bắt bẻ được Người, đồng thời Đức Giêsu còn nhắc cho họ biết sự thật đã được mạc khải từ khi tạo dựng đó là con người thuộc về Thiên Chúa thì hãy trả lại cho Ngài những gì mà Thiên Chúa đã dựng nên. Còn những gì mà họ đang nhìn thấy trước mắt thì hãy trả cho Xê-da.

Anh chị em rất thân yêu,

Chúng ta hãy ngồi xuống mà suy nghĩ rồi nghiêm túc nghiệm lại xem có một vật gì hay một thứ gì hiện diện trong trời đất này mà không thuộc về Thiên Chúa hay Thượng Đế hay chăng? Thiên Chúa đã tạo dựng nên mọi sự từ hư không, và đỉnh cao của chương trình tạo dựng của Thiên Chúa là con người, con người là “hình ảnh Ngài.” Sự sống đang luân chuyển trong ta đã được diễn tả qua việc thổi hơi, ban sự sống, trao sinh khí cho con người. Vì thế không có gì chúng ta có được mà không phát sinh và ban tặng từ Ngài.

Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Thiên Chúa những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ bất trung. Một khi, chúng ta chiếm mất vị trí của Thiên Chúa, tự mình làm chủ, lấy mình làm tiêu chuẩn cho mọi phán đoán, bộc lộ tính kiêu ngạo và hất Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình và tha nhân thì chúng ta sẽ chuốc lấy tranh chấp, hận thù, bạo lực và hủy diệt mà thôi

Vì thế, bao lâu con người không nhìn nhận Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Chủ tể của mình, không qui hướng tất cả những gì con người có được về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, không cảm nhận lòng thương xót và tính quảng đại của Thiên Chúa đang hoạt động trong ta thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản, không thể nào xây dựng một xã hội hiệp nhất và an bình, trong đó mọi người yêu thương, kính trọng và mến mộ nhau như anh chị em trong gia đình có Thiên Chúa là Cha, đó là ý của câu trả lời của Đức Giê-su: trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hơn thế nữa, khi nói điều này, Đức Giê-su không có ý đưa ra một nguyện tắc chia quyền ‘Chúa một nửa, vua một nửa’, hay là phần thiêng liêng thì thuộc về Chúa, còn phần đời thuộc về vua. Người cũng không tranh dành uy quyền với các vị vua trần gian; bởi vì uy quyền tối thuợng và vững bền qua muôn thế hệ thuộc về Thiên Chúa; còn các vị vua, ông chúa, bà hoàng hay các vị thủ lĩnh trên thế gian đều là những người thừa hành; họ nối tiếp nhau cai trị thiên hạ; nhưng có ông vua hay bà chúa nào trường tồn quá một trăm năm đâu! Chỉ có uy quyền của Thiên Chúa mới tồn tại qua muôn thế hệ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể bán cái và trả lại trách nhiệm trông coi và xây dựng vũ trụ này cho Thiên Chúa.

Trong khi thi hành sứ vụ mà chúng ta gọi là truyền giáo, giới thiệu và mở mang Nước Chúa, Đức Giêsu đã tỏ bầy cho chúng ta nhận biết về một Thiên Chúa không chỉ ở trên cao, nhưng Ngài đang đồng hành với cảnh ngộ và cuộc sống của từng người. Người nhập thể và chia sẻ mọi tình huống của con người: ai đau ốm Người chữa cho lành; ai gặp hoạn nạn, Người thuơng cứu giúp; ai đói khát, Người nuôi ăn; ai tội lỗi, Người ban ơn tha thứ; thậm chí Người hồi sinh cả kẻ đã chết… Người chu toàn mọi sự trong mọi người. Nhưng, có một điều thật rõ ràng là Đức Giêsu không làm thay chúng ta. Người trao và mời gọi chúng ta tiếp tay. Người không thể cứu giúp và làm cho mọi bịnh nhân thuộc mọi thời đại khác nhau được chữa khỏi; Người cũng chẳng làm cho mọi người đói, thuộc về các thời đại khác nhau được no nê. Đó là phần vụ của con người ở các thời đại khác nhau.

Do đó, khi chúng ta tiếp cận người nghèo, đến với những người bị bỏ rơi, tiếp đón những người bị khước từ là lúc chúng ta đang cố gắng hết sức để cho Thiên Chúa họat động trong toàn bộ, cũng như trong mọi lãnh vực của cuộc sống chúng ta.

Vì thế, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, không chỉ được thu gọn trong việc đóng thuế xây dựng quốc gia nơi chúng ta đang sống hay là việc mở mang Nuớc Chúa. Nhưng, qua cuộc sống, chúng ta thực hiện để cho Thiên Chúa trở nên mọi sự trong chúng ta. Và, chúng ta, cũng như mọi sự của chúng ta, đều thuộc về Ngài. Hơn thế nữa, chúng ta hãy sống mà trả lại cho Ngài, không chỉ quan tiền của Xê-da, mà còn là mọi sự của chúng ta nữa. Amen!

 

 

Tuesday, 6 October 2020

SỰ CÓ MẶT LÀ QUÀ TẶNG CHO NHAU


Thưa anh chị em,

Có một điều mà chúng ta nên đồng ý với nhau, đó là lối kể truyện của Đức Giê-su thật đặc biệt. Các câu chuyện Người kể trong các dụ ngôn có sức mạnh khiến chúng ta phải suy nghĩ, chấp nhận thách đố và thay đổi. Như trong dụ ngôn ‘hai người con’, sau khi nghe xong, chúng ta phải chọn lối sống, xin vâng và sống điều xin vâng đó trong suốt cuộc đời. Rồi đến dụ ngôn ‘những người làm công sát nhân’, Đức Giê-su nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại bổn phận của mình, chỉ là những người làm công trong vườn nho mà Thiên Chúa mới là chủ nhân, chúng ta không được phép tiếm quyền. Hôm nay, trong dụ ngôn tiệc cưới, Đức Giê-su cũng đưa ra sứ điệp thách đố và lời mời gọi chúng ta thay đổi lối sống hơn là những lời trấn an.

Vì thế, chúng ta đừng tìm hiểu và đọc các câu chuyện trong các dụ ngôn theo nghĩa đen mà phải tìm ra chân lý mà dụ ngôn ẩn chứa để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với sự mới mẻ mà Đức Giê-su muốn dậy bảo.

Trước tiên chúng ta hãy tưởng tượng.

Anh hay chị đã bao giờ nhận được lời mời đến tham dự một bữa tiệc mà bạn thực sự không muốn tham dự? Bạn đã làm gì về điều đó? Tôi cá là bạn đã không ngược đãi, lạm dụng và giết người báo tin hay nhân viên đưa thư. Thế mà, đó là những gì đã xảy ra trong câu chuyện hôm nay.

Anh hay chị đã bao giờ hết lòng hết dạ khoản đãi những khách mời, cuối cùng họ lại không đến chưa? Các việc chuẩn bị như dọp dẹp nhà cửa, nấu ăn, trang trí phòng ăn thật ấm cúng. Mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng, gia nhân đã được chỉ bảo trong việc tiếp đón khách. Nhưng đến giờ khai tiệc vẫn còn một số khách không đến tham dự. Trong hoàn cảnh đó anh hay chị sẽ làm gì? Tức giận rồi cho gia nhân đi đốt nhà họ hay sao? Có lẽ bạn sẽ không làm điều đó. Thế mà, đó là những gì đã xẩy ra trong câu chuyện hôm nay.

Câu chuyện mà Đức Giê-su kể hôm nay tạo một cú sốc cho người nghe. Tuy nhiên chúng ta không nên hình dung và đi đến một kết luận cho rằng Thiên Chúa là một vị vua giận dữ, đã đối xử với những người không theo ý Ngài bằng cách sai quân binh đến hủy diệt dân tộc mình và đốt cháy thành phố của họ như đã được trình bầy trong dụ ngôn. Tất cả không phải sự thật mà Tin Mừng loan báo.

Dụ ngôn ‘tiệc cuới’ hôm nay ám chỉ đến bữa tiệc ‘cánh chung’, bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó chúng ta thấy dung mạo của một vị Thiên Chúa rất nhân từ, kiên tâm trong công việc. Bữa Tiệc do Ngài làm chủ. Ngài tự ý mở tiệc và cho gia nhân đi mời mọi người. Cho dù, khi gặp phản ứng khước từ của nhóm khách đầu tiên, nhà vua đã có nhận định là họ không xứng đáng. Lối nói này dẫn chúng ta thấy hành động sau đó của nhà vua cho gia nhân đi mời mọi người. Qua đó, chúng ta mới thấy tư cách được mời không phải vì họ xứng đáng, nhưng đây chính là tâm huyết và niềm vui của Ngài. Điều đặc biệt ở đây là Thiên Chúa không giữ ‘niềm vui’ cho riêng mình, nhưng Ngài đã tự ý chia sẻ niềm vui đó qua việc sai các sứ giả, hết nhóm này đến nhóm khác, mời tất cả mọi người, ở tất cả mọi nơi - từ các nẻo đuờng và trong các hang cùng ngõ hẻm - đến tham dự tiệc cuới.

Nhưng giữa hai nhóm được mời tham dự tiêc cưới có điểm khác biệt.

Sự khác biệt không phải là những người thuộc nhóm thứ nhất xứng đáng hơn những người thuộc nhóm sau. Những vị khách được mời đầu tiên là những người nhận được lời mời và sự ưu ái của nhà vua. Nhưng những vị khách được mời thứ hai cũng vậy. Và người đàn ông xuất hiện không mặc áo cưới cũng vậy. Họ đều được mời. Họ đều được ưu ái. Không ai trong số họ đã làm bất cứ điều gì để có thể cho rằng mình xứng đáng được mời. Chúng ta cũng thế.

Sự khác biệt không phải là nhà vua thích nhóm này hơn nhóm khác. Động lực duy nhất của nhà vua là muốn chia sẻ niềm vui, san sẻ trong bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Điều này nói lên lòng đại lượng và tâm tình san sẻ của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa muốn mọi người tham gia vào niềm vui và những sinh hoạt trong gia đình của Ngài. Đây là một phần trong các sinh hoạt trong cuộc sống của Ngài. Tất cả những người được mời đều được trao cơ hội như nhau. Chúng ta cũng thế. Cơ hội luôn chờ đợi sự cộng tác và đón nhận của chúng ta.

Sự khác biệt không phải là một số khách tốt và những người khác xấu. Không có sự phân biệt hoặc đánh giá nào được thực hiện dựa trên hành vi, niềm tin, thái độ sống hay lối hành xử đạo đức. Ngược lại, với lần mời thứ hai, nhà vua cử người hầu của mình ra các đường phố chính với chỉ thị “gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Và gia nhân đã làm như chỉ thị: đi ra các nẻo đường, gặp ai, không phân biệt tốt xấu, sang hèn, giầu nghèo, có địa vị hay không, mời hết khiến cho phòng tiệc cưới đã đầy khách dự tiệc. Chúng ta cũng thế, không phân biệt tốt xấu, ai ai cũng được mời.

Chỉ có một điều duy nhất phân biệt khách được mời đầu tiên với khách được mời lần thứ hai. Đó là cách thức hiện diện. Những vị khách được mời lần thứ hai đã lộ diện. Những vị khách được mời đầu tiên thì không. Phòng tiệc đã chật kín những vị khách được mời lần thứ hai nhưng những vị khách được mời đầu tiên đã không có mặt. Đó là sự khác biệt duy nhất giữa hai nhóm.

Thưa anh chị em,

Chìa khóa cho cuộc sống của chúng ta trong Chúa là sự hiện diện, sự có mặt. Chúng ta không thể tiếp tục thờ phượng và yêu mến Chúa và tha nhân một cách ‘online’ mãi. Chúng ta cần có mặt. Bây giờ hoàn cảnh chưa cho phép, nhưng không vì thế mà thay đối cách diễn tả. Chúng ta cần có mặt để san sẻ, thông cảm và trao ban. Không ai cứ ăn uống ‘online’ mà no thỏa hết. Nói ra thì dễ nhưng biểu lộ sự hiện diện của mình và chấp nhận sự có mặt của tha nhân trong ta không phải là việc dễ dàng. Muốn làm được điều này, chúng ta phải:

• Biết quên mình, nhận ra sư hiện diện của người khác, không như sự kỳ vọng hay ước muốn của chúng ta cho bằng chấp nhận sự hiện hữu của họ với tất cả giới hạn, yếu đuối và mỏng dòn của tha nhân.

• Từ bỏ cái tôi, mở lòng ra mà chấp nhận người khác và đưa họ hiệp thông với các sinh hoạt trong cuộc sống mình.

• Tìm kiếm để nhìn thấy họ vì họ chứ không phải là người mà mình mong ước.

• Lắng nghe tiếng nói của người khác vì tâm tư của họ hơn là chọn lựa chỉ để lắng nghe những gì mình thích.

• Sau cùng, chúng ta đem đến cho nhau tất cả.

Đó là những điều chúng cần làm để chấp nhận sự có mặt bên nhau. Một khi chúng ta không làm các điều này cho nhau thì làm sao chúng ta có thể xuất hiện và hiện diện bằng xương bằng thịt, với tất cả tâm hồn với anh em mình trong bữa tiệc cưới ‘cánh chung’ được!

Thay vào đó, chúng ta thường chọn đi trên những con đường riêng biệt, đến các trang trại, tham quan các cơ sở kinh doanh hay đi buôn. Chúng ta quá bận rộn, quá mệt mỏi trong công ăn việc làm để kiếm tiền và nuôi con cái ăn học. Lý do nào cũng khẩn cấp và hợp lý, còn giờ và năng lực đâu mà có mặt để cùng đi với người khác. Đó là những gì mà những người thuộc về nhóm thứ nhất đã làm. Điều mà họ thiếu sót, và có thể cũng là điều mà chúng ta không nhận ra, đó là sự sống đích thực chỉ có thể tìm thấy được trong Nước Thiên Chúa, trong các bữa tiệc do Thiên Chúa khoản đãi mà thôi. Chúng ta được mời và chấp nhận lời mời để cùng nhau hiện diện bằng sự có mặt mật thiết bên nhau trong Nước của Ngài. Từ đó, chúng ta nhận ra mình thật xứng đáng. Xứng đáng không phải vì mình nhưng vì Chúa nhận ra mình thật xứng đáng được yêu thương, xứng đáng được đồng bàn. Đó là lúc chúng ta đã thay đổi.

Thế nhưng chúng ta sẽ nói thế nào về người khách không mặc y phục lễ cưới trong nhóm thứ hai. Người ta có thể xếp anh vào loại người có niềm tin mà không có việc làm như được mô tả ở đoạn 2 trong thư của Thánh Gia-cô bê, Ngài nói “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”, giống như đi vào phòng tham dự tiệc cưới mà không có y phục lễ cưới thì đáng bị ném ra ngoài.

Nhưng hôm nay, tôi nhận ra một điều khác ở người khách này. Khi bị hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có ý phục lễ cưới?” thì anh ta ngậm tăm, miệng câm và không nói được gì. Có một cái gì thiếu nơi anh. Anh không nói được điều nào hết! Anh tuy có mặt nhưng thật ra đã không hiện diện. Thân xác anh bất động ở đó, nhưng tâm hồn và các sự khác của anh đã thoát khỏi phòng tiệc. Anh có mặt như không có mặt. Cứ như thể anh không thực sự hiện diện nơi đó.

Sự thật này đã xẩy ra trong kinh nghiệm sống của chúng ta. Đã bao lần thân xác ta ở đó, nhưng lòng của mình đã bay tận chốn nào rồi. Tình trạng ‘đồng sàng dị mộng’ hay ‘lãnh cảm’ là thế đó. Sự thật này cũng đã xẩy ra trong cuộc sống của chúng ta với Chúa. Đã bao nhiêu lần, thân xác chúng ta trong nhà thờ mà lòng trí lại ở tận nơi đâu. Giống như thế, trong các mối tương quan, đã bao nhiêu lần chúng ta có mặt như không có mặt. Sống chung một nhà mà không muốn nhìn mặt nhau thì coi như người đó đâu còn hiện diện nữa.

Sau cùng, chúng ta hãy nhớ rằng: tiêu chuẩn mà chúng ta đuợc mời hoàn toàn không dưạ trên lòng đạo đức, thánh thiện hay là phẩm chất tốt của chúng ta. Tất cả được phát sinh bởi Thiên Chúa, từ lòng quảng đại của Người, Đấng tha thiết mời gọi chúng ta đến để chia sẻ niềm vui trong kho tàng ân sủng thật bao la của Người.

Như vậy, ý định của Thiên Chúa dành cho chúng ta là Ngài sẵn sàng chia sẻ với chúng ta sự giàu có trong các bữa tiệc của cuộc sống. Nhưng lòng quảng đại, nhân từ và kiên tâm chờ đợi của Thiên Chúa không bao giờ là một cái cớ khiến chúng ta tự mãn và coi thuờng rồi không hợp tác với Ngài. Chính việc chọn lựa không hợp tác, giống như người được mời mà lại không có y phục lễ cưới đã được mô tả trong dụ ngôn, có thể là nguyên nhân khiến chúng ta bị, hay tự mình, loại ra khỏi bữa tiệc của niềm vui.

Vậy, chúng ta cần có thái độ nào trong các lần gặp mặt, các bữa ăn - tiệc của đời sống, nhất là qua các bữa tiệc lòng mến (Thánh Lễ) mà chúng ta đuợc mời gọi chia sẻ với nhau bằng sự hiện diện đích thật, chứ không on-line, vào các ngày Chúa Nhật hàng tuần?

Uớc mong, chúng ta cùng cộng tác với lời mời chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, để mãi mãi, bằng cuộc sống, chúng ta cùng cử hành bữa tiệc niềm vui cho đến ngày chung kết. Amen!

 

Thursday, 1 October 2020

VƯỜN NHO CỦA CHÚA.

 

Anh chị em thân mến,

Theo thói đời, người ta thường có khuynh hướng tránh gặp những người có xung đột hay đối đầu với mình. Nhưng Đức Giê-su đã không làm như thế.

Trong các bản văn của Tin Mừng, đặc biệt Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, chúng ta được nhìn thấy mức độ căng thẳng trong mối quan hệ giữa Đức Giê-su và hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo thời của Người. Họ quyết tâm tìm mọi cơ hội để gài bẫy và buộc tội hầu có thể tiêu diệt Đức Giê-su; nhưng không vì thế mà Người chịu lùi bước.

Tuần trước, Đức Giê-su đã dùng câu chuyện “hai người con” để mời gọi hàng ngũ lãnh đạo Do Thái giáo trở về cõi lòng mà nói lời “xin vâng” rồi hành động theo ý Thiên Chúa. Nhưng hình như sứ điệp của Người không phá tan được rào cản của quyền lực, nhất là ‘cái tôi” của họ, khiến họ không chịu hối hận mà trở về nẻo chính đường ngay. Trong bài nói chuyện tuần này, Người tiếp tục dùng thêm một dụ ngôn nữa để ám chỉ đến tấm lòng chai đá, đôi khi biến thành các hành vi tàn ác của họ.

Truyện kể về việc kinh doanh vườn nho. Có một ông chủ kia trồng được vườn nho. Ông rào giậu chung quanh. Trong vườn ông khoét bồn đạp nho và một tháp canh. Các chi tiết này ám chỉ cho chúng ta biết vườn nho thuộc về ông. Nhưng ông không tự mình trồng nho mà lại cho các tá điền thuê để canh tác. Sau đó, ông trẩy đi phương xa cho đến mùa thu hoạch mới sai sứ giả của ông đến để thu hoa lợi. Đến lúc này thì công việc kinh doanh vẫn hoạt động như bình thường, cho đến khi sự cố xẩy ra.

Trước khi tìm hiểu xem điều gì đã xẩy ra, xin mời anh chị em thử tưởng tượng xem có người làm thuê nào dám hành hạ và đánh đập những sứ giả mà ông chủ phái tới để thu hoa lợi hay không? Giả như những người đại diện của chủ bị hành hạ thì ông chủ sẽ có thái độ như thế nào? Hơn thế nữa, với tình hình của một quốc gia đang bị đô hộ thì người dân có quyền thế gì. Mọi thứ quyền lực thường nằm trong tay đế quốc, qua trung gian của mấy ông chủ, những người có mối quan hệ với đế quốc đang thống trị họ. Trong tình hình đó, ông chủ vườn nho (như mấy ông chủ đồn điền) sẽ sai quân binh đến để dẹp bọn tá điền phản loạn, làm gì có việc sai thêm nhóm khác và sau cùng lại gửi con ông đến để chịu chết như dụ ngôn kể lại. Và, thật nực cười khi chúng ta nghe lý do mà họ giết cậu con trai, đó là để đoạt gia tài mà cậu được thừa kế. Dù cậu có bị giết thì gia tài vẫn thuộc quyền ông chủ, cho đến khi nào mới về tay những kẻ làm thuê.

Đến lúc này, Đức Giê-su mới bộc lộ ý của Người qua câu hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn đã giết các sứ giả và người con thừa tự của ông? Câu trả lời của họ thật rõ ràng: Ông sẽ tru diệt bọn ác nhân và trao cho nhóm tá điền khác canh tác, để cứ đúng mùa, họ sẽ nộp hoa lợi cho ông.

Sau câu trả lời thật hiển nhiên đó, họ thấy chính họ trong câu chuyện. Họ hiểu ý mà Đức Giê-su kể trong câu chuyện hôm nay. Người có ý mời gọi các vị lãnh đạo, các chức sắc hãy nhận ra sứ điệp của Người mà thay đổi cách sống. Nhưng họ không động lòng để hối cải. Than ôi, họ ngoan cố tiếp tục tìm cách bắt Đức Giê-su!

Thưa anh chị em,

Đối với các thành viên trong cộng đoàn của Mát-Thêu thì bài Tin Mừng này có thể được giải thích đó là việc dân Do Thái đã lạm dụng vai trò canh tác vườn nho của Thiên Chúa. Họ được mô tả như những người làm thuê, nhưng lại không chấp nhận thân phận của mình, trái lại họ đã cư xử như một ông chủ; không có lòng nhân từ và kiên nhẫn. Với cách hành xử rất thô bạo, bằng bạo lực họ đã cuớp quyền sở hữu, giết các sứ giả do chủ sai đến. Họ, từ vị trí của những người làm công, đã thiết lập các qui tắc, rồi cuớp đoạt và tự hành xử như một ông chủ. Họ tìm cách loại bỏ Người. Vì quyền lợi riêng tư nên họ đã từ chối đón nhận Đức Giêsu và nguồn ơn cứu độ của Người.

Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở hành động khuớc từ của họ. Thiên Chúa, Đấng làm chủ vườn nho tiếp tục mời gọi và sai các nhóm tá điền khác đến để canh tác. Nói cách khác thì vườn nho không bao giờ bị bỏ hoang! Một ngôi nhà mới sẽ được cất lên, một triều đại mới sẽ được khai sinh trên hòn đá tảng là chính Đức Kitô. Đây chính là công việc của Thiên Chúa, Đấng làm chủ vườn nho của Người.

Thật tuyệt vời cho chúng ta khi nhìn thấy hay nhận ra bao công trình mà Chúa đã xây dựng trong vườn nho của Người, trong cuộc đời của mỗi chúng ta nữa. Quả thật, chúng ta hãy nhận ra rằng việc được làm việc trong vườn nho của Chúa là một hồng ân, hồng ân đó hoàn toàn không lệ thuộc vào tài năng hay phẩm chất của con nguời. Đó là một món quà nhưng không của Thiên Chúa ban, không chỉ cho riêng mình, nhưng qua công sức, chúng ta làm cho món quà đó mỗi ngày mỗi lớn hơn để chia sẻ cho tha nhân. Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là người thợ luôn tìm cách sinh hoa lợi cho ông chủ trong mùa thu hoạch. Và trong khi chờ đợi mùa thu hoạch, Thiên Chúa vẫn kiên tâm chờ đợi, không thu động nhưng rất tích cực, bằng cách tiếp tục sai hết lớp thợ này đến lớp thợ khác đến để canh tác trong vườn nho của Người. Sau cùng Người sai người con thừa tự, hy vọng rằng họ sẽ nể Người mà cộng tác với người con đó. Nhưng than ôi! Họ đã nhẫn tâm giết luôn người con. Tuy nhiên, việc con người nhẫn tâm và tàn ác cũng không thắng nổi sức mạnh và công trình của Thiên Chúa. Thật vậy, Đức Giê-su đã nói: “…Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” Tảng đá mà Đức Giêsu nói ở đây là chính bản thân Người, là thân thể của Đức Ki-tô.

Theo thiển ý của tôi, khi nhắc lại công trình của Thiên Chúa, Thánh sử muốn đề cao quyền làm chủ của Người và nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa có dự án của Người. Cho dù con người có bất trung hay hành xử bất kính và bạo lực cũng không phá hủy được chương trình của Người.

Họ nghĩ là họ đã thành công trong ý đồ xấu xa của họ là loại bỏ Tảng đá. Nhưng, với bàn tay của Thiên Chúa, do công trình của Người, tảng đá đó trở nên tảng đá góc tường.

Họ nghĩ rằng họ đã giết được Con Thiên Chúa. Nhưng, Đức Giê-su qua sự chết, Người đã chiến thắng thần chết. Qua việc chết đi cho ý riêng, Người đã biểu lộ lòng vâng phục ý của Thiên Chúa. Sau cùng, Thiên Chúa đã siêu tôn Người Con và tiếp tục làm chủ công trình của Người.

Còn chúng ta, việc canh tác làm cho vũ trụ, vườn nho Hội Thánh, vườn nho gia đình, cộng đoàn hay xã hội được đổi mới và phát triển là trách nhiệm và phần vụ của mọi người. Phần vụ này không thuộc về riêng ai: Do Thái hay dân ngoại, ai ai cũng được mời gọi. Phần  chúng ta, hãy luôn hỏi mình rằng chúng ta đã sống như thế nào để xứng đáng với vai trò mà Chúa đã trao phó trong công việc canh tác vườn nho của Người? Và, trong việc canh tác mà Chúa đã trao phó cho chúng ta đã thực hiện thế nào? Không tự xét mình, chúng ta có thể giống như hàng ngũ lãnh đạo mà Đức Giêsu đã nhắm đến trong bài Tin Mừng hôm nay!

Vẫn biết, cuối cùng thì Nước Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Chúng ta không đuợc phép thất vọng. Tuy nhiên, việc sinh hoa lợi là phần phúc mà Chúa đang chờ đợi bàn tay con người. Hãy làm tất cả để vườn nho của Thiên Chúa, thân thể của Đức Ki-tô được sinh hoa kết trái dồi dào và phong phú hơn!

Hãy nhớ rằng vườn nho thuộc về Thiên Chúa, vườn nho là của Người. Chúng ta chỉ là những người cộng tác, hết nhóm này đến nhóm khác, hết thời này đến thời kia, Thiên Chúa vẫn làm chủ. Và, cho dù chúng ta bất xứng, nhưng Thiên Chúa luôn thành tín với dự án của Người. Đừng bao giờ có ý nghĩ chiếm hữu vườn nho cho riêng mình. Đừng bao giờ để cho thành quả của công việc làm thay đổi căn tính phục vụ của mình. Hãy sống trọn vẹn vai trò thừa tác, chu toàn bổn phận của người cộng sự mà làm cho Danh Chúa được cả sáng và Vườn nho của Chúa, là Thân Thể của Đức Ki-tô, được sinh hoa kết trái theo ý Người. Amen!