Người ta nói ‘con đường dài nhất là con đường từ đầu đến bàn
tay’. Khi nói như thế, họ thường ám chỉ đến những người nói nhiều mà làm lại ít
hay không làm gì cả. Nói thì ai nói mà chẳng được, nhưng biến lời nói thành việc
làm là điều thật khó khăn. Và một khi ‘ngôn hành hợp nhất’, nghĩa là lời nói đi
đôi với việc làm thì lời mà chúng ta nói sẽ có hiệu quả hơn nhiều. Lúc đó, chứng
nhân đã sống đúng với chứng từ của mình. Trong trường hợp như thế, chứng nhân
không có lối sống chạy theo đám đông, hay làm để chiều lòng người khác; nhưng
là sống thật với điều mà người đó xác tín và lối sống như thế luôn để lại gương
sáng cho người khác noi theo. Quả thật, tuy chứng từ cần thiết nhưng người sống
trong thế giới ngày nay cần nhiều chứng nhân hơn các chứng từ.
Trở lại hoàn cảnh thực tế mà chúng ta đang sống. Ai cũng có
thể nhìn ra mức độ mà chúng ta bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa thế tục. Các bậc phụ
huynh đang phải đối diện với những xáo trộn bởi quan niệm và cách thức sống đạo
do con cái họ gây ra. Đối với các ngài thì việc sống đạo hầu như tập trung
trong nhà thờ với các nghi thức phụng tự. Làm gì cũng được miễn sao chu toàn bổn
phận như tuân giữ các giới răn, và nhất là đừng bao giờ bỏ tham dự Thánh Lễ
ngày Chúa Nhật. Trái lại, con cháu của họ xem ra không mấy thiết tha và mặn nồng
với các nghi lễ phụng vụ. Bù vào đó là tinh thần công bằng và cách xử thế tôn
trọng sự thật của các cháu rất đáng được tôn dương. Bởi thế, hai bên khó gặp
nhau. Cuối cùng phần thua vẫn nghiêng về phía cha mẹ.
Thật ra, trước khi trách các cháu, chúng ta cũng nên dành đôi
phút trong Mùa Vọng này để nhìn lại chính mình. Chúng ta hãy tự hỏi là mình đã
chuẩn bị môi trường và lối sống đạo như thế nào để con cái của chúng mình có thể
đứng vững trước sự bành trướng của nền văn minh thế tục. Một môi trường lành mạnh,
một thói quen đạo đức phải được xuất phát từ trong gia đình. Gia đình là cái
nôi, là môi trường đầu tiên đào tạo và có sức ảnh hưởng trên tương lai của các
cháu sau này.
Sau đây là một vài thí dụ cụ thể. Tuy rất cũ, nhưng lại được
chúng mình lập đi lập lại nhiều lần. Vẫn biết chửi thề không phải là tội trọng,
chỉ hơi khó nghe, nhưng cũng khiến cho con người thoát được nỗi bực tức nếu biết
dừng lại đúng lúc. Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể dậy con cái mình bớt tật
xấu này trong khi đó mỗi khi mở miệng ông bố luôn bắt đầu bằng câu “ĐM mày, tao
đã bảo là đừng chửi thề, thế mà mày lại cứ văng tục” Hay có bà mẹ kia dậy con
mình đừng nói dối. Nhưng ngay sau đó, mẹ dặn con rằng: nếu Bác A gọi điện thoại
cho mẹ thì con hãy nói với bác là mẹ con dặn con nói với bác rằng mẹ con không
có mặt ở nhà nhé. Rồi có câu chuyện mà các cháu kể lại cho nhau rằng mẹ hay dặn
tôi là đừng nói về người khác, thế mà mẹ có thể ngồi hằng giờ bên điện thoại với
bạn của mẹ để nói về chuyện của người khác.
Đấy là những trường hợp cụ thể mà chúng ta thường gặp thấy
trong cuộc sống hàng ngày. Với lối giáo dục, dậy bảo con như thế thì làm sao
chúng ta có thể thuyết phục các cháu về lối sống đạo của mình. Tuy nhiên, điều
làm tôi cảm phục khi được nghe một số phụ huynh đã nhìn nhận rằng họ cũng phải
chịu trách nhiệm vì đã không làm gương sáng cho con cháu. Qua lời than van này,
quí vị đã giúp tôi nhớ lại rằng, điều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống
đúng chứng từ của mình. Đây cũng là điều mà các nhà lãnh đạo các tôn giáo thường
quả quyết rằng con người ngày nay cần nhiều nhân chứng sống hơn bao giờ hết. Và,
Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng hôm nay là guơng mẫu trong sứ mạng làm chứng
như thế.
Anh chị em thân mến,
Trước khi tìm hiểu để rút ra bài học chứng nhân mà Gio-an để
lại, chúng ta hãy ôn lại bối cảnh xã hội và các sinh hoạt tôn giáo dưới thời
Gio-an xuất hiện. Hẳn anh chị em vẫn còn nhớ rằng đời sống và các sinh hoạt tôn
giáo của dân Do Thái được nuôi dưỡng bởi truyền thống ngôn sứ. Các vị ngôn sứ
đã đóng một vai trò thật quan trọng trong việc nuôi dưỡng niềm tin của dân
chúng hướng về ngày cứu độ. Tiên tri Ma-la-ki là vị ngôn sứ đã xuất hiện khoảng
450 năm trước khi Gioan đến. Khoảng thời gian 450 năm không là một giai đoạn ngắn,
ít nhất cũng trải qua 4, 5 thế hệ. Vì không được huớng dẫn bởi các ngôn sứ, cho
nên thời gian này có thể được ví như khoảng thời gian dân Do Thái mò mẫm trong
đêm tối. Và như vậỵ, họ không chỉ mong chờ mà còn rất cần được Ánh sáng dẫn đường
chỉ lối!
Với một bối cảnh như thế, và lòng dân chúng đang mong chờ vị
Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, cứu thoát họ khỏi
cảnh lầm than. Vì thế, khi nghe tin Gioan xuất hiện, họ từ Giê-ru-sa-lem, khắp
miền Giu-đê và vùng lân cận sông Gio-đan hân hoan kéo đến nghe ông giảng. Trái
lại, thái độ của các vị lãnh đạo đền thờ lại khác. Họ sai các thầy tư tế và mấy
ông thuộc phái Lê-vi đến chất vấn ông. Nhân dịp này, Gio-an đã làm chứng cho họ
biết Ngài không phải là Đức Ki-tô, cũng chẳng phải là Ê-li-a hoặc là ngôn sứ gì
cả. Ngài chỉ là tiếng hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đấng Cứu
Thế đến như ngôn sứ Isaia đã nói.” (Ga 1: 20-23) Rồi mấy người trong nhóm
Pha-ri-sêu lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đức Kitô.
Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa
các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai
dép cho Người.” (Ga 1: 26-27)
Giả như Đức Giê-su không xuất hiện và Gio-an không nói sự thật
về vai trò của ông thì khách quan mà nói trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như
thế; Thánh Gio-an Tẩy giả, với lối sống khổ hạnh và lời rao giảng có sức lôi cuốn
mãnh liệt, có thể bị ngộ nhận là Đấng Cứu Thế mà tòan dân đang mong chờ. Gioan
đã không chỉ làm chứng bằng lời nói; nhưng gương can đảm, sống theo sự thật làm
cho chúng ta phải cảm phục. Gioan đuợc ví như cây sậy phất phơ trước gió, nhưng
Ngài đã không ngã gục trước quyền lực của những người đến hỏi tội ông. Gio-an
cũng không đánh lừa dân chúng. Ngài can đảm nói lên vai trò của nhân chứng về sự
thật. Và vì sự thật mà Ngài đã bị xử tử, bị giết chết. Đó chính là con đường mà
ngôn sứ phải đi: chỉ biết nói sự thật cho dù phải chết.
Gioan không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh
sáng. Ánh sáng đích thật là Chúa Giêsu. Vì thế khi Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công
khai thì vai trò của Gio-an phải lu mờ. Cũng như Gio-an, chúng ta phải biết chấp
nhận sự thật về mình, sự giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về
mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Bằng không, chúng ta có thể
trở thành những con người bất mãn và chỉ biết đòi hỏi.
Đây là sự cao trọng trong sứ mạng của Gio-an. Chính vì biết
mình là ai, và cần phải làm gì trong chương trình của Thiên Chúa, nên Gio-an đã
trở thành con người vĩ đại như lời ca tụng của Đức Giêsu: “Tôi nói thật với anh
em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy
giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông.” Bởi vì, vai
trò của Gio-an dù có cao trọng đến đâu thì ông vẫn chỉ là người dọn đường; còn
chính Chúa Giê-su và những kẻ thuộc về Người mới thuộc về Nước Trời. Đó là giáo
lý mới, tin vui mà Chúa Giê-su đã đem lại. Chính Gio-an cũng phải thay đổi lối
nhìn và cách sống sao cho phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng về Nước Trời.
Với Đức Giêsu, trong Vương Quốc của Người, chúng ta hãy cứ để cho ‘cỏ lùng và
lúa tốt” cùng mọc lên, cho ‘chiên và dê’ cùng sống chung. Việc phân xử là của
Chúa. Thời gian phân xử cũng thuộc về Ngài. Còn bây giờ, chúng ta hãy noi gương
Chúa Cứu Thế, đi trên con đuờng mà Người đã đi, chiếu hy vọng đến những nơi tăm
tối, đem tin vui tận hang cùng ngõ hẻm của thế giới; rao giảng Đấng có quyền
làm cho “kẻ què được đi (trên con đường của Chúa), người điếc được nghe (tin
vui cứu độ), người mù được nhìn thấy (ánh sáng) và kẻ chết được sống lại từ cõi
chết”.
Tóm lại, vai trò của Gio-an là giới thiệu và dọn đường cho Đấng
Cứu Thế; còn Chúa Giêsu và chúng ta là niềm hy vọng, niềm vui, nguồn sống sung
mãn của Thiên Chúa cho người khác. Có như thế, niềm vui trong khi cử hành lễ
Giáng Sinh không phải là việc tưởng niệm biến cố đã xẩy ra trong quá khứ; nhưng
là tiếp tục công việc mà Chúa Giêsu đã làm cho những người bị thương tật, những
con người bị bỏ rơi mà chúng ta nói đến ở phần trên. Ước mong ân huệ của đêm
Giáng Sinh sẽ biến cuộc đời của chúng ta trở thành nhân chứng của niềm vui; niềm
vui này giống như niềm vui mà sứ thần đã loan báo: “Hôm nay Đấng cứu Thế đã
sinh ra” không phải tại Bê-lem nhưng bởi lối sống của chúng tôi, là những người
có nhiệm vụ cao trọng hơn Gio-an Tẩy giả.
Vui lên hỡi anh chị em vì ngày cứu độ của Thiên Chúa chúng ta
đã gần kề. Amen!
No comments:
Post a Comment