Tuesday, 22 December 2020

GIA ĐÌNH LÀ NƠI CHÚA SINH?

 


Anh chị em thân mến,

Ngôi Hai Thiên Chúa mà Thánh sử Gio-an còn gọi là Ngôi Lời đã đến ở cùng, ở giữa và ở trong chúng ta. Đó là trung tâm của Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa làm người. Thật vậy, biến cố Con Thiên Chúa ra đời nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã buớc vào thế giới của nhân loại. Trong thân phận của hài nhi Giê-su, Thiên Chúa đã hiện diện và ôm toàn thể nhân loại vào trong vòng tay yêu thương của Ngài. Ngài không đến để đưa chúng ta ra khỏi thân phận mình, nhưng Ngài đã buớc vào thế giới của mỗi người rồi tìm cách cất nhắc chúng ta lên, để mỗi người đều tìm được cách thức tiếp cận và có thể chạm vào tính siêu việt của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa không còn là vị Thiên Chúa ở trên cao. Ngài đã phá bỏ mọi hàng rào ngăn cắt để đến với chúng ta, và từ đó chúng ta có thể nối kết và đến với nhau. Đó chính là ý nghĩa tuyệt vời của Giáng Sinh.

Hãy nhìn vào hoàn cảnh của thế giới hiện nay chúng ta thấy những gì? Chúng ta vẫn đang phải gánh chịu những hiểm họa do Covid-19 gây ra. Tuy rằng mức độ lây nhiễm do Covid-19 gây ra tại một số tiểu bang trên đất Úc đã được khống chế và nằm trong tầm kiểm soát của những người có trách nhiệm. Nhưng nhìn qua thảm cảnh do tình trạng đại dịch bên các nước khác ở Âu Châu, Á châu và Mỹ Châu cũng khiến chúng ta nên nhớ rằng Covid-19 vẫn còn đang nằm đâu đó chờ ngày bộc phát. Chúng ta vẫn phải cẩn thận, nhất là cần tuân theo những quy định giãn cách của chính quyền.

Bên cạnh nạn đại dịch mà chúng ta đang phải gánh chịu, còn có các thiên tai như bão tố, lụt lội, cháy rừng, v.v… Ngoài ra chúng ta còn chứng kiến hay nghe về những cảnh đời thật thương tâm. Còn quá nhiều cảnh đời bất hạnh. Không thiếu những trẻ em sống trong hoàn cảnh éo le trước sự đổ vỡ của cha mẹ mà hậu quả là sự cô đơn và thiếu vắng tình thương mà các cháu phải gánh chịu. Những nạn nhân bị lạm dụng về tinh thần và thể xác bởi việc lạm dụng quyền uy của một số vị lãnh đạo. Còn có những cụ già trong các viện dưỡng lão mòn mỏi ngồi bên khung cửa để trông chờ và đón đợi con cháu đến thăm. Biết bao nhiêu gia đình đã ngậm ngùi tiễn chân người thân qua khung cửa kính tại các bịnh viện trong mùa đại dịch này.

Trong hoàn cảnh của thế giới như thế, người tín hữu có bổn phận gì? Phải chăng chỉ là việc tham dự Đại Lễ Giáng Sinh cho xong bổn phận! Không chỉ như vậy mà thôi. Thiên Chúa vẫn tha thiết muốn được sinh ra trong bất kỳ hoàn cảnh nào! Muốn được như thế, mỗi người chúng ta cần ý thức rằng chúng ta là những quà tặng thật quí giá mà Thiên Chúa đã ban cho thế giới này. Và ngay khi chúng ta sống hoà hợp với người khác là lúc mà chúng ta cũng nhận ra rằng mọi người đều là quà tặng thật độc đáo mà Thiên Chúa đã dựng nên. Thiên Chúa làm người và cư ngụ giữa chúng ta mà.

Như vậy, trong khi cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh năm nay, chúng ta có cơ hội để nhắc cho nhau rằng Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Trong niềm xác tín rằng Thiên Chúa đang hiện diện, chúng ta đuợc mời gọi để trở về mà ý thức rằng chúng ta là những con người rất đáng yêu và đã đuợc đổi mới. Sự đổi mới này không chỉ xẩy ra cho chúng ta mà thôi đâu, nó đã tác động trên toàn thế giới qua biến cố Con Thiên Chúa giáng trần này.

Và để sống trọn vẹn mầu nhiệm này, chúng ta đuợc mời gọi từ bỏ ‘cái tôi hống hách’, quên đi ‘lối sống kiểm soát và thống trị’ người khác rồi mặc lấy sự tự do của con cái Thiên Chúa mà yêu thương bản thân mình và tha nhân. Đó chính là sứ điệp của Mùa Giáng Sinh này vậy.

Anh chị em thân mến,

Lối sống từ bỏ, hy sinh để yêu thương mà chúng ta học được trong Mùa Giáng Sinh này rất phù hợp với tinh thần và ý nghĩa của việc mừng Lễ Thánh Gia được sắp đặt theo sát Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật ngày 27 tháng 12 này. Đây là một điểm đặc biệt mà chúng ta thấy trong lịch phụng vụ, chu kỳ của năm B-2021 này. Khi làm như thế, Hội thánh muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của gia đình trong hoàn cảnh hiện tại.

Vì thế trước khi tìm hiểu bài học mà Đức Giê-su dậy bảo thì chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho mọi gia đình trên thế giới biết noi gương gia đình Thánh Gia trong việc tìm hiểu và thực hành ý muốn của Chúa. Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho tất cả các gia đình vào lúc này, đặc biệt là những người đang thương tiếc những người thân yêu đã vĩnh viễn từ giã họ mà ra đi bởi Covid-19, và những người đang phải giãn cách xa nhau, cả về thể xác lẫn tinh thần. Chúng ta cũng cầu nguyện cho những gia đình, tuy đã chuẩn bị cho việc đoàn tụ gia đình vào dịp nghỉ Lễ Giáng Sinh này, nhưng nay các dự án của họ đã bị hủy bỏ bởi đợt bùng phát gần đây nhất của Covid-19, ở Sydney và ở các nước khác trên thế giới.

Còn đối với Đức Giê-su thì gia đình của Người không chỉ dừng lại bởi các mối quan hệ dựa trên huyết thống. Người không ca tụng mẹ Người vì lý do huyết nhục. Theo tinh thần của Đức Giê-su thì những ai nghe và thực hành Lời Chúa mới là những người thân của gia đình Người.

Trong gia đình của Người không ai bị loại bỏ. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta thấy cuộc gặp gỡ giữa ông già Si-mê-on và em bé Giêsu. Ông đã ẵm em bé Giêsu trên tay và chúc tụng Thiên Chúa. Đây là món quà tặng mà Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già.

Trước khi là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại thì hài nhi Giêsu đã là quà tặng cho gia đình và những người láng giềng trước. Còn con cái của chúng ta hôm nay thì sao? Chúng có được đón nhận như món quà quí giá từ Thiên Chúa cho gia đình mình hay không?

Tâm tình đầu tiên của cha mẹ dành cho con cái là đón nhận các cháu trong yêu thương. Đề nghị này nghe qua có vẻ hơi thừa, vì có cha mẹ nào lại không yêu thương con mình! Nhưng tâm tình mà chúng ta muốn bàn đến ở đây, không phải chỉ là tâm tình dành cho các cháu trong một chốc một lát, nhưng là một hành trình đón nhận yêu thương của cả đời cha mẹ. Trên thực tế, có nhiều cha mẹ yêu thương con mình rất vụng về. Yêu con mà không dám dành thời gian cho con mình lại có thể nói là yêu sao? Hơn nữa, tình yêu của cha mẹ dành cho con cái cần đồng đều. Đừng làm cho chúng hiểu lầm là chúng không được yêu thương như mấy người con khác trong gia đình. Điều này chỉ tạo sự ghen tương và thù ghét trong tâm hồn con trẻ.

Với đức tin, chúng ta đều biết mỗi người khi sinh ra đều được Chúa trao ban một sứ mạng đặc biệt. Chúng ta chỉ có thể cộng tác với Thiên Chúa trong việc này chứ không thể tự mình định đọat một cách tuyệt đối được. Vẫn biết rằng, vợ chồng cần phải tính tóan trong việc sinh con; theo giáo huấn của Giáo hội. Nhưng thực tế lại khác, nhiều em bé được sinh ra ngòai kế họach của cha mẹ. Vẫn biết đó là ‘accident’; nhưng không vì vậy mà cha mẹ được quyền từ khước sự hiện diện của chúng. Tôi vẫn xác tín rằng nếu con cái không được quyền chọn cha mẹ thì cha mẹ cũng không được phép từ khước chúng. Xua đuổi chúng là hành vi tội lỗi. Và còn hành vi nào tàn nhẫn hơn khi người con vô tội bị hất hủi ngay từ trong lòng mẹ, chưa được mở mắt chào đời, chưa được huởng khí yêu thương đã phải tống khứ ra khỏi lòng mẹ. Chẳng có lý do nào chính đáng để bào chữa cho việc làm này của cha mẹ. Nhưng cha mẹ có đủ lý do để tín thác vào Chúa khi sinh ra chúng. Trong gia đình của Đức Giê-su không ai bị loại bỏ.

Trong gia đình của Đức Giêsu tất cả đều bình đẳng. Ai cũng có một vị trí và bổn phận trước mặt Chúa. Giai cấp chủ - tớ bị xóa bỏ. Không ai có quyền thống trị ai. Mọi thành viên trong gia đình của Chúa đều có nhiệm vụ duy nhất là phục vụ nhau; giúp nhau khám phá và thực hiện Ý Chúa. Đức Giêsu còn yêu cầu tất cả hãy sống như con trẻ; nghĩa là như con trẻ nương tựa vào cha mẹ thế nào thì mọi thành phần trong gia đình của Người hãy nương tựa vào Chúa như là nguồn sống duy nhất như thế.

Nói như thế thì gia đình là cái nôi, là môi trường vô cùng quan trọng để chuẩn bị cho con cái vào đời. Trong tinh thần đó, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi cho các gia đình, Ngài đã ghi lại: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình." Như vậy, thật là chí lý khi chúng ta xác quyết rằng gia đình là ngôi trường đầu tiên dạy chúng ta những bài học căn bản của kiếp người; dậy chúng ta biết yêu thương, phục vụ, biết từ bỏ và quên mình.

Trong gia đình, cha mẹ trước tiên được mời gọi trở nên những người nêu gương sáng cho con cái. Con cái không được ban tặng để tùng phục hay thi hành ý muốn của cha mẹ, cho bằng tất cả được sai đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Đời sống gương mẫu của cha mẹ có sức thu hút thật mãnh liệt, lôi cuốn con cái đến cùng Chúa. Vì như chúng ta được nghe nói: “lời nói lung lay và gương bầy lôi cuốn.”

Hãy xem gương Augustinô. Khi còn trai trẻ, thánh nhân là một chàng trai chơi bời trác táng. Nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa.

Chúng ta có thể cho rằng gia đình Thánh gia Nagiarét được diễm phúc hơn mọi gia đình khác, vì có chính Chúa Giêsu hiện diện giữa các ngài. Nhưng nếu xét cho cùng thì các Ngài cũng không có đặc quyền, đặc lợi hơn chúng ta. Các Ngài cũng cần tìm kiếm thánh ý của Thiên Chúa; và các Ngài cũng cần phải có đức tin sâu xa và vững mạnh lắm mới có thể chu toàn trọn vẹn vai trò của mình.

Như vậy, muốn gia đình mình được gọi là gia đình Thánh thì mọi thành phần trong gia đình cần học để vâng phục ý định của Thiên Chúa qua việc chuyên cần suy niệm và sống Lời Ngài. Và lúc đó, chúng ta đã để cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn như lời ước nguyện của Thánh Phao-lô “Nguyện cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em.” Từ đó, mọi thành phần trong gia đình của anh chị em như: cha và mẹ, người cha hay người mẹ đơn thân, con cái và cháu chắt sẽ xứng đáng là những ngôi đền mà Chúa sinh ra và cùng giúp nhau tìm kiếm và sống theo Thánh Ý Chúa. Amen!

 

Tuesday, 15 December 2020

TRONG XÁO TRỘN VÀ NGỔN NGANG VẪN CÓ NIỀM VUI

 

Chúng ta bước sang tuần thứ Tư Mùa Vọng. Chỉ còn vài ngày nữa là đến Lễ Giáng Sinh. Bầu khí mừng Lễ Giáng Sinh năm nay xem ra không được tưng bừng và nhộn nhịp như các năm trước. Chúng ta vẫn đang phải gánh chịu những hiểm họa do Covid-19 gây ra. Tuy rằng mức độ lây nhiễm do Covid 19 gây ra tại Úc đã được khống chế và nằm trong tầm kiểm soát của những người có trách nhiệm. Từ đó, tình hình cũng được nới lỏng hơn. Nhà thờ và các nơi thờ phượng được mở cửa lại, số người tham dự tăng hơn. Nhưng nhìn qua thảm cảnh do tình trạng đại dịch bên các nước khác ở Âu Châu, Á châu và Mỹ Châu cũng khiến chúng ta nên nhớ rằng Covid-19 vẫn còn đang nằm đâu đó chờ ngày bộc phát. Chúng ta vẫn phải cẩn thận trong việc tiếp xúc, nhất là cần tuân theo những quy định giãn cách của chính quyền.

Bên cạnh nạn đại dịch mà chúng ta đang phải gánh chịu, còn có các thiên tai như bão tố, lụt lội, cháy rừng, v.v… ngoài ra chúng ta còn chứng kiến những cảnh thật thương tâm. Vẫn còn nhiều cảnh đời bất hạnh. Không thiếu những trẻ em sống trong hoàn cảnh éo le trước sự đổ vỡ của cha mẹ mà hậu quả là sự cô đơn, thiếu vắng tình thương mà các cháu phải gánh chịu. Những nạn nhân bị lạm dụng về tinh thần và thể xác bởi việc lạm dụng quyền uy của một số vị lãnh đạo. Còn có những cụ già trong các viện dưỡng lão mòn mỏi ngồi bên khung cửa để trông chờ và đón đợi con cháu đến thăm. Biết bao nhiêu gia đình đã ngậm ngùi tiễn chân người thân qua khung cửa kính tại các bịnh viện trong mùa đại dịch này. Làm sao chúng ta có thể vui khi lâm vào những tình huống như thế này!

Nói gì thì nói, trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng Chúa vẫn đến trong hoàn cảnh riêng của từng người.  Khi bước vào trần gian, Người đã không ngần ngại bước đến với con người trong hoàn cảnh mỏng dòn, bội ước và đầy tham vọng của họ. Đây là sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Người đã đi bước trước để làm gương cho con cháu Người. Người chấp nhận con đường nhập thể để hòa mình và chia sẻ mọi hoạn nạn khổ đau của con người.

Như mọi người, Con Thiên Chúa bắt đầu con đường đến với con người bằng cách mặc lấy thân phận của một thai nhi. Việc nhập thể này không tùy thuộc vào sự cộng tác của người nam, như lời Mẹ đã thưa với sứ thần trong bài Tin mừng hôm nay rằng Mẹ không biết đến việc vợ chồng. Trước thắc mắc hợp lý này, sứ thần đã tiết lộ cho Mẹ biết có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Nếu chúng ta tin rằng vũ trụ và mọi việc xẩy ra trong đó là do bàn tay của Thiên Chúa thì việc làm cho một trinh nữ thụ thai có là gì đâu với quyền năng của Người. Vấn đề chủ yếu của chúng ta là tin chứ không phải lý luận. Dù chúng ta khôn ngoan đến đâu, giải thích tường tận đến mức độ nào thì biến cố thụ thai của Mẹ hôm nay vẫn là một mầu nhiệm hay một phép lạ mà chỉ có thể đáp trả và đón nhận bằng lòng tin.

Tất cả nói lên sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin thì được cứu độ. Việc nhập thể là việc của Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là nhân vật chính. Thiện Chúa nhập thể chứ không phải chúng ta. Tuy là phép lạ, nhưng con đường đến làm người cũng cần có một bà Mẹ. Hình ảnh của  người Mẹ này đã được tiên báo ngay sau khi con người sa ngã và sự xuất hiện của Mẹ đã được ám chỉ và nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Cựu Ước. Và hôm nay, qua việc truyền tin của sứ thần và lời xin vâng, Mẹ đã chính thức xuất hiện trong lịch sử cứu độ và trong các chặng đường cứu độ mà Con Mẹ, Đức Giê-su sẽ đi vào.

Ngay trong giây phút này và xuyên suốt hành trình sống, tình yêu và ân huệ của Thiên Chúa bao bọc Mẹ. Tuy được chở che như thế, nhưng Mẹ vẫn phải trải qua trăm cay nghìn đắng như lời tiên báo của cụ Si-mê-ôn về Mẹ như sau: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Lời tiên báo này đã trở thành sự thật khi Mẹ ngậm ngùi đứng dưới chân Thánh Giá chứng kiến Con Mẹ chết. Lúc đó tâm hồn Mẹ cũng chết lặng. Nhưng không dừng lại. Cả một hành trình đầy phiêu lưu, vượt qua mọi thử thách, nhưng Mẹ vẫn một niềm cậy trông để sống lời xin vâng đó. Mẹ là Đấng đầy ân phúc vì có Chúa ở cùng. Mẹ là nguồn suối yêu thương không bao giờ cạn.

Con của Mẹ, hài nhi Giê-su và toàn thể nhân loại sau này đã được cưu mang và lớn lên trong tình yêu đó để chúng ta có thể nói rằng: với sự cộng tác trọn vẹn và phó thác của Mẹ đã khiến một biến cố phi thường xẩy ra một cách thật bình thường. Mẹ là người đã sẵn sàng vuợt qua mọi rào cản, mọi xáo trộn, mọi nghịch cảnh để Con Thiên Chúa bước vào cuộc đời Mẹ và bước vào thế giới qua cung lòng của Mẹ. Như mọi bào thai, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa đã đón nhận sự nuôi dưỡng, chăm sóc từ những giọt máu đào và dòng sữa yêu thương của Mẹ.

Nói về Mẹ thì không bao giờ hết, chẳng có ngôn ngữ nào trên trần gian có thể giúp con người bộc lộ và diễn tả hết tâm tình về Mẹ, nhất là tình yêu của người Mẹ, một thứ tình không có gì trên trần gian có thể bộc lộ ý nghĩa trọn vẹn của nó. Tình yêu đích thực có sức mạnh khủng khiếp như thế, thay đổi và hoán cải. Thật vậy, Thánh Gio-an nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu có sức mạnh biến đổi của và bởi chính Thiên Chúa. Đây không chỉ là chuyện xảy ra với Mẹ mà là chuyện xảy ra với toàn thế giới. Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một của Ngài để chúng ta có được sự sống nhờ Con của Người.

Chính tình yêu đích thực đã đánh động, cảm hóa và làm cho con người phải thay đổi. Bởi tình yêu, Mẹ đã được đặt để trổi vượt hơn mọi loài thụ tao. Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã ban tràn đầy ân sủng cho Mẹ. Sau cùng, với tâm tình tạ ơn, Mẹ đã xin vâng bằng chính cuộc sống phó thác của Mẹ. Trong tâm tình đó chúng ta học và nhận ra rằng chỉ có sống trong yêu thương mới lĩnh nhận đủ năng lực để thay đổi, và sau đây là một trải nghiệm.

Truyện kể sau đây tuy mang tính hư cấu nhưng phản ảnh một sự thật nói lên động lực giúp con người thay đổi. Câu chuyện được kể lại như sau: Có một thanh niên kia, sinh ra và lớn lên trong một gia đình đạo hạnh. Cả nhà, cả xóm đều là người công giáo. Nhưng anh thuộc loại ngỗ nghịch và có chất phản loạn. Anh gia nhập băng đảng, phá làng phá xóm, nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp, xì ke, ma túy, cướp của, thứ nào anh cũng thử qua. Nói chung anh là loại người bại hoại trong xóm giáo. Cuối cùng anh bị bắt đi tù. Trong trại tù anh có nhiều thời gian để suy nghĩ về những thói hư tật xấu và tự hứa sẽ thay đổi. Đến ngày mãn hạn tù. Anh hân hoan bước ra và tràn đầy hy vọng vào cuộc sống tương lai.

Trong khi thi hành án treo trong thời gian còn lại, anh đã gặp và làm quen với một thiếu nữ, chị mới từ nơi khác dọn đến. Mối quan hệ của họ giống như những nhân vật trong tiểu thuyết ngôn tình. Vừa gặp mặt tưởng chừng như đã quen biết nhau lâu rồi. Họ yêu nhau, cưới nhau và sống hạnh phúc bên nhau.

Sau này, anh đã tâm sự: “Trước khi tôi gặp nhà tôi, có vẻ như tôi không biết những từ xinh đẹp, tôn trọng và yêu mến có ý nghĩa gì! Nhưng khi tôi gặp vợ tôi và cảm nhận sự yêu thương của nàng, tôi dường như nhìn thấy vẻ đẹp trên khắp thế giới, đâu đâu cũng là màu hồng. Tôi trân trọng từng giây từng phút bên cạnh nhà tôi, dường như cả thế giới này đều tập trung quanh nàng. Tôi, nhìn lại những việc làm trong thời gian qua, cảm thấy kinh hoàng khi khám phá ra trong quá khứ tôi đã lạm dụng tình yêu và sự tín thác của người khác chỉ để đạt sự khoái cảm cho riêng mình. Vì vợ tôi, từ ngày đó tôi không dám có những ý nghĩa tục tĩu với người khác nữa. Tôi đã ngừng hút thuốc và chỉ uống rượu nhẹ mang tính xã giao từ ngày quen cô ấy. Tôi ngạc nhiên về mức độ hoán cải và thay đỗi trong cuộc sống của tôi. Tôi cảm ơn Chúa vì tình yêu của Chúa đã ban cho chúng tôi qua việc gặp gỡ vợ tôi. Nàng đã và đang mang lại ý nghĩa và giá trị cho tất cả những gì tôi làm trong cuộc sống.”

Tuy rằng tình yêu nhân loại vẫn còn bị giới hạn, nhưng với sự chân thật mà họ trao cho nhau trong tình yêu có thể làm con người thay đổi, phương chi là mối tình chung thủy của Thiên Chúa, Đấng yêu chúng ta mãi mãi. Cụ thể là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Đức Maria cưu mang hôm nay là một biến cố vô cùng trọng đại diễn tả mối tình tuyệt hảo của Thiên Chúa dành cho dân của Người. Ngày hôm nay, khi ôn lại mối tình cao cả trong hành trình nhập thể này cũng là cơ hội giúp chúng ta vui lên, vì Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta để qua việc đón nhận Người, chúng ta sẽ là những cánh tay nối dài nguồn suối tình yêu của Thiên Chúa cho nhau.

Ước chi lời sứ thần “không có gì mà Thiên Chúa không thể làm được’ đã ứng nghiệm qua cuộc sống xin vâng của Mẹ thế nào thì cũng tác động trong cuộc sống xin vâng của chúng con như thế. Amen!

 

Thursday, 10 December 2020

CHỨNG NHÂN LÀ AI?

 


Người ta nói ‘con đường dài nhất là con đường từ đầu đến bàn tay’. Khi nói như thế, họ thường ám chỉ đến những người nói nhiều mà làm lại ít hay không làm gì cả. Nói thì ai nói mà chẳng được, nhưng biến lời nói thành việc làm là điều thật khó khăn. Và một khi ‘ngôn hành hợp nhất’, nghĩa là lời nói đi đôi với việc làm thì lời mà chúng ta nói sẽ có hiệu quả hơn nhiều. Lúc đó, chứng nhân đã sống đúng với chứng từ của mình. Trong trường hợp như thế, chứng nhân không có lối sống chạy theo đám đông, hay làm để chiều lòng người khác; nhưng là sống thật với điều mà người đó xác tín và lối sống như thế luôn để lại gương sáng cho người khác noi theo. Quả thật, tuy chứng từ cần thiết nhưng người sống trong thế giới ngày nay cần nhiều chứng nhân hơn các chứng từ.

Trở lại hoàn cảnh thực tế mà chúng ta đang sống. Ai cũng có thể nhìn ra mức độ mà chúng ta bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa thế tục. Các bậc phụ huynh đang phải đối diện với những xáo trộn bởi quan niệm và cách thức sống đạo do con cái họ gây ra. Đối với các ngài thì việc sống đạo hầu như tập trung trong nhà thờ với các nghi thức phụng tự. Làm gì cũng được miễn sao chu toàn bổn phận như tuân giữ các giới răn, và nhất là đừng bao giờ bỏ tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật. Trái lại, con cháu của họ xem ra không mấy thiết tha và mặn nồng với các nghi lễ phụng vụ. Bù vào đó là tinh thần công bằng và cách xử thế tôn trọng sự thật của các cháu rất đáng được tôn dương. Bởi thế, hai bên khó gặp nhau. Cuối cùng phần thua vẫn nghiêng về phía cha mẹ.

Thật ra, trước khi trách các cháu, chúng ta cũng nên dành đôi phút trong Mùa Vọng này để nhìn lại chính mình. Chúng ta hãy tự hỏi là mình đã chuẩn bị môi trường và lối sống đạo như thế nào để con cái của chúng mình có thể đứng vững trước sự bành trướng của nền văn minh thế tục. Một môi trường lành mạnh, một thói quen đạo đức phải được xuất phát từ trong gia đình. Gia đình là cái nôi, là môi trường đầu tiên đào tạo và có sức ảnh hưởng trên tương lai của các cháu sau này.

Sau đây là một vài thí dụ cụ thể. Tuy rất cũ, nhưng lại được chúng mình lập đi lập lại nhiều lần. Vẫn biết chửi thề không phải là tội trọng, chỉ hơi khó nghe, nhưng cũng khiến cho con người thoát được nỗi bực tức nếu biết dừng lại đúng lúc. Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể dậy con cái mình bớt tật xấu này trong khi đó mỗi khi mở miệng ông bố luôn bắt đầu bằng câu “ĐM mày, tao đã bảo là đừng chửi thề, thế mà mày lại cứ văng tục” Hay có bà mẹ kia dậy con mình đừng nói dối. Nhưng ngay sau đó, mẹ dặn con rằng: nếu Bác A gọi điện thoại cho mẹ thì con hãy nói với bác là mẹ con dặn con nói với bác rằng mẹ con không có mặt ở nhà nhé. Rồi có câu chuyện mà các cháu kể lại cho nhau rằng mẹ hay dặn tôi là đừng nói về người khác, thế mà mẹ có thể ngồi hằng giờ bên điện thoại với bạn của mẹ để nói về chuyện của người khác.

Đấy là những trường hợp cụ thể mà chúng ta thường gặp thấy trong cuộc sống hàng ngày. Với lối giáo dục, dậy bảo con như thế thì làm sao chúng ta có thể thuyết phục các cháu về lối sống đạo của mình. Tuy nhiên, điều làm tôi cảm phục khi được nghe một số phụ huynh đã nhìn nhận rằng họ cũng phải chịu trách nhiệm vì đã không làm gương sáng cho con cháu. Qua lời than van này, quí vị đã giúp tôi nhớ lại rằng, điều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng chứng từ của mình. Đây cũng là điều mà các nhà lãnh đạo các tôn giáo thường quả quyết rằng con người ngày nay cần nhiều nhân chứng sống hơn bao giờ hết. Và, Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng hôm nay là guơng mẫu trong sứ mạng làm chứng như thế.

Anh chị em thân mến,

Trước khi tìm hiểu để rút ra bài học chứng nhân mà Gio-an để lại, chúng ta hãy ôn lại bối cảnh xã hội và các sinh hoạt tôn giáo dưới thời Gio-an xuất hiện. Hẳn anh chị em vẫn còn nhớ rằng đời sống và các sinh hoạt tôn giáo của dân Do Thái được nuôi dưỡng bởi truyền thống ngôn sứ. Các vị ngôn sứ đã đóng một vai trò thật quan trọng trong việc nuôi dưỡng niềm tin của dân chúng hướng về ngày cứu độ. Tiên tri Ma-la-ki là vị ngôn sứ đã xuất hiện khoảng 450 năm trước khi Gioan đến. Khoảng thời gian 450 năm không là một giai đoạn ngắn, ít nhất cũng trải qua 4, 5 thế hệ. Vì không được huớng dẫn bởi các ngôn sứ, cho nên thời gian này có thể được ví như khoảng thời gian dân Do Thái mò mẫm trong đêm tối. Và như vậỵ, họ không chỉ mong chờ mà còn rất cần được Ánh sáng dẫn đường chỉ lối!

Với một bối cảnh như thế, và lòng dân chúng đang mong chờ vị Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, cứu thoát họ khỏi cảnh lầm than. Vì thế, khi nghe tin Gioan xuất hiện, họ từ Giê-ru-sa-lem, khắp miền Giu-đê và vùng lân cận sông Gio-đan hân hoan kéo đến nghe ông giảng. Trái lại, thái độ của các vị lãnh đạo đền thờ lại khác. Họ sai các thầy tư tế và mấy ông thuộc phái Lê-vi đến chất vấn ông. Nhân dịp này, Gio-an đã làm chứng cho họ biết Ngài không phải là Đức Ki-tô, cũng chẳng phải là Ê-li-a hoặc là ngôn sứ gì cả. Ngài chỉ là tiếng hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đấng Cứu Thế đến như ngôn sứ Isaia đã nói.” (Ga 1: 20-23) Rồi mấy người trong nhóm Pha-ri-sêu lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đức Kitô. Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1: 26-27)

Giả như Đức Giê-su không xuất hiện và Gio-an không nói sự thật về vai trò của ông thì khách quan mà nói trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như thế; Thánh Gio-an Tẩy giả, với lối sống khổ hạnh và lời rao giảng có sức lôi cuốn mãnh liệt, có thể bị ngộ nhận là Đấng Cứu Thế mà tòan dân đang mong chờ. Gioan đã không chỉ làm chứng bằng lời nói; nhưng gương can đảm, sống theo sự thật làm cho chúng ta phải cảm phục. Gioan đuợc ví như cây sậy phất phơ trước gió, nhưng Ngài đã không ngã gục trước quyền lực của những người đến hỏi tội ông. Gio-an cũng không đánh lừa dân chúng. Ngài can đảm nói lên vai trò của nhân chứng về sự thật. Và vì sự thật mà Ngài đã bị xử tử, bị giết chết. Đó chính là con đường mà ngôn sứ phải đi: chỉ biết nói sự thật cho dù phải chết.

Gioan không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng. Ánh sáng đích thật là Chúa Giêsu. Vì thế khi Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công khai thì vai trò của Gio-an phải lu mờ. Cũng như Gio-an, chúng ta phải biết chấp nhận sự thật về mình, sự giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Bằng không, chúng ta có thể trở thành những con người bất mãn và chỉ biết đòi hỏi.

Đây là sự cao trọng trong sứ mạng của Gio-an. Chính vì biết mình là ai, và cần phải làm gì trong chương trình của Thiên Chúa, nên Gio-an đã trở thành con người vĩ đại như lời ca tụng của Đức Giêsu: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông.” Bởi vì, vai trò của Gio-an dù có cao trọng đến đâu thì ông vẫn chỉ là người dọn đường; còn chính Chúa Giê-su và những kẻ thuộc về Người mới thuộc về Nước Trời. Đó là giáo lý mới, tin vui mà Chúa Giê-su đã đem lại. Chính Gio-an cũng phải thay đổi lối nhìn và cách sống sao cho phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng về Nước Trời. Với Đức Giêsu, trong Vương Quốc của Người, chúng ta hãy cứ để cho ‘cỏ lùng và lúa tốt” cùng mọc lên, cho ‘chiên và dê’ cùng sống chung. Việc phân xử là của Chúa. Thời gian phân xử cũng thuộc về Ngài. Còn bây giờ, chúng ta hãy noi gương Chúa Cứu Thế, đi trên con đuờng mà Người đã đi, chiếu hy vọng đến những nơi tăm tối, đem tin vui tận hang cùng ngõ hẻm của thế giới; rao giảng Đấng có quyền làm cho “kẻ què được đi (trên con đường của Chúa), người điếc được nghe (tin vui cứu độ), người mù được nhìn thấy (ánh sáng) và kẻ chết được sống lại từ cõi chết”.

Tóm lại, vai trò của Gio-an là giới thiệu và dọn đường cho Đấng Cứu Thế; còn Chúa Giêsu và chúng ta là niềm hy vọng, niềm vui, nguồn sống sung mãn của Thiên Chúa cho người khác. Có như thế, niềm vui trong khi cử hành lễ Giáng Sinh không phải là việc tưởng niệm biến cố đã xẩy ra trong quá khứ; nhưng là tiếp tục công việc mà Chúa Giêsu đã làm cho những người bị thương tật, những con người bị bỏ rơi mà chúng ta nói đến ở phần trên. Ước mong ân huệ của đêm Giáng Sinh sẽ biến cuộc đời của chúng ta trở thành nhân chứng của niềm vui; niềm vui này giống như niềm vui mà sứ thần đã loan báo: “Hôm nay Đấng cứu Thế đã sinh ra” không phải tại Bê-lem nhưng bởi lối sống của chúng tôi, là những người có nhiệm vụ cao trọng hơn Gio-an Tẩy giả.

Vui lên hỡi anh chị em vì ngày cứu độ của Thiên Chúa chúng ta đã gần kề. Amen!

Wednesday, 2 December 2020

CON ĐƯỜNG NÀO CHÚA ĐÃ DỌN?

 

Trong cuộc sống chúng ta phải vượt qua bao gian nan, thử thách trên đường để đạt được đến đích điểm. Các gian nan đó có thể là những thất bại trong công việc làm ăn, con cái tự nhiên nổi chứng: đứa này hư, đứa kia nghiện, đứa khác bỏ học hoặc sự phản bội của người thân hay người thân bị mang chứng bịnh hiểm nghèo, v.v… Những trắc trở này có thể xẩy ra trong thời gian ngắn, có lúc kéo dài khiến con người mất kiên nhẫn và ảnh hưởng đến niềm tin và sức sống của chúng ta. Dĩ nhiên, đối diện và tìm những phuơng thể để san cho bằng những chỗ gồ ghề đó không phải là viêc dễ dàng. Dựa vào kinh nghiệm sống, chúng ta đều nhận ra rằng, dù con người có cố gắng đến đâu thì việc đạt đến đích điểm hoàn toàn không dựa vào sức lực của bản thân mà thôi. Duới cái nhìn của người có niềm tin, chúng ta đều có thể khẳng định rằng nếu không có việc quan phòng, trợ giúp và yêu thương của Thiên Chúa thì cho dù có vất vả cũng là uổng công!

Trong chiều hướng đó, chúng ta cùng ôn lại việc Thiên Chúa can thiệp và giúp cho dân mà Ngài đã tuyển chọn. Vì, khi nhìn lại con đường dân Do Thái đã đi khi xưa cũng giúp cho chúng ta nhìn lại con đuờng của mỗi người, rồi tìm ra những bài học cho cuộc sống. Khi tiến về đất Chúa hứa, dân Do Thái dòng dã 40 năm trường trong hoang địa; họ gặp rất nhiều khó khăn: lúc thiếu nuớc uống, khi khác thiếu ăn, lại còn phải chiến đấu với quân thù… Rồi thời gian ổn định cũng chẳng bao lâu, họ đã trải qua nhiều gian khổ khác như bị bắt làm nô lệ lưu đầy bên Babylon và bị đô hộ bởi đế quốc Roma duới thời Chúa Giêsu. Với một cảnh huống đầy khó khăn như thế, lòng dân Do Thái lúc thế này mai lại khác. Nhưng, Thiên Chúa không hề bỏ rơi dân Ngài đã tuyển chọn. Trong hoang điạ, Ngài đã sai các thiên thần dẫn đường cho dân, lúc khác lại dùng cột lửa để soi đường chỉ lối cho họ, và luôn nhắc lại lời hứa mà Ngài đã loan báo là họ sẽ là dân của Thiên Chúa.

Và ngày hôm nay, trong bài đọc thứ nhất, Ngài đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nhắc lại việc Thiên Chúa đã can thiệp khi họ bị lưu đầy bên Babylon thế nào thì ngày của Đức Mesia, Đấng Cứu Thế đến để giải thóat họ đã gần đến. Như vậy, chúng ta thấy rõ chính Thiên Chúa đã dọn đường cho dân. Điều này đã đươc đề cập trong Tin Mừng hôm nay. Đó là việc Thiên Chúa sai thánh Gioan qua lối sống và lời rao giảng báo cho dân chúng biết về Đức Kitô sắp xuất hiện. Và đây là sứ mạng và sứ điệp mà Gioan mời gọi chúng ta cùng nghe trong Mùa Vọng này.

Trước hết, khi đặt lời rao giảng của Gioan tẩy giả trong bối cảnh hoang địa, thánh sử muốn nhắc chúng ta nhớ lại kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa của dân Do Thái. Áp dụng vào hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta, tôi khám phá rằng: chỉ ở trong hoang địa chúng ta mới được hạnh phúc nhìn thấy Thiên Chúa. Tức là ở những nơi chúng ta trút bỏ hoàn toàn các mặt nạ của mình, trút bỏ kiêu ngạo, lo lắng, phân tán để lắng nghe Lời Chúa. Nếu chúng ta còn đeo những mặt nạ nói trên thì không thể có cơ hội nhìn thấy Người. Và đây là bài học thứ nhất: Hãy trút bỏ mặt nạ, sống thật với chính mình, không giả hình, không gian dối để được nên một với Chúa và dễ dàng tiếp cận nhau hơn.

Chính trong hoang địa Gioan tiền hô đã gặp gỡ Thiên Chúa và nhận ra sứ mạng cũng như sứ điệp mà Chúa muốn ông làm, đó là kêu gọi dân chúng “Hãy dọn sẵn con đường của Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Người đi….”. Giờ đây chúng ta hãy tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi:  Đường của mình hay Đường của Chúa? Ai dọn đuờng cho Chúa đến? Ai sửa lối cho thẳng để Người đi?

Như anh chị em đã biết, vai trò của Gioan chỉ là người giới thiệu về Đức Kitô, vì thế sứ điệp của ông vẫn chưa hòan hảo. Gioan không làm cách mạng, Ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc giục mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Làm theo những lời dậy bảo của Gioan đã là điều tốt. Nhưng, lời mời gọi và yêu cầu của Đức Giêsu vuợt trên sứ điệp của Gioan. Vì thế, chúng ta thay vì dọn đường sửa lối để Chúa đến, chúng ta cùng đi con đường của Chúa.

Đó chính là:

Con đường từ bỏ để giới thiệu Chúa cho nhau. Giống như Gioan Tiền Hô, chúng ta không kêu gọi sự chú ý đến chính mình. Chúng ta đến để giới thiệu và chỉ cho người ta thấy con đường của Chúa. Mượn lời của Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng công bố: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người.” Từ bỏ vinh dự cao quí và lui về phía sau để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài qua sứ mệnh mà chúng ta đã lĩnh nhận là điều tuy cần thiết nhưng rất khó thực hiện. Qua hành động như thế, chúng ta không hoạt động cho vinh quang của mình mà làm cho Danh Chúa được cả sáng hơn. Trong Chúa Giêsu, con đường từ bỏ đã đến mức kiện toàn, như lời của Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê như sau “Đức Giê-su Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa…. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang… trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá….”

Con đường yêu thương: Người đã yêu thương ngay khi chúng ta đang là tội nhân; giờ đây nhờ Người mà chúng ta được trở nên công chính. Tình yêu của Người không bút mực hay ngôn từ nào có thể diễn tả hết. Người yêu thương chúng ta và yêu thuơng đến cùng, hạ mình xuống rửa chân như dấu chỉ phục vụ hết mình. Trong Tình yêu của Chúa Giêsu thì không có biên cương, không còn nô lệ hay tự do… không còn kẻ giàu hay người nghèo, kẻ sang hay người hèn; tất cả đều nên một trong lòng mến của Người. Tất cả mọi luật lệ trên trần gian, ngay cả những khỏan luật tôn giáo do con người đặt ra cũng không ngăn cản được tình yêu của Chúa Giêsu, như việc Người chữa lành các bịnh nhân trong ngày hưu lễ. Lề luật chỉ là phương tiện để phục vụ con người. Con nguời không thể vịn vào lề luật để bóp nghẹt tình yêu hay ngăn chận người ta đến với Thiên Chúa là nguồn suối yêu thương.

Con đường tha thứ như đã được thứ tha. Khi chúng ta biết rằng chúng ta được tha thứ và được cứu độ bởi lòng thương xót của Thiên Chúa trong Đức Giêsu là lúc chúng ta không còn để cho ‘cái tôi’ làm chủ mình nữa; nhưng trở nên mạnh mẽ và dũng cảm hơn trong yêu thương như chúng ta đã được yêu. Chúng ta nhân hậu và từ bi hơn. Chúng ta không chỉ đến với nhau bằng trái tim nhân loại nhưng là trái tim của Chúa Giêsu. Cánh cửa cuộc đời của chúng ta luôn rộng mở cho nhau, ngay cả lúc không có ai cần vào. Lúc đó, cuộc đời của chúng ta trở thành đường mở thênh thang để đón nhận nhau.

Vì thế, theo tinh thần của các bài đọc hôm nay, thay vì chúng ta dọn đường để Chúa đến thì anh chị em cùng đi con đuờng của Chúa. Và như anh chị em đã biết, chúng ta không thể cùng đồng hành với Chúa mà quên nhau. Chúng ta không thể đến với Thiên Chúa bằng một con đường khác với con đường đến với tha nhân. Ngược lại, không thể đến với tha nhân bằng con đường khác với con đường đến với Thiên Chúa. Chủ trương chỉ yêu tha nhân không cần đếm xỉa gì đến Thiên Chúa, hay ngược lại, chỉ yêu Thiên Chúa mà không đếm xỉa gì đến tha nhân đều là những tình yêu giả tạo, không thực tế. Do đó, nếu muốn đến và gặp gỡ Thiên Chúa thì không gì tốt đẹp và chắc chắn cho bằng đến gặp gỡ Người nơi tha nhân. Và nếu muốn đến và gặp gỡ nhau thì không gì bảo đảm và tạo hạnh phúc cho nhau cho bằng đến và gặp gỡ nhau trong Thiên Chúa.

Đó là con đuờng Chúa đã dọn sẵn cho anh chị em. Người đang chờ mỗi người chúng ta cùng bước vào con đuờng đó. Amen.