Chúng ta bước sang tuần thứ Tư Mùa Vọng. Chỉ còn vài ngày nữa
là đến Lễ Giáng Sinh. Bầu khí mừng Lễ Giáng Sinh năm nay xem ra không được tưng
bừng và nhộn nhịp như các năm trước. Chúng ta vẫn đang phải gánh chịu những hiểm
họa do Covid-19 gây ra. Tuy rằng mức độ lây nhiễm do Covid 19 gây ra tại Úc đã
được khống chế và nằm trong tầm kiểm soát của những người có trách nhiệm. Từ đó,
tình hình cũng được nới lỏng hơn. Nhà thờ và các nơi thờ phượng được mở cửa lại,
số người tham dự tăng hơn. Nhưng nhìn qua thảm cảnh do tình trạng đại dịch bên
các nước khác ở Âu Châu, Á châu và Mỹ Châu cũng khiến chúng ta nên nhớ rằng
Covid-19 vẫn còn đang nằm đâu đó chờ ngày bộc phát. Chúng ta vẫn phải cẩn thận
trong việc tiếp xúc, nhất là cần tuân theo những quy định giãn cách của chính
quyền.
Bên cạnh nạn đại dịch mà chúng ta đang phải gánh chịu, còn có
các thiên tai như bão tố, lụt lội, cháy rừng, v.v… ngoài ra chúng ta còn chứng
kiến những cảnh thật thương tâm. Vẫn còn nhiều cảnh đời bất hạnh. Không thiếu
những trẻ em sống trong hoàn cảnh éo le trước sự đổ vỡ của cha mẹ mà hậu quả là
sự cô đơn, thiếu vắng tình thương mà các cháu phải gánh chịu. Những nạn nhân bị
lạm dụng về tinh thần và thể xác bởi việc lạm dụng quyền uy của một số vị lãnh
đạo. Còn có những cụ già trong các viện dưỡng lão mòn mỏi ngồi bên khung cửa để
trông chờ và đón đợi con cháu đến thăm. Biết bao nhiêu gia đình đã ngậm ngùi tiễn
chân người thân qua khung cửa kính tại các bịnh viện trong mùa đại dịch này. Làm
sao chúng ta có thể vui khi lâm vào những tình huống như thế này!
Nói gì thì nói, trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng
Chúa vẫn đến trong hoàn cảnh riêng của từng người. Khi bước vào trần gian, Người đã không ngần
ngại bước đến với con người trong hoàn cảnh mỏng dòn, bội ước và đầy tham vọng
của họ. Đây là sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Người đã đi bước trước để làm
gương cho con cháu Người. Người chấp nhận con đường nhập thể để hòa mình và
chia sẻ mọi hoạn nạn khổ đau của con người.
Như mọi người, Con Thiên Chúa bắt đầu con đường đến với con
người bằng cách mặc lấy thân phận của một thai nhi. Việc nhập thể này không tùy
thuộc vào sự cộng tác của người nam, như lời Mẹ đã thưa với sứ thần trong bài
Tin mừng hôm nay rằng Mẹ không biết đến việc vợ chồng. Trước thắc mắc hợp lý này,
sứ thần đã tiết lộ cho Mẹ biết có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Nếu
chúng ta tin rằng vũ trụ và mọi việc xẩy ra trong đó là do bàn tay của Thiên
Chúa thì việc làm cho một trinh nữ thụ thai có là gì đâu với quyền năng của Người.
Vấn đề chủ yếu của chúng ta là tin chứ không phải lý luận. Dù chúng ta khôn
ngoan đến đâu, giải thích tường tận đến mức độ nào thì biến cố thụ thai của Mẹ
hôm nay vẫn là một mầu nhiệm hay một phép lạ mà chỉ có thể đáp trả và đón nhận
bằng lòng tin.
Tất cả nói lên sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng yêu thương thế
gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin thì được cứu độ. Việc nhập thể là việc của
Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là nhân vật chính. Thiện Chúa nhập thể chứ không
phải chúng ta. Tuy là phép lạ, nhưng con đường đến làm người cũng cần có một bà
Mẹ. Hình ảnh của người Mẹ này đã được
tiên báo ngay sau khi con người sa ngã và sự xuất hiện của Mẹ đã được ám chỉ và
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Cựu Ước. Và hôm nay, qua việc truyền tin của sứ
thần và lời xin vâng, Mẹ đã chính thức xuất hiện trong lịch sử cứu độ và trong
các chặng đường cứu độ mà Con Mẹ, Đức Giê-su sẽ đi vào.
Ngay trong giây phút này và xuyên suốt hành trình sống, tình
yêu và ân huệ của Thiên Chúa bao bọc Mẹ. Tuy được chở che như thế, nhưng Mẹ vẫn
phải trải qua trăm cay nghìn đắng như lời tiên báo của cụ Si-mê-ôn về Mẹ như
sau: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Lời tiên báo này đã
trở thành sự thật khi Mẹ ngậm ngùi đứng dưới chân Thánh Giá chứng kiến Con Mẹ
chết. Lúc đó tâm hồn Mẹ cũng chết lặng. Nhưng không dừng lại. Cả một hành trình
đầy phiêu lưu, vượt qua mọi thử thách, nhưng Mẹ vẫn một niềm cậy trông để sống
lời xin vâng đó. Mẹ là Đấng đầy ân phúc vì có Chúa ở cùng. Mẹ là nguồn suối yêu
thương không bao giờ cạn.
Con của Mẹ, hài nhi Giê-su và toàn thể nhân loại sau này đã được
cưu mang và lớn lên trong tình yêu đó để chúng ta có thể nói rằng: với sự cộng
tác trọn vẹn và phó thác của Mẹ đã khiến một biến cố phi thường xẩy ra một cách
thật bình thường. Mẹ là người đã sẵn sàng vuợt qua mọi rào cản, mọi xáo trộn, mọi
nghịch cảnh để Con Thiên Chúa bước vào cuộc đời Mẹ và bước vào thế giới qua
cung lòng của Mẹ. Như mọi bào thai, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa đã đón nhận sự
nuôi dưỡng, chăm sóc từ những giọt máu đào và dòng sữa yêu thương của Mẹ.
Nói về Mẹ thì không bao giờ hết, chẳng có ngôn ngữ nào trên
trần gian có thể giúp con người bộc lộ và diễn tả hết tâm tình về Mẹ, nhất là
tình yêu của người Mẹ, một thứ tình không có gì trên trần gian có thể bộc lộ ý
nghĩa trọn vẹn của nó. Tình yêu đích thực có sức mạnh khủng khiếp như thế, thay
đổi và hoán cải. Thật vậy, Thánh Gio-an nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là
tình yêu. Tình yêu có sức mạnh biến đổi của và bởi chính Thiên Chúa. Đây không
chỉ là chuyện xảy ra với Mẹ mà là chuyện xảy ra với toàn thế giới. Thiên Chúa yêu
thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một của Ngài để chúng ta có được sự sống nhờ
Con của Người.
Chính tình yêu đích thực đã đánh động, cảm hóa và làm cho con
người phải thay đổi. Bởi tình yêu, Mẹ đã được đặt để trổi vượt hơn mọi loài thụ
tao. Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã ban tràn đầy ân sủng cho Mẹ. Sau cùng, với
tâm tình tạ ơn, Mẹ đã xin vâng bằng chính cuộc sống phó thác của Mẹ. Trong tâm
tình đó chúng ta học và nhận ra rằng chỉ có sống trong yêu thương mới lĩnh nhận
đủ năng lực để thay đổi, và sau đây là một trải nghiệm.
Truyện kể sau đây tuy mang tính hư cấu nhưng phản ảnh một sự
thật nói lên động lực giúp con người thay đổi. Câu chuyện được kể lại như sau: Có
một thanh niên kia, sinh ra và lớn lên trong một gia đình đạo hạnh. Cả nhà, cả
xóm đều là người công giáo. Nhưng anh thuộc loại ngỗ nghịch và có chất phản loạn.
Anh gia nhập băng đảng, phá làng phá xóm, nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp, xì ke,
ma túy, cướp của, thứ nào anh cũng thử qua. Nói chung anh là loại người bại hoại
trong xóm giáo. Cuối cùng anh bị bắt đi tù. Trong trại tù anh có nhiều thời
gian để suy nghĩ về những thói hư tật xấu và tự hứa sẽ thay đổi. Đến ngày mãn hạn
tù. Anh hân hoan bước ra và tràn đầy hy vọng vào cuộc sống tương lai.
Trong khi thi hành án treo trong thời gian còn lại, anh đã gặp
và làm quen với một thiếu nữ, chị mới từ nơi khác dọn đến. Mối quan hệ của họ
giống như những nhân vật trong tiểu thuyết ngôn tình. Vừa gặp mặt tưởng chừng như
đã quen biết nhau lâu rồi. Họ yêu nhau, cưới nhau và sống hạnh phúc bên nhau.
Sau này, anh đã tâm sự: “Trước khi tôi gặp nhà tôi, có vẻ như
tôi không biết những từ xinh đẹp, tôn trọng và yêu mến có ý nghĩa gì! Nhưng khi
tôi gặp vợ tôi và cảm nhận sự yêu thương của nàng, tôi dường như nhìn thấy vẻ đẹp
trên khắp thế giới, đâu đâu cũng là màu hồng. Tôi trân trọng từng giây từng
phút bên cạnh nhà tôi, dường như cả thế giới này đều tập trung quanh nàng. Tôi,
nhìn lại những việc làm trong thời gian qua, cảm thấy kinh hoàng khi khám phá
ra trong quá khứ tôi đã lạm dụng tình yêu và sự tín thác của người khác chỉ để
đạt sự khoái cảm cho riêng mình. Vì vợ tôi, từ ngày đó tôi không dám có những ý
nghĩa tục tĩu với người khác nữa. Tôi đã ngừng hút thuốc và chỉ uống rượu nhẹ mang
tính xã giao từ ngày quen cô ấy. Tôi ngạc nhiên về mức độ hoán cải và thay đỗi
trong cuộc sống của tôi. Tôi cảm ơn Chúa vì tình yêu của Chúa đã ban cho chúng
tôi qua việc gặp gỡ vợ tôi. Nàng đã và đang mang lại ý nghĩa và giá trị cho tất
cả những gì tôi làm trong cuộc sống.”
Tuy rằng tình yêu nhân loại vẫn còn bị giới hạn, nhưng với sự
chân thật mà họ trao cho nhau trong tình yêu có thể làm con người thay đổi,
phương chi là mối tình chung thủy của Thiên Chúa, Đấng yêu chúng ta mãi mãi. Cụ
thể là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Đức Maria cưu
mang hôm nay là một biến cố vô cùng trọng đại diễn tả mối tình tuyệt hảo của
Thiên Chúa dành cho dân của Người. Ngày hôm nay, khi ôn lại mối tình cao cả
trong hành trình nhập thể này cũng là cơ hội giúp chúng ta vui lên, vì Chúa đã
đến và cư ngụ giữa chúng ta để qua việc đón nhận Người, chúng ta sẽ là những
cánh tay nối dài nguồn suối tình yêu của Thiên Chúa cho nhau.
Ước chi lời sứ thần “không có gì mà Thiên Chúa không thể làm
được’ đã ứng nghiệm qua cuộc sống xin vâng của Mẹ thế nào thì cũng tác động
trong cuộc sống xin vâng của chúng con như thế. Amen!
No comments:
Post a Comment