Hôm nay, chúng ta nghe
nói về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và vị kinh sư. Ông này dường như có thiện
cảm với Chúa hơn các kinh sư khác, cho nên câu chuyện hôm nay không căng thẳng
như các câu chuyện khác. Một câu chuyện có hậu, một cuộc gặp gỡ duy nhất trong
đó ông kinh sư đã đồng ý với quan điểm của Đức Giê-su. Kết quả câu chuyện là vị
kinh sư đã công khai ca ngợi về những gì Đức Giê-su đã nói.
Trước hết, ông biết
danh tiếng và sự khôn ngoan của Người qua các cuộc tranh luận với các nhóm
khác, cụ thể là những người thuộc nhóm Xa-đốc. Vì thế, hôm nay với bổn phận của
một người chuyên môn nghiên cứu, ông đã đến gặp Đức Giê-su để tìm hiểu và đào
sâu giáo lý nên đã hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào
đứng đầu.” Đây là một câu hỏi quan trọng mà ông cần biết để giảng dậy cho dân
tuân theo mà sống.
Thật ra, không có gì
mới lạ trong việc ông tìm hiểu. Các kinh sư đã tìm tòi và nghiên cứu các khoản
luật trong Cựu Ước để tìm ra điều quan trọng nhất. Họ biết tất cả mọi khoản
luật đều xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, Đấng muốn họ tuân giữ giới luật để
mãi mãi là đàn chiên thuộc về Người. Ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn cho họ biết
rằng tình yêu là nền tảng của mọi sự. Và trong trình thuật hôm nay, khi trả lời
câu hỏi của kinh sư, Đức Giê-su đã nhắc lại khoản luật quan trọng trong Cựu Ước
mà những người dân Ít-ra-en đã được dậy bảo ngay từ thủa bé, đó là “Nghe đây,
hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và
hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." Như vậy, Tình
Yêu là phương châm, là sức mạnh, là nền tảng, là ý định và là phương tiện để
con người sống theo đúng tinh thần mà Thiên Chúa truyền ban.
Trong phần đáp trả, Đức Giê-su không chỉ nhắc lại
cho chúng ta nhớ rằng Tình yêu là yếu tố chính, là nền tảng xây dựng lên các khoản
luật, mà Người còn đem đến một điều mới, không có trong truyền thống Cựu Ước, là
việc nối kết hai khoản luật lại với nhau. Người khẳng định rất rõ rằng không có
điều răn nào khác và lớn hơn hai điều răn đó. Như vậy, Yêu mến Chúa là nền
tảng, căn nguyên dẫn chúng ta đến chỗ yêu nhau.
Thật vậy, đó không chỉ là giáo huấn của Chúa mà
còn là con đường mà Đức Giê-su muốn nhắm đến nữa. Và Người cũng muốn cho những
kẻ theo Người sống theo con đường yêu thương đó. Đạo là như thế, là các nẻo yêu
thương phát sinh và qui chiều về tình yêu của Thiên Chúa. Đó là căn nguyên, là
nền tảng để chúng ta sống đạo.
Trước khi yêu Chúa, việc đầu tiên chúng ta cần
làm là cởi mở cõi lòng để nhận ra có một Thiên Chúa duy nhất là đối tượng để
chúng ta yêu, chứ không có một thần tượng nào khác ngoài Người ra. Một khi đã
nhận Người là Thiên Chúa duy nhất là lúc chúng ta đầu phục Người.
Bước kế tiếp là yêu Chúa. Tình yêu Chúa trong ta
và tình của ta dành cho Chúa là căn nguyên, là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta
sẵn sàng ra đi để yêu tha nhân. Chỉ có ai cắm rễ sâu trong Tình yêu của Chúa
thì mối tình của người đó dành cho tha nhân mới bền lâu; bằng không cũng chỉ là
những cảm xúc nhân loại, nhất thời và chóng qua.
Yêu Chúa thế nào thì yêu tha nhân như thế; bởi
tình yêu dành cho tha nhân phải đuợc phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa. Đây chính
là mẫu mực, là tiêu chuẩn của những ai muốn trở thành môn đệ Chúa. Đây là giới
răn mới mà Đức Giê-su ban thêm. Ông kinh sư đến gặp Chúa để xin Người ban cho
ông giới răn quan trọng nhất; cuối cùng ông và chúng ta nhận đuợc hai điều bằng
nhau và chẳng có điều răn nào khác lớn hơn hai điều ấy. Qua việc yêu thương tha
nhân, chúng ta đi vào chương trình và ý muốn của Thiên Chúa.
Vẫn biết là như thế. Nhưng chúng ta cũng nên cụ thể
hóa tình yêu của chúng ta dành cho những người lân cận bằng hành động. Đây
không phải là việc dễ làm. Cho nên chúng ta cần Chúa. Chỉ những ai yêu mến
Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực thì sẽ biết diễn tả tình yêu của
họ một cách cụ thể cho tha nhân. Chúng ta không yêu và trao ban cho người khác
những gì mình dư thừa, cũng không chỉ là việc trao ban những gì mình đang nắm
giữ; mà là việc trao ban mang ý nghĩa dâng hiến như Đức Giê-su đã thực hiện,
bởi vì chúng ta nhận ra hình ảnh của Đức Giê-su nơi người đó. Như chúng ta đã
được đón nhận việc phục vụ và dâng hiến của Đức Giê-su thế nào thì tha nhân
cũng vậy. Họ thật xứng đáng đón nhận quà tặng của Chúa qua việc chia sẻ của
chúng ta. Như vậy, khi chúng ta trao cho nhau điều gì thì đó không phải việc bố
thí, nhưng đó là đáp ứng nhu cầu của nhau. Khi làm như thế, chúng ta tôn trọng
và giúp cho họ được phát triển toàn diện. Vì thế, yêu mến Chúa và yêu người là
hai điều gắn chặt với nhau, không gì có thể tháo gỡ và tách biệt hai giới răn
này ra khỏi nhau.
Nhưng trên thực tế, yêu mến Chúa là Đấng mà chúng
ta không nhìn thấy thì dễ, còn thương tha nhân mà chúng ta gặp hàng ngày thật
khó. Đã nhiều lần chúng ta lạm dụng cụm từ yêu thương khi mạnh dạn tuyên xưng
mình rất yêu Chúa mà lại không nhìn thấy hay làm ngơ trước các nhu cầu của tha
nhân là những người đang sống gần bên ta, thế nghĩa là làm sao! Để minh họa cho
ý nghĩ nói trên, xin mời anh chị em theo dõi câu chuyện. Ý chính của truyện kể
này được trích dẫn trong câu chuyện của bài suy niệm hàng ngày mà tôi nhận được
từ Cha Minh Anh, thuộc Tổng Giáo Phận Huế. Truyện được kể lại như sau:
“Vào
một mùa đông lạnh giá, có người hành khất đi từ nhà nầy sang nhà nọ xin bố thí
nhưng không ai tỏ lòng thương xót hoặc quan tâm đến hoàn cảnh của anh. Người ta
đóng sầm cánh cửa, cũng như đóng cõi lòng, trước mặt anh, kèm theo những lời
miệt thị. Ít ai tự hỏi người ăn xin ấy có thất vọng trước lối đối xử của những
người đồng loại hay không! Ông tiếp tục kéo dài cuộc sống trong nỗi bất hạnh
của chính mình và của đời ban cho!
Thế
rồi vào một buổi sáng tuyết giá, lạnh thấu xương, người hành khất đó được tìm
thấy bên vệ đường với ống chân bị gẫy. Nguyên do không lẽ vì thời tiết quá
lạnh, rồi ông bị vấp té khiến ống chân bị gẫy chăng! Một cụ già nhìn thấy và
tìm cách đưa anh vào bệnh viện. Khi dân chúng trong thị trấn được tin một người
nghèo túng, ăn xin bị gẫy chân, họ cảm thấy ân hận với lối hành xử trước đây
đối với anh. Giờ đây, trước hoàn cảnh mới anh thật đáng thương. Vài người đến bịnh
viện thăm viếng, an ủi và làm bạn với anh, người khác còn đem thức ăn và áo
xống cho anh.
Đến
ngày anh rời bệnh viện, người trong thị trấn đã quyên góp được một số tiền cho
anh làm lộ phí. Họ còn cho anh thêm ít quần áo ấm để chống chọi với cơn lạnh
của mùa đông lạnh giá. Đến bây giờ họ mới biết cái lạnh của con tim tác hại ra
sao!
Trước
khi rời thị trấn, người hành khất điện tín cho vợ, “Em yêu, hãy ngợi khen Chúa,
vì một phép lạ đã xảy đến với anh, anh bị gẫy chân”.
Lối hành xử của dân chúng trong thị trấn nói trên
nhắc cho chúng ta nhìn lại cách sống của chính mình. Thờ phượng và tạ ơn Thiên
Chúa qua các nghi thức phụng vụ, dù là trực tuyến, để diễn tả lòng mến Chúa của
chúng ta thì siêng và không dám bỏ một Chúa Nhật nào. Nhưng trong cuộc sống
chúng ta lại thường xuyên quên vế thứ hai, quan trọng như vế thứ nhất. Tuy thờ
phượng và yêu mến Chúa là điều tốt, nhưng quên yêu thương anh em mình thì xem
ra mình là kẻ nói dối, “vì ai không yêu thương người anh chị em mà họ trông
thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Gio-an 4:
20b) Vì thế, chúng ta phải tìm cách để cho các ân huệ của Chúa có chỗ thoát ra
thì Chúa mới có cơ hội bù đắp vào. Nói khác đi, chúng ta đừng sợ khi trao ban,
đừng sợ yêu vì khi yêu và trao ban là lúc chúng ta cho Chúa cơ hội để Người ban
nhiều hơn mà làm cho cuộc sống chúng ta được sung mãn và tràn đầy tình của Chúa
hơn. Amen!
No comments:
Post a Comment