Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta long trọng mừng
lễ Chúa Ki-tô, Vua vũ trụ. Đây cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Trong
năm qua, chúng ta phải đối diện với đại dịch do Covid-19 gây ra. Bao nhiêu ý
nghĩ tiêu cực đã đến trong đầu. Nghi nan, thiếu tự tin, hoang mang, lo sợ và mất
bình an đã khiến chúng ta sống mất vui. Nhưng, chính thời gian này chúng ta cũng
được chứng kiến bao điều kỳ diệu xẩy đến cho mỗi cá nhân, từng gia đình, cộng
đoàn giáo xứ và toàn thế giới. Mỗi giây phút diệu kỳ, từng sự việc xẩy đến
trong năm qua đều dẫn chúng ta đến cao điểm của ngày Lễ hôm nay, ngày mà theo ước
nguyện, muôn dân muôn nước sẽ đầu phục, quì gối, bái lậy và tuyên xưng Đức Chúa
là Vua, Chúa tể của mọi tạo vật, Chúa của mỗi cá nhân và của toàn thể nhân loại
này.
Không giống như các chế độ quân chủ, sinh ra các vị lãnh đạo
độc tài lạm dụng uy quyền đã xuất hiện và biến mất trên thế giới. Chúa Ki-tô
Vua chúng ta, với khí cụ hy sinh, tình yêu và phục vụ, sẽ trị vì mãi mãi qua muôn
thế hệ. Tuy là như thế, nhưng đây cũng là dịp để chúng ta ngồi xuống mà nhìn lại
ý nghĩa điều mà chúng ta tuyên xưng: Đức Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa của chúng
ta.
Đâu là vương quốc của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Thánh
Gio-an, trong bài Tin Mừng hôm nay đã nhắc cho chúng ta nhớ rằng: sau khi Chúa
bị bắt và trao nộp cho quan chức thời đó, và trong cuộc thẩm vấn, tổng trấn
Phi-la-tô đã hỏi Người rằng: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Trong câu
trả lời, dù Đức Giê-su đã không nói trực tiếp đến ngôi vị của Người, nhưng cũng
hé mở cho Phi-la-tô và chúng ta biết về vương quyền và vương quốc của Người. Đó
không phải là một thể chế thuộc về thế gian này. Và những người thuộc về thế
gian này không có quyền gì trên Người. Ngay quyền bính mà quan tổng trấn
Phi-la-tô đang hành xử cũng không thuộc về ông nếu Thiên Chúa không ban cho ông
ta.
Quả thật, như Lời Chúa đã phán: “Nước Ta không thuộc về chốn
này.” Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu chứng thực rằng Nước của Người chắc chắn
không thuộc về thế giới này. Vương quyền của Chúa không phải là một cái bẫy quyền
lực, uy nghi hay sự giàu có như các vua chúa trần gian ra sức dùng mọi cách để
chiếm giữ và bảo vệ cho bằng được dù phải hy sinh những kẻ thuộc về họ. Đức
Giê-su cũng kiên quyết loại bỏ mọi phương thức bạo lực và lạm dụng quyền bính
như các vua chúa trần gian đã thực hiện.
Không giống như các cuộc lên ngôi của vua chúa trần gian, Đức
Giê-su đã lên ngôi bằng cái chết trên Thập Giá, đó chính là đỉnh cao sứ vụ mà Đức
Giê-su đem đến để bộc lộ tình yêu của Người dành cho toàn dân. Cái chết thảm
thương của Đức Giê-su dưới bàn tay của những kẻ đô hộ khiến chúng ta không thể
nào tin Người thuộc về dòng dõi của bậc đế vương, hậu duệ của vua Đa-vít. Ngoài
ra, Đức Giê-su đã chết như một tội nhân thì làm sao Người có thể giải phóng
Ít-ra-en ra khỏi ách nô lệ của đế quốc Rô-ma được.
Vậy Đức Giê-su là vua như thế nào?
Các tín hữu tiên khởi đã nhìn nhận và gọi Đức Giê-su là vua,
là Chúa của họ và tin rằng vương quốc mà Người đã thiết lập hoàn toàn khác với
các thể chế của trần gian. Đó là sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa với
Đa-vít. Chúa Giê-su là vua, là người lãnh đạo và duy nhất chỉ mình Người mới biết
cách chỉ cho họ con đường đến và về với Chúa Cha. Đức Giê-su đã không dùng các
giải pháp chính trị hay quân sự như vua Đa-vít để thống nhất đất nước, mà là
tình yêu và sự chết.
Tình yêu của Vua Giê-su được diễn tả qua việc hiến dâng trên
Thập Giá là đích điểm của các lời dậy bảo của Chúa, đã được chia sẻ trong các bài
giảng của Người, đó là sự rộng lượng, tấm lòng quảng đại, ơn tha thứ, lòng quan
tâm chăm sóc người nghèo, chữa lành bệnh tật cho kẻ bị đau ốm và kêu gọi những
người tội lỗi ăn năn. Người không chỉ ban một học thuyết, cho dù học thuyết về
tình yêu; nhưng Người đã khai mở con đường yêu thương. Con đường hay lối sống
yêu thương này đã xuất phát từ kinh nghiệm mà Đức Giê-su đã trải nghiệm với Cha
của Người, và bất cứ ai tin và sống theo Tin Mừng của Đức Giê-su đã rao giảng đều
có một trải nghiệm giống như thế. Đây là điều khiến nhiều Kitô hữu sơ khai tin
rằng Chúa Giê-su thực sự là vị vua được mong đợi từ lâu của họ. Chúa Giê-su,
vua chiến thắng đã dẫn chúng ta, không đi đến một chiến thắng trần thế thoáng
qua mà là vinh quang của cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Giê-su chết để nói lên tinh thần vâng phục của Người đối
với Chúa Cha. Đây cũng là lúc Người làm chứng cho nhân loại biết rằng Người yêu
thương và tín nhiệm Cha đến dường nào. Người ta lầm tưởng là Chúa đã thua cuộc;
nhưng ngược lại, qua mầu nhiệm Thập Giá, Đức Giê-su đã bộc lộ lòng tín thác tuyệt
đối vào Thiên Chúa khi dám hứa ban Nước của Người cho người kẻ trộm có lòng hối
cải đang chịu đóng đinh chung với Người.
Đức Giê-su đã
không chịu lùi bước, Người đã chiến đấu. Và qua sự vâng phục Thiên Chúa đã siêu
tôn Người. Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh là Vua, là Chúa của muôn dân
muôn nuớc. Qua tấm lòng hiếu kính và vâng phục, Người đã sửa lại những lỗi lầm để
ban ơn cứu độ, không chỉ cho tên gian phi, mà cho toàn thể nhân loại, trong đó
có anh, có chị và mỗi người chúng ta.
Như vậy, khi
chúng ta tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa là lúc chúng ta đầu phục
Người, trao cuộc sống vào tay Người. Vì thế, hãy chọn Đức Kitô là Vua, là Chúa và bước đi theo Người,
vì chỉ nhờ Người, với Người và trong Người chúng ta mới tìm được sự sống viên
mãn. Muốn được như vậy, chúng ta cần tựa vào Chúa. Người
chính là nguồn năng lực duy nhất giúp chúng ta tiếp tục sống và làm chứng cho
thế giới nhận ra Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Amen!
No comments:
Post a Comment