Wednesday, 27 April 2022

HÃY CHĂN DẮT VÀ YÊU THƯƠNG NHAU


Anh chị em thân mến,

Biến cố Đức Giê-su bị giết đã làm cho hoài bão, ước mơ của các môn đệ bị sụp đổ. Các ông buồn chán trở về nghề cũ làm những người chài lưới tại Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Trong lúc thất vọng như thế thì Đức Giê-su hiện ra. Trong lần hiện ra này có bẩy môn đệ, đó là “các ông Si-môn Phê-rô, Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.”

Giống như mọi lần, hôm nay Phê-rô mau mắn lên tiếng đề xuất “tôi đi đánh cá đây.” Phê-rô chỉ nói lên ý định của mình, không có ý truyền lịnh hay yêu cầu điều gì nơi các bạn đồng nghiệp. Như một vị lãnh đạo tài giỏi và nhiệt thành, ông chỉ gợi ý mời gọi việc cộng tác của các bạn và tự nguyện đi bước trước. Ông tôn trọng ý kiến hay việc đóng góp của các bạn. Các bạn của ông thấy được trách nhiệm và tinh thần cùng chia sẻ nên đã đồng thanh xin đi cùng. Tinh thần hiệp nhất trong công tác chung đã được nói đến, nhưng kết quả của việc ra khơi trong đêm hôm ấy vẫn không bắt được con cá nào hết! Có lẽ, chúng ta cũng đoán được lý do tại sao. Câu trả lời sẽ tìm thấy trong phần kế tiếp của trình thuật. Có một điểm cần anh chị em ghi nhớ, đó là theo kinh nghiệm của những ngư phủ, cá thuờng đi ăn vào ban đêm; thế mà các môn đệ đã vất vả cả đêm mà vẫn không luới đuợc con cá nào cả!

Sau một đêm vất vả các môn đệ đã mệt nhoài nên các ông chuẩn bị đi về. Ngay thời điểm ‘khi trời đã sáng’, Chúa Ki-tô không chỉ hiện đến mà Người đang đứng trên bãi biển mà các môn đệ không nhận ra Người. Điều này có nghĩa là Người hiện diện và đang đứng ở đó, lúc ánh sáng của mặt trời bắt đầu xuất hiện. Người không biến mất rồi hiện ra, Người đang đứng ở đó; nhưng các môn đệ và chúng ta (vẫn đang ở trong đêm tối) không nhận ra Người.

Cho dù các môn đệ không nhận ra Người, nhưng các ông vẫn vâng lời, làm theo điều Người dậy bảo mà thả lưới ở bên phải mạn thuyền và kết quả là các ông thu được một mẻ cá kỳ diệu bao gồm 153 con thuộc đủ mọi loại cá khác nhau. Trước kết quả này, người môn đệ được Chúa yêu thương đã nhận ra người đứng trên bãi biển là Chúa. Ông lên tiếng cho các bạn đồng nghiệp biết là “Chúa đó”. Vừa nghe bạn mình nói “Chúa đó”, Phê-rô với bản tính bộc trực, thẳng thắn và mau mắn đã lập tức nhẩy ngay xuống biển bơi vào bờ đến với Chúa.

Lời nói của người được Chúa thương yêu và hành động của Phê-rô đã để lại cho chúng ta bài học vô cùng cao quí. Đó là viêc nhận biết Chúa của chúng ta không dừng lại ở mặt cảm xúc; nhưng cần đuợc thể hiện bằng hành động: đến để gặp Chúa.

Chúa Giê-su mời các ông cùng ăn sáng đã được dọn sẵn. Thầy trò cùng ăn với nhau. Một bữa ăn sáng đơn sơ, thanh đạm nhưng đầy tình thân, đã để lại trong tâm tư của các môn đệ một trải nghiệm thật kỳ diệu, đến nỗi không một ai trong nhóm họ dám hỏi về thân thế của Người, vì tất cả đều biết Người chính là Đức Chúa của họ, là chính Đức Giê-su, bằng xuơng bằng thịt mà các ông đã theo Người trên con đường sứ vụ. Người không phải là bóng ma, mà là Đấng đã chỗi dậy từ cõi chết.

Anh chị em thân mến,

Việc ra khơi của các môn đệ hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại điều mà Đức Giê-su đã tuyên bố khi kêu gọi các ông trở thành môn đệ của Người, đó là  “hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mác-cô 1,17) Dù trong hành trình thi hành sứ vụ, Đức Giê-su đã gọi, chọn và huấn luyện các ông từ những người đánh cá chuyên nghiệp trở thành những kẻ lưới người; nhưng hiệu quả của việc tuyển chọn và huấn luyện chỉ có hữu hiệu sau khi Đức Giê-su sống lại. Chúa Ki-tô Phục Sinh, trao ban Thần Khí, năng quyền và sức mạnh để các ông ra khơi chài luới người về với gia đình Hội Thánh.

Như vậy, kết quả việc lưới cá hôm nay cho chúng ta hiểu rằng cho dù con người có nhiệt tình và hăng say đến đâu trong công việc truyền giáo mà thiếu Chúa, thì dù có đạt được thành quả hay chỉ tiêu nào đó thì cũng chỉ là thành quả dựa vào sức mình; đến khi gặp phong ba bão táp, những gì chúng ta xây dựng có thể sẽ bị sụp đổ tan tành. Việc làm như thế có thể được ví như người xây nhà trên cát vậy. Cho nên, việc đầu tiên trước khi ra khơi để rao giảng là nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, Đấng cùng đi với mình rồi sau đó mới thả lưới.

Sau khi dùng bữa sáng xong. Chúa Giê-su biết rằng đã đến lúc Người cần ủy thác cho một môn đệ trong nhóm đứng ra đảm nhận vai trò lãnh đạo, thừa hành trách vụ của người Mục Tử nhân lành mà Chúa Cha đã ủy thác. Đức Giê-su đã hy sinh mạng sống mình để yêu thương và bảo vệ đoàn chiên mà Chúa Cha đã ủy thác cho Người thế nào thì giờ đây người kế thừa trách vụ này cũng phải có tấm lòng hy sinh và yêu thương đoàn chiên như thế. Nên trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã ba lần hỏi Phê-rô “Anh có yêu mến Thầy không?” Và Phê-rô đã ba lần đáp trả “Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Cho dù trước đây, trong hành trình Thương Khó của Đức Giê-su, Phê-rô đã ba lần chối là ông không hề biết Chúa. Nhưng hôm nay, với năng lực và ân huệ của Chúa Phục Sinh, Phê-rô nhớ lại việc Thầy làm và Lời Thầy dậy trong bữa tiệc ly: “Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”

Đây chính là khuôn vàng thước ngọc để thẩm định vị trí và ơn gọi của người lãnh đạo. Người lãnh đạo không dựa vào khả năng hay sự khôn ngoan của bản thân; nhưng hoàn tòan được phát xuất từ sự đáp trả về câu hỏi “anh hay chị, ông hay bà có yêu mến Chúa không?” Yêu mến thì ra khơi, đến chỗ nước sâu cúi mình xuống múc nước mà rửa chân cho những người mà Chúa đã ủy thác cho mình chăm sóc. Làm lớn là như thế, là quì xuống mà phục vụ theo gương Thầy.

Anh chị em thân mến,

Sau khi suy niệm bài Tin Mừng về việc Chúa đến với các môn đệ hôm nay. Giống như các môn đệ, chúng ta đã nhiều lần để cho đêm tối lấn át nên không nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục sinh, Đấng đang đứng chờ đợi ta trên con đường mà chúng ta đang đi. Người hiện diện trong những lúc chúng ta gặp khó khăn. Người có mặt khi chúng ta vui cũng như lúc buồn. Người hiện diện khi chúng ta cô đơn và bí lối. Người ở đó và chuẩn bị bữa cơm tình thương rồi mời chúng ta cùng ăn với Người. Người biết rõ các nỗi yếu đuối, các cơn hoạn nạn, những lần chúng ta ngã gục, những giây phút chán nản, khiến chúng ta thất vọng…

Tóm lại, trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời Người vẫn có mặt. Người đứng đó chờ đợi lời đáp trả của chúng ta trước câu hỏi “anh chị em có yêu mến Chúa không?” Người hiện diện và biết chúng ta yêu mến Chúa nên Người đã cho phép chúng ta thừa hành nhiệm vụ của Người trong vai trò của người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì yêu.

Vì thế, dựa vào hoàn cảnh cá biệt của từng cá nhân, Chúa đã bộc lộ tình thương và sự chăn dắt của Người dành cho chúng ta. Giờ đây, theo gương Người, chúng ta cũng được mời gọi ra đi, đến với anh chị em trong hoàn cảnh của họ mà thể hiện tình yêu thương và sự chăm nom của chúng ta dành cho họ; nhất là những người nghèo đói yếu đuối, đau khổ, lạc lối hoặc đang gặp rắc rối.

Hãy chăm sóc nhau như Chúa đã chăm sóc cho chúng ta. Amen! Alleluia.

Wednesday, 13 April 2022

BÌNH AN: QUÀ TẶNG PHỤC SINH


Chúng ta cùng với toàn thể Hội Thánh mừng Lễ Chúa Phục Sinh. Sứ điệp mà chúng tôi cảm nhận là nguồn hy vọng của Chúa Phục Sinh, Đấng đem lại bình an cho thế giới. Trong niềm hy vọng, chúng ta tin rằng thế giới sẽ đổi mới, cộng đoàn giáo xứ, gia đình và người người sẽ đổi mới. Hy vọng là thế đấy, ngóng chờ trong hy vọng. Tuy nhiên, trên thực tế, bộ mặt của thế gian này dường như vẫn như thế. Tội ác vẫn tiếp tục xẩy ra. Con người vẫn sống trong lo sợ. Không biết chỗ nào mới là chốn an toàn đây! Hiện tình thế giới là thế. Chiến tranh bên Ukraine vẫn còn. Những vụ thảm sát và giết hại những người tin vào Đức Kitô vẫn xẩy ra. Ngay từ đầu, Hội Thánh đã bị bách hại.

Trong niềm hiệp thông, chúng ta cầu nguyện cho các nạn nhân. Trong tình liên đới chúng ta san sẻ nỗi đau buồn bằng tinh thần và vật chất đến gia đình họ. Và chúng ta xác tín rằng những hành vi tàn ác này sẽ không thể dập tắt ánh sáng và niềm hy vọng của chúng ta vào Chúa Phục Sinh, Đấng đã khải hoàn và chiến thắng quyền lực của sự dữ cũng như mọi hình thức tội ác của nó. Tuy nhiên, chúng ta không thể chối bỏ tâm trạng lo sợ trước quyền lực của sự dữ vẫn đang hoành hành và xem ra thống trị tại một vài nơi trên thế giới. Nỗi lo sợ này khiến chúng ta nhớ lại tâm tình và sự sợ hãi của các môn đệ của Đức Giê-su sau ngày Người tử nạn.

Phản ứng của nhóm môn đệ thật bình thường. Đứng trước các diễn tiến và các biến cố mà các ông đã chứng kiến hay được nghe về Thầy mình trong mấy ngày qua khiến các ông sợ hãi. Thầy mình với quyền năng cả thể như thế mà còn bị giết, phương chi là chúng mình, thân cô thế cô và không nơi nương tựa.

Chúng ta hiểu được nỗi lo sợ của các ông. Ông nào cũng có hoài bão và tham vọng riêng. Chúng ta không thể đặt kỳ vọng quá cao nơi họ để rồi mất đi niềm cảm thông về cách cư xử mang thật tính người của họ. Họ không thể vì theo Chúa mà mất đi bản tính riêng. Họ đến với Chúa bằng con người thật và những gì thuộc về họ.

Thế giới mà họ ước mong được chia phần đã sụp đổ và còn chống lại các môn đệ nữa. Cho nên, họ sợ người Do Thái, và có thể họ còn sợ Chúa sẽ khiển trách họ về cách cư xử như nộp Người và trối Chúa của một số người trong nhóm họ nữa.

Anh chị em thân mến,

Tuy nhiên có một chi tiết mà Thánh sử ghi lại hai lần ở đây khiến cho chúng ta cần quan tâm, đó là tính cộng đoàn của các môn đệ. Tuy các ông đã thất vọng về các biến cố mà các ông đã chứng kiến trong mấy ngày qua. Thầy mình đã chết thật. Nhưng không vì thế mà các ông bị tan tác. Các môn đệ tụ họp lại với nhau trong một căn phòng mà nhiều người đã giải thích là các ông họp nhau để cầu nguyện. Và, điều này thật cần thiết cho các môn đệ trong giai đoạn mất mát lớn lao này.

Khi Thầy mình còn sống các ông đã để cho tham vọng, cái tôi và sự yêú hèn trong thân phận làm người ảnh hưởng trên lối hành xử của các ông. Đằng sau tất cả các tham vọng, hoài bão và ước mơ của các môn đệ là một con người yếu đuối, nghèo nàn và bất an. Nhưng trong giây phút này, khi mọi sự không còn; các ông không còn biết bám vào đâu, chỉ biết liên kết trong thinh lặng và nhất là trong suy tư. Chính các điều này đã giúp các môn đệ trở về chính mình mà nhận ra các nỗi yêú đuối của bản thân mà hỗ trợ và củng cố cho nhau.

Trong bối cảnh như thế, chắc hẳn các môn đệ đã căng thẳng khi nhận ra sự xuất hiện của Thầy mình, Đấng đang hiện diện trước mặt họ. Họ có đủ mọi lý do để mong nhận được sự khiển trách của Thầy, xem họ như là những kẻ ngỗ ngược và bất trung; thậm chí họ có thể bị đuổi ra khỏi nhóm.

Thế mà, chúng ta nghe được Chúa nói gì với họ đây? Người nói: “Bình an cho anh em! “ Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."

Lời Chúa vừa phán và hành động Người vừa làm có nghĩa gì?

Hình như, Người muốn nói rằng Thầy rất hiểu và thông cảm cho lối suy nghĩ của các con. Anh em đã ân hận về cách cư xử của anh em đối với Thầy hay sao? Thầy biết, anh em đã trải qua một giai đoạn đầy bi thương. Thầy biết rằng giữa anh em và trong lòng anh em có những vết thương cần được chữa lành.

Người ta tưởng là đã giết được Thầy. Anh em không thấy sao, đây là lỗ đinh đóng vào tay Thầy; đây là vết giáo người ta đâm. Tất cả đau thương này bao gồm cả sự chết tủi nhục mà anh em đã chứng kiến đều là Thánh Ý của Cha. Thầy vui lòng đón nhận. Đó là con đường mà Chúa Cha dọn sẵn cho Thầy. Vì thế, anh em đừng buồn nữa, hãy vui với Thầy vì Thầy đã hoàn tất sứ mạng mà Cha trao phó. Thầy vui cho nên anh cũng vui với Thầy, vì Thầy đi về cùng Cha, và giờ đây Thầy trở lại để cùng sống với anh em. Không khí trong phòng giờ này tràn ngập niềm vui bởi vì các môn đệ đã nhận ra đích thực là Thầy.  

Tuy nhiên, Thầy còn biết rằng anh em chưa thể đón nhận nên tự trách mình đã không chia sẻ Thánh Giá với Thầy.  Đừng để những ý tưởng đó dầy vò và làm cho anh em bị đau khổ và sống trong lo sợ nữa. Sai lầm là bản tính của con người, tuy nhiên sự tha thứ lại thuộc về Thiên Chúa và Chúa Giê-su Phục sinh sẵn sàng trao ban quyền năng tha thứ cho các môn đệ. Sự tha thứ mà các ông vừa được trao ban là động lực giúp các ông đối xử với nhau một cách khoan dung và thông cảm cho nhau hơn. Cách sống khoan dung sẽ giúp cho họ bỏ đi ước muốn tranh dành địa vị, quyền lực và thống trị. Lòng khoan dung và thông cảm giúp họ dễ dàng đến với nhau hơn, dễ dàng chấp nhận các điểm yếu của nhau và giúp nhau thăng hoa cái tốt, những điều thiện hảo của nhau. Tất cả là ân phúc của Chúa Phục Sinh.  

Chúng ta còn nhiều việc phải làm. Và để thể hiện ý định đó, Chúa Giê-su đã thổi hơi, nghĩa là thổi thêm sinh khí, ban thêm năng lực và sức sống mới cho các môn đệ, các điều này không ban cho họ để hưởng thụ, mà trao ban để thi hành sứ mạng. Sứ mạng tha cho nhau phải được thể hiện bởi quyền năng của Đấng Phục Sinh. Và chỉ có Thần Khí của Chúa Phục Sinh mới làm cho các môn đệ thi hành và hoàn tất sứ mạng cao cả này.

Thưa anh chị em,

Trong lần hiện ra thứ nhất này chúng ta không hiểu tại sao Tô-ma lại vắng mặt? Các môn đệ khác đã kể lại cho ông biết về việc này: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, nhưng họ đã không làm chứng về điều họ tuyên xưng cho nên làm sao Tô-ma có thể tin vào lời loan báo của các bạn mình được. Họ vẫn đóng kín vì sợ hãi. Cho dù Thần khí và năng quyền đã đuợc trao ban, nhưng các bạn của Tô-ma đã không để cho sức mạnh của Thần Khí tác động, họ vẫn chưa ra khỏi vùng an toàn, vẫn dựa vào các cánh cửa đã đuợc đóng kín để bảo vệ, chưa sẵn sàng ra đi rồi vịn cớ là không biết đi đâu! Lời loan báo của họ không đi đôi với việc làm như thế thì làm sao có thể truyền lửa cho Tô-ma đuợc.

Còn Tô-ma, ông muốn niềm tin của ông phải dựa trên trải nghiệm của cá nhân; ông muốn giác quan (xúc giác) của ông có thể chạm vào các thương tích trên thân thể của Chúa, nên đáp rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Tô-ma muốn có một trải nghiệm riêng. Nhờ Tô-ma, chúng ta thấy tình thương của Chúa cao cả dường nào. Như Tô-ma, chúng ta đưa ra các điều kiện, vòi vĩnh để được thấy Chúa mà tin vào Chúa. Chúa bao dung nên sẵn sàng chấp nhận để trao ban cho chúng ta một kinh nghiệm. Người muốn tỏ mình theo cách thế riêng cho từng người để một cách riêng biệt, chúng ta nhận biết Người.

Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra với các ông, lần này có mặt Tô-ma. Trước tiên, Người cũng ban bình an cho các môn đệ rồi quay sang Tô-ma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tô-ma đã đáp trả bằng một niềm xác tín rằng Người là Chúa và là Thiên Chúa của ông. Sau đó qua Tô-ma, Chúa đã trao ban cho chúng ta thêm mối phúc nữa là “Phúc thay những người không thấy mà tin.”

Niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh không phải là việc dễ làm, đôi khi tiến trình dẫn chúng ta đến niềm tin này kéo dài trong suốt đời mình. Chúng ta cần được Chúa Phục Sinh củng cố và thúc đẩy luôn để chúng ta tin và tin một cách vững chắc hơn vào sự hiện diện của Người trong mọi ngày của cuộc sống.

Tin vào Chúa Phục Sinh, Đấng đang đồng hành và hiện diện với chúng ta là hiệu quả của ơn bình an. Nói khác đi, đây chính là ơn đầu mùa mà Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ. Người không chỉ ban một lần, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Người đã lập lại đến ba lần ‘Bình an cho anh em.'

Đó chính là ân huệ đầu mùa của Chúa Phục Sinh dành cho các môn đệ. Không ai hiểu trò bằng thầy. Đức Giê-su thấu hiểu lòng trí hoang mang và các nỗi sợ hãi của các môn đệ, cùng nhau co rúm và trốn trên lầu vì sợ người Do Thái. Vì thế họ cần được bình an để thoát khỏi nỗi âu lo này. Hơn nữa, tâm hồn và lòng trí của các môn đệ cũng cần được thanh thản, bình an, ổn định để nhận ra người đang hiện diện với các ông là Chúa Giê-su, người thầy yêu dấu của họ. Trong lúc lĩnh nhận ơn bình an này các môn đệ cũng hiểu rằng họ cũng được mời gọi trao ban cho người khác điều mà họ vừa lĩnh nhận, nghĩa là trở thành sứ giả bình an cho nhân loại.

Cầu chúc anh chị em chúng mình là sứ giả bình an của Chúa Phục Sinh, vì chính Người là nền tảng và cùng đích làm cho chúng ta được an bình rồi ra đi để chu toàn sứ mạng làm hòa với Thiên Chúa và với nhau.

Bình an là sứ mạng mà Đức Ki-tô Phục Sinh đã đem đến, chúng ta hãy ra đi mà trao cho nhau ân phúc tuyệt vời này.

Bình an của Chúa Phục Sinh ở cùng anh chị em. Amen!

 

PHỤC SINH NGUỒN HY VỌNG


Anh chị em thân mến,

Anh chị em tín hữu thuộc Giáo Hội Đông Phuơng có một thói quen rất ý nghĩa như sau: Sau khi tham dự Thánh lễ Mừng Chúa Phục Sinh; họ trao cho nhau món quà đã được làm phép, thuờng là quả trứng, biểu tượng của sự sống. Họ chúc mừng nhau bằng cách đập vỡ trái trứng và tung hô ‘Chúa đã sống lại thật rồi, bạn ơi’. Ai cũng làm chung một động tác và cùng chia sẻ với nhau một tin vui như thế. Rồi sau hết, họ cùng cất tiếng ngợi khen “Alleluia-Alleluia! Quả thật, Đức Kitô đã sống lại”.

Có lẽ, ngày nay, thói quen tặng trứng Phục sinh đuợc phát xuất từ truyền thống này. Nói chung, ai trong chúng ta cũng mong niềm vui và hanh phúc mà Đức Kitô đã đem đến trong ngày Người Phục sinh trải dài trong cuộc sống của mình và cho người khác.

Nhưng năm nay anh chị em thuộc Giáo Hội bên Ukraine sẽ mừng Lễ Phục Sinh thế nào? Đất nước và dân tộc Ukraine đang bị tàn phá bởi một cuộc tấn công dã man, tàn nhẫn mà giờ đây qua hệ thống thông tin chúng ta chứng kiến và đang nghe về những hành động tàn bạo của quân xâm lược đối với thường dân vô tội. Người dân Ukraine có niềm tin và quyết tâm cao. Họ quyết tâm bảo vệ tự do, đất nước và lối sống của họ, cho dẫu phải hy sinh.

Chiến tranh đã giết bao nhiêu thường dân vô tội. Vợ mấy chồng, cha mất con, anh em mất nhau. Nhìn cảnh đoàn người, đặc biệt các trẻ em và những người già nua phải ly tán để tránh bom đạn khiến chúng ta bị tổn thương. Ai là người đã tạo nên những tình huống đau khổ và các bi kịch như thế? Chúng ta không thể đổ thừa cho Chúa được! Con người phải có trách nhiệm chăm sóc và quan tâm đến sự sống chết của nhau. Đâu là niềm vui Phuc Sinh trước hoàn cảnh thật đau khổ mà họ đang phải đón nhận?

Trong giây phút này và với hoàn cảnh của những người đau khổ đang phải gánh chịu, việc giải thích ý nghĩa mầu nhiệm mà chúng ta đang mừng đem lại những gì cho họ? Dù muốn Chúc Mừng, tôi cũng chẳng biết nói gì!

Trở về ngày Lễ. Trong mấy ngày vừa qua, cùng với anh chị em cử hành phụng vụ của những nghi thức trong Tam Nhật Thánh. Nghi thức quá nhiều chi tiết, cho nên cần chuẩn bị thật kỹ mới có thể dẫn đưa người tham dự đi sâu vào ý nghĩa đích thực của việc mừng Lễ. Song song với các việc đó, trong những phút thinh lặng, tôi bị đánh thức bởi câu hỏi tại sao số phận của những người vô tội, như Đức Giê-su lại bị kết án và chết như một tử tội. Thế giới này có công bằng hay chỉ là một chuỗi các tình thế bất công vẫn xuất hiện?

Thật vậy làm sao chúng ta có thể nói đến hai chữ an bình khi còn biết bao nhiêu người vô tội vẫn bị chết, bao nhiêu tín hữu vẫn bị những kẻ cuồng tín giết hàng loạt bên Á Châu và Trung Đông. Vẫn còn những người đang chết dần chết mòn vì nghèo đói. Vẫn còn những người đang kéo lê cuộc sống vì những căn bệnh nan y, hiểm nghèo. Vẫn còn những trẻ thơ đang bị giam kín trong các trại giam của cô đơn; bị bỏ rơi và thiếu tình thương của các bậc sinh thành. Vẫn còn những trái tim đang tan nát vì bị phản bội hay bị lợi dụng. Vẫn còn những con người không còn tương lai, hay tương lai đang bị chôn vùi trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Và, còn bao nhiêu cái ‘vẫn đang xẩy ra’ chung quanh chúng ta nữa.

Về mặt cá nhân, đã có bao giờ anh chị em trải qua những bi kịch trong cuộc sống: như nếm cảnh cô đơn, bị ruồng rẫy, bị phản tội, bị lợi dụng, bị phụ tình, nạn nhân của ghen tuông, bị nhạo bang, bị sỉ nhục, mất phương hướng… muốn nói ra mà không biết giải thích làm sao. Một sự im lặng, câm nín không lối thoát bao vây đời mình. Và lúc đó chúng ta chỉ thấy cuộc đời bị che lấp bởi một màn đen, bóng tối đang bao phủ và hầu như không lối thoát.

Trong cảnh ngộ đó, nhiều người đã không còn đủ tỉnh táo để nhận ra đâu là việc cần làm, đâu là việc nên tránh; qua việc tìm kiếm để được giải thoát họ chỉ muốn không còn bị đau khổ nữa; nói khác đi họ đã quá đau, trong cơn đau quằn quại của thể xác, tâm trí hoảng loạn, họ chỉ muốn hết khổ. Còn chúng ta, những tín hữu của Chúa biết tìm vào đâu? Thật ra, đau khổ và thập giá luôn là chìa khóa giúp ta bước vào sự sống. Chúng ta không cần đi tìm thập giá hay đau khổ. Đó là phần của cuộc sống hay cuộc sống sẽ sản sinh ra đau khổ và thập giá.

Thưa anh chị em, nhất là những ai đã từng trải qua một vài kinh nghiệm nói trên hãy cùng tôi đi thêm một bước nữa; bước mà chúng ta cùng với toàn thể Hội Thánh cử hành hôm nay.

Đức Giê-su đã sống lại ngay trong lúc chúng ta bị bí lối; có cảm nhận đó mới biết Phục sinh là ánh sáng soi đường. Có kinh nghiệm như thế mới biết sự sống cần và quan trọng như thế nào.

Sự thinh lặng mà Hội Thánh mời gọi chúng ta đi vào từ khi Chúa chết cho đến bây giờ nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bị bó tay’ của mình: không đường đi, không lối thoát. Chúng ta bị bó tay, Đức Kito trần trụi trên Thập giá tưởng chừng như cũng bị bó tay… Nhưng chính lúc đó là lúc Thiên Chúa làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bị bó tay’ của nhân loại và của riêng mỗi người chúng ta.

Quả thật, trong bóng tối đã có ánh sáng, trong bóng đêm đã có hừng đông, trong đau khổ đã có hạnh phúc, qua Thập Gía đã có vinh quang và trong sự chết luôn có sự sống bao trùm. Đó là nguồn hy vọng mà Đức Kitô Phục sinh đã đem đến cho tòan thể nhân lọai nói chung và cho cộng đoàn chúng ta hôm nay.

Ánh sáng Phục Sinh đã bùng lên trong đêm tối của cuộc đời.

Ánh sáng Phục Sinh đã đem đến cho cuộc đời một ý nghĩa mới, mục đích mới. Và chỉ có ai cảm nhận được sự can thiệp đó của Thiên Chúa mới biết niềm vui là gì và từ đó mới có thể đem niềm vui cho người khác.

Chúa Phục sinh không cất đi nỗi đau khổ, những bi thảm của cuộc đời tôi; nhưng chính Người đã ôm lấy những bi thảm đó. Tôi không còn cô đơn, ngã gục nhưng Phục sinh đã giúp tôi nhận ra rằng Chúa đang hiện diện và ôm tất cả những nghịch cảnh của cuộc đời vào lòng Người và ban cho tôi sức mạnh để nâng tôi dậy.

Chúa Phục Sinh đem đến cho tôi niềm hy vọng. Hy vọng và xác tín rằng ngay lúc đen tối nhất Thiên Chúa không bỏ rơi Đức Giê-su, Con Ngài thì Ngài cũng không bỏ rơi tôi. Can đảm, mạnh dạn mà tiến bước là thái độ sống mà tôi học được qua Phục sinh.

Sức mạnh của Thiên Chúa qua biến cố Phục Sinh giúp tôi chấp nhận thực tại của đời sống như: bị hiểu lầm, bị đối xử thiếu công bằng; ngay cả lúc tôi trao đi tình yêu của mình, nhưng bù lại bằng sự lạnh nhạt hay phản bội của đối phương; và nhất là không còn sức để đối diện với sự thật về đời mình, về người khác…. Đức Ki-tô Phục sinh giúp tôi chỗi dậy đễ chấp nhận với niềm tin rằng Ngài vẫn sống trong cảnh ngộ của tôi.

Chúng ta đừng nghĩ rằng Người đã rời xa tôi. Không, Người vẫn sống, một cách thật thầm lặng – như hạt lúa gieo vào lòng đất - mục nát – chờ ngày trổ sinh hoa trái

Thưa anh chị em,

Chúng ta không thể tách cuộc khổ nạn của Chúa trong ngày thứ Sáu, sự thinh lặng hầu như quá khó hiểu của ngày thứ Bẩy ra khỏi mầu nhiệm Phục Sinh mà chúng ta đang cử hành. Tất cả được liên kết trong bàn tay thật tuyệt diệu của Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống và sự sống thật sung mãn để chúng ta vào đời với tâm hồn vui tươi, hân hoan vì có Chúa Phục sinh ở cùng.

Đây không phải là điều chúng ta đạt được. Nhưng hoàn toàn là do ân huệ của Thiên Chúa, của Chúa Thánh Thần, sức riêng sao đạt được. Vậy xin Chúa sai Thần Khí Chúa xua đuổi lối sống bi quan yếm thế để chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa, Đấng đang sống trong cảnh ngộ của từng cá nhân, rồi bước đi trong yêu thương.

Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh. Thế giới đang bị ảnh hưởng bởi lối sống vô cảm cần niềm hy vọng. Những người dân Ukraine vẫn hăng say chiến đấu bảo vệ tổ quốc trong hy vọng. Những ai đang chăm sóc người thân bị bịnh nan y, vẫn hy vọng người thân của họ được bình an, can đảm chấp nhận và chiến đấu, cho dẫu biết rằng căn bịnh nan y này đã không còn thuốc chữa. Những ai đang bị áp bức, lạm dụng, đối diện với những bi kịch của đời sống đang cần đến ánh sáng.

Tuy họ bị bí lối nhưng chưa cùng đường. Chúng ta cùng với họ mạnh dạn tiến bước, vì Chúa nay thật đã Phục sinh và đang ở cùng với chúng ta trong mọi nẻo đường và hoàn cảnh sống. Alleluia!

 

Wednesday, 6 April 2022

THÁNH GIÁ, ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG


Anh chị em thân mến,

Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta khai mạc Tuần Thánh, tuần tưởng niệm cuộc khổ nạn cao điểm là sự chết và sự sống lại của Đức Giê-su. Vẫn biết rằng, các nghi thức phụng vụ trong tuần này thật quan trọng. Đây chính là đỉnh cao của năm phụng vụ mà chúng ta cử hành hàng năm. Nhưng năm nay, câu hỏi đặt ra cho tôi là những gì mà Đức Giê-su đón nhận trong tuần này, nhất là sự chết của Người đã có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của tôi hay chưa? Biến cố Phục Sinh, khải hoàn siêu thăng về nhà Cha đã đem đến cho chúng ta những gì? Hy vọng các nỗi trăn trở này cũng là vấn nạn của anh chị em. Con đường Thánh giá và cao điểm là việc Chúa chết rồi sống lại sẽ tạo một hiệu ứng tích cực như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?

Và đây là câu chuyện. Truyện này được cha Flor McCarthy, tu sĩ dòng Salêsian bên Dublin, Ái Nhĩ Lan san sẻ. Tuy chúng ta không hề biết tên của người trong câu chuyện; nhưng đó lại là chi tiết lý thú và kỳ diệu của người kể. Bởi vì qua đó, chúng ta có thể lồng mình vào trong tâm tình của nhân vật; có nghĩa là nhân vật trong câu chuyện có thể là anh, là chị là ông hay bà, là mỗi người chúng ta. Truyện kể như sau.

Vào một buổi chiều, như thường lệ, sau một ngày làm việc vất vả, chàng thanh niên trẻ cất bước về nhà. Con đường đến trạm xe bus để về nhà quá quen thuộc đối với anh. Ngày nào cũng như ngày nấy, anh lững thững đi băng ngang qua tiền đường của Nhà Thờ Chính Tòa Westminter. Nhưng, hôm nay khi đi ngang qua đó, anh cảm thấy từ trong sâu thẳm của lòng mình dường như nghe được tiếng mời gọi. Anh cầm lòng không được bèn ghé vào nhà thờ. Vừa buớc vào cửa chính, anh sửng sốt và mắt dán vào cây Thánh Giá đang treo từ trên mái vòm của nhà thờ. Người nằm trên cây Thánh giá, là Đấng đã bị tra tấn, bị bỏ rơi và bị đóng đinh chết, và hiện giờ đang nhìn anh.

Thế rồi bao nhiêu hình ảnh của các cực hình mà Đức Giê-su đã chịu trên đường Thương Khó hiện rõ ràng trong tâm trí anh. Không chỉ có thế, anh nhớ là đã từng nhìn thấy những bức hình khủng khiếp của những người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em bị giết chết do chiến tranh, bao nhiêu người đã bị bỏ rơi, không nơi nương tựa, không chốn để về. Ở những nơi khác, anh đã được xem bức hình của những người dân bị đói khát, trần truồng, hốc hác, với từng đàn ruồi bọ nhung nhúc bò trên mặt và thân xác họ; với những đôi mắt không đủ sức để khép lại, đang mở thao tháo, trong cơn tuyệt vọng nhìn trừng trừng vào sự thờ ơ và vô cảm cuả thế giới đối với họ. Họ nằm đó, chờ cái chết ụp xuống mà cất đi bao nỗi nhọc nhằn, đớn đau mà họ đã gánh chịu.

Nhìn và nghĩ đến những cảnh tượng đó khiến chân tay anh bủn rủn và cho dù muốn thụt lùi và tháo chạy, nhưng anh hoàn toàn bị bất động, chân tay dường như tê cóng và không tài nào nhấc lên đuợc. Anh không còn biết làm gì hơn là ngồi xuống và dán mắt nhìn vào tượng chịu nạn và ngồi đó như bị cuốn hút vào trong đôi mắt của Chúa.

Nhưng sau đó, anh nhận ra có một mối giây liên kết giữa Đức Giê-su trên Thánh Giá với những người mẹ khóc bên xác của con bị chết vì chiến tranh, với cơn đói khát về vật chất cũng như thèm khát được yêu thương của các em trẻ tại các xứ nghè đói như tại Châu Phi, với những gia đình có người thân chết vì tai ương, với những người bệnh về thể xác và tâm thần… Hình như tất cả những khổ đau của loài người đều được gom lại trên thân thể của Người đang chịu đóng đinh và nằm trên cây Thánh giá.

Sau đó anh nhìn chung quanh và thấy có một số người đang quỳ cầu nguyện trong thinh lặng. Trong một không gian linh thánh họ như bị chôn vùi ở đó, thật bình an. Rồi anh nhìn thấy một bà cụ đã lớn tuổi bước đến bên Thánh Giá và kính cẩn hôn những vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó bà rời nhà thờ, vẻ mặt thanh thản, bình an như muốn nói với chúng ta rằng bà vừa tìm lại được sức mạnh, hy vọng và tình yêu cho cuộc sống.

Từ trước đến nay, anh không biết cầu nguyện. Nhưng hôm đó, lần đầu tiên anh đã cầu nguyện. Cây Thánh giá không nói nhiều về cái chết, cho bằng ca ngợi tình yêu, sự sống và niềm hy vọng. Cây Thập giá của nhục hình đã trở thành cây Thánh giá của niềm hy vọng. Thân thể của Đấng bị tra tấn giờ đây trở thành thân xác của Đấng chữa lành và trao ban sự sống. Những vết thương mở toang của Người đã trở thành nguồn ơn tha thứ và hoà giải. Cuối cùng, khi bước ra khỏi nhà thờ, anh cảm thấy bình an với chính mình và với thế giới.

Anh chị em thân mến

Hành trình khổ nạn của Đức Giêsu không chỉ là một thảm kịch, đó còn là một biến cố đã được Chúa tự do chọn lựa, bộc lộ tâm tình vâng phục của Người. Nỗi đau mà Người đã phải chịu không chỉ là những ngọn roi, cây giáo và những cây đinh xuyên da thấu thịt đi vào những kẽ xương trên thân xác của Người; nỗi đau thể xác như thế hay hơn thế vẫn chưa phải là nỗi đau đớn nhất. Nỗi đau khổ lớn lao nhất mà Người đã trải qua là bị bỏ rơi, thậm chí bị dối gạt và bị phản bội của những người mà Đức Chúa đã xem họ như những người bạn mà người yêu mến và quí trọng nhất. Đến giây phút cần, thì tất cả đều biến mất vì sợ hãi, thậm chí trong giây phút cô đơn nhất cũng chẳng còn ai, trong cơn hấp hối Người lo sợ và cô đơn.

Ai có thể đo và hiểu thấu chiều sâu của những điều mà Người đã phải chịu đựng?

Người cũng than van, lo sợ… Và chắc một điều là Thánh Giá mà Người đã vác khi xưa, không chỉ nặng về phần thể lý mà thôi. Đau khổ về phần xác không sánh gì với nỗi thống khổ của sự cô đơn, bị bỏ rơi trơ trọi một mình. Nhưng cuối cùng là một sự đón nhận trong yêu thương khi nhận biết đó là ý muốn của Cha Người, Đấng mà Người hết lòng tùng phục trong yêu thương.

Tuy Thánh giá là đích điểm của mọi đau khổ mà Chúa đã chịu, nhưng bề sâu của Thánh giá là một sự hòa hợp nên một trong Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nơi đó sự chết và tội lỗi bị phá hủy để nhường lại sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Thập giá còn biểu lộ sự bất lực của con người và biểu dương sức mạnh vô song của Thiên Chúa. Nhìn vào Thánh giá ta thấy bình minh của ngày Phục sinh đã hiện tỏ.

Thưa anh chị em,

Đã hơn 2000 năm qua đi, tất cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi người chúng ta cũng được Đức Giêsu mời theo Người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác Thánh giá mình hằng ngày mà theo”. Vác Thánh giá hôm nay chính là đón nhận những thử thách như tai ương, chiến tranh, dịch bệnh, thất bại, bị bỏ rơi, những lời sỉ nhục đầy bất công... Đó là những Thánh giá do Chúa gửi đến để thanh luyện lòng tin của chúng ta được kiên vững mà trung tín với ơn gọi đi theo con đường của Chúa: Con đường tuy hẹp nhưng lại thênh thang vì có nhiều bạn hữu cùng đi. Con đường tuy khiêm tốn nhưng biểu lộ sức mạnh và lòng quyết tâm phục vụ tha nhân.

Vì thế, trong tuần này chúng ta cùng với toàn thể giáo hội suy gẫm về hành trình Thương Khó để nhận ra sự thương yêu của Người, Đấng đã chết và ban ơn tha tội cho nhân loại. Sau đó, chúng ta được mời gọi để cảm thông, để tha thứ cho nhau hơn. Bởi vì, chúng ta biết rằng sự tha thứ và ơn cứu độ của Chúa mời gọi và thúc đẩy chúng ta tha thứ cho nhau nhiều hơn; và càng tha thứ cho nhau thì càng dễ đón nhận sự tha thứ của Chúa hơn. Ước gì Thánh giá năm nay không còn là những gánh nặng cuộc đời nhưng chúng ta vui lòng vác và tiến bước vì biết rằng chúng ta thật diễm phúc được Chúa mời gọi để chia sẻ hồng ân cao quí là cùng vác Thập giá với Đức Ki-tô hôm nay.