Wednesday, 25 May 2022

Về Trời Để Cùng Hiện Diện


Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc một và trình thuật Tin Mừng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay tuy có một chút khác biệt, nhưng nội dung chính yếu là nói về việc Đức Giê-su được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Như vậy câu hỏi đầu tiên chúng ta cần san sẻ cho nhau là trời ở đâu?

Chúng ta không biết nhiều về khoa học không gian, nhất là môn học về vũ trụ thì lại càng khó hiểu. Đó là việc của các nhà chuyên môn. Vào thời Đức Giê-su, và hầu hết những người dân thường ít hiểu biết như chúng ta vẫn còn cho rằng trời ở trên cao, đất là nơi chúng ta đang sống và được bao quanh bởi biển cả và đại dương, và dưới hay trong lòng quả đất này là hỏa ngục.

Từ khái niệm đơn sơ này chúng ta suy diễn về các mốc điểm trong hành trình của chúng ta. Các Thiên Thần và các Thánh thì ở trên trời. Quỉ dữ và những ai thuộc về nó thì bị giam cầm dưới Hỏa Ngục, trong lòng đất. Còn trái đất là nơi chúng ta đang sống và chiến đấu. Chính vì thế, đôi khi chúng ta cho rằng về trời hay lên thiên đàng là phần thưởng dành cho ai đã chiến đấu và chiến thắng quyền lực của sự ác chi phối và hoành hành trên cuộc sống của chúng ta. Vì thế quan niệm sống để thu tích các công việc đạo đức và đưa vào kho lẫm để chờ ngày lãnh nhận phần thưởng đời sau vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sống của tín hữu. Với lối suy luận như thế, chúng ta có thể sẽ quên đi trách vụ và bổn phận cần phải làm để biến đổi môi trường mà chúng ta đang sống trở thành trời mới đất mới.

Trời là nơi Chúa ngự. Ngự trị không nhắm đến nơi chốn cho bằng mô tả sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện này sẽ không còn tuỳ thuộc vào một khoảng không gian nào đó hay một mốc thời gian nào của lịch sử; nhưng là một sự hiện diện không bị giới hạn bởi không gian và không lệ thuộc vào thời gian. Thiên Chúa hiện diện từ trước và cho đến muôn đời, vô thủy vô chung. Như vậy ở đâu có Chúa là ở đó có trời. Và như lời Chúa đã phán thì ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Chúa thì Chúa hiện diện giữa họ. Ý nghĩa của câu này có thể giải thích là ở đâu có sự hiệp nhất, thông cảm, yêu thương thì có Chúa ở đó; nói khác đi tại nơi đâu mà con người cùng chia sẻ một đức tin, cùng san sẻ và trao ban một lòng mến thì tại nơi đó có sự hiện diện của Chúa. Như vậy, trời hay thiên đàng không ám chỉ đến địa danh hay nơi chốn nào đó cho bằng một cách mà con người dùng để diễn tả khi nói đến nơi ngự trị của Chúa. Nói khác đi, khi mô tả việc Chúa lên trời có nghĩa là chúng ta nói đến việc Chúa Giê-su ngự trị bên hữu Thiên Chúa.

Trên thực tế, làm sao chúng ta có thể giải thích về ý niệm về một vị Thiên Chúa vừa hiện diện lại vừa vắng mặt trong cuộc sống của chúng ta nói riêng và trong các sinh hoạt của thế giới này nói chung. Rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống với quan niệm về một vị Thiên Chúa ở trên trời, xa vắng với các sinh hoạt của con người. Với cái nhìn như thế, mỗi khi chúng ta gặp khó khăn là lúc chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài đến can thiệp và giải quyết thay cho chúng ta.

Trái lại, với sự hiện diện mới, Chúa Giê-su không còn hiện diện bằng xuơng bằng thịt và cũng không còn bị giới hạn và ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa. Người sẽ hoạt động trong con người, nhất là nơi các kẻ tin. Vì thế việc trao ban uy quyền và sứ mạng cho họ cần được thực hiện truớc khi Người trở về với thân phận hằng có trong Thiên Chúa của Người.

Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không? Thật ra, Đức Giê-su đã về nhà Cha, tiếp nhận vinh quang như đã có từ Thiên Chúa ngay khi Người trút hơi thở và trao ban Thần Khí cho những ai đứng bên Thập Giá. Việc Chúa Giê-su được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà chúng ta và các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin và thể hiện bằng việc làm để minh chứng điều mà chúng ta và các môn đệ đã tin.

Vì thế, không có chuyện vắng mặt. Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua; Người vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ; Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ như những gì mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một hôm nay, đó là “sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa.” Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay qua sự chết trong vâng phục mà Người đã được tôn vinh và hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người trong mọi cảnh huống của đời họ.

Chúng ta mừng sự thay đổi, hân hoan đón nhận cách thức hiện diện mới của Chúa. Tuy, chúng ta không còn đuợc tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta đuợc liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.”

Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để đuợc tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là sức mạnh của Thánh Linh như Chúa đã hứa “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong tất cả xứ Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, và cho đến tận cùng trái đất”.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các Tông Đồ và nhóm môn đệ mọi thời đã hoàn tất sứ mạng của họ. Còn chúng ta hôm nay thì sao?

Sống trong một thế giới đầy tranh chấp và bạo lực, chúng ta đuợc mời gọi trở nên sứ giả của hoà bình.

Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ nhau vì ghen ghét, đố kỵ và thù hằn thì chúng ta lại đuợc mời gọi sống yêu thương, tương tác và liên đới với nhau.

Đối diện với một cộng đoàn chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ.

Tất cả đều là dấu chỉ nói lên lời mời gọi của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.

Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với cuộc sống hiện tại để chu toàn phận sự đã được trao phó?

Khi thi hành nhiệm vụ mà Chúa trao phó hôm nay, chúng ta ý thức rằng mình không tự làm; nhưng sứ mạng được trao ban từ Chúa; Người là vị cứu tinh nhân hậu, đang đồng hành trong mọi sự kiện của cuộc đời chúng ta.

Chúng ta vẫn nương tựa vào Chúa.

Chúng ta vẫn gắn bó và nối kết mật thiết với Người.

Tuy nhiên, chúng ta không ngồi đó chờ Người làm thay các việc mà chúng ta cần làm.

Chúng ta sẽ không yêu cầu Chúa đến để thay đổi những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta.

Thay vào đó, trong niềm tin, chúng ta biết chắc Người đang đồng hành với chúng ta,  soi sáng và mở mắt để chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong các sự kiện đang xảy ra. Thiên Chúa đã không rời bỏ chúng ta nhưng hiện diện trong những gì đang diễn ra trong cuộc sống của chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi.

Như vậy, Chúa lên trời để dọn chỗ cho chúng ta. Nhưng ngay bây giờ chúng ta cần thực hiện lịnh truyền mà Chúa phán trước khi được cất nhắc lên trời, đó là: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”, và nhờ việc làm của anh em mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Người. Amen!

Wednesday, 18 May 2022

BÌNH AN CỦA CHÚA Ở CÙNG TA


Anh chị em thân mến,

Dường như lo âu và sợ hãi là những người bạn không thể thiếu vắng trong cuộc đời. Tất cả chúng ta đều có lúc sợ hãi. Khi còn nhỏ chúng ta sợ ma và bóng tối. Trong hoàn cảnh đó, điều làm cho chúng ta bớt sợ và cảm thấy an toàn hơn là nhận ra có người ở bên cạnh bảo vệ và che mưa chắn gió cho mình. Khi lớn lên, một số người trong chúng ta có thể sợ sấm sét và sấm sét lại đi kèm với bão tố (thiên nhiên và đời sống!) Nói chung dù muốn trốn chạy, nhưng sợ hãi luôn tìm đến chúng ta.

Thế giới chúng ta đang còn phải chống trọi với thiên tai và dịch bịnh. Đại dịch do Covid-19 gây ra vẫn chưa chấm dứt. Hàng triệu người dân vô tội đã chết, còn rất nhiều người sống trong âu lo và sợ hãi do hậu quả và các di chứng do đại dịch để lại. Tâm trạng lo âu và sợ hãi đã gây ra các ảnh hưởng tiêu cực trong việc tương tác giữa người với người. Một số người sợ đám đông, sợ bị lây lan. Tình trạng sợ hãi này kéo dài khiến họ cảm thấy cô đơn dẫn đến trầm cảm và không dám tiếp xúc với ai!

Hơn thế nữa, chúng ta tưởng rằng các cuộc cách mạng về công nghệ thông tin sẽ  giúp chúng ta xây dựng một cuộc sống trong đó con người có thể được nối kết với nhau gần hơn, nhưng trên thực tế lại có nhiều người sống cô đơn hơn. Họ có thể là nạn nhân của chủ nghĩa cá nhân hay là nạn nhân của một cách sống không cần đến ngày mai, chọn những thú vui trước mắt như hạnh phúc; nhưng thật ra lối sống tìm thú vui chóng qua và thiếu tương tác này lại dẫn họ đến tình trạng chán nản và cô đơn. Thêm vào đó, chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều tiện nghi, như mua hàng online, không cần giáp mặt mà vẫn đạt được sở nguyện; thói quen này tăng dần cho đến một ngày con người tự mình cô lập mình.

Thứ cảm giác cô đơn có thể là một điều thật khó khăn để trải nghiệm. Và đây có thể là điều làm các môn đệ lo sợ. Làm thế nào mà các ông có thể tránh nỗi hoang mang và lo sợ khi biết Thầy phải ra đi và để họ ở lại. Cho đến hôm nay, tất cả những gì họ làm và đeo đuổi đều gắn liền với sứ mạng của Đức Giê-su. Giờ đây công danh và sự nghiệp đâu chưa thấy, thế mà Thầy lại phán rằng Thầy đi thì ích lợi hơn cho họ (Gio-an 16:7) Vẫn biết học để tin vào Lời Thầy phán là điều cần thiết, nhưng làm sao lại không khỏi lo sợ chứ! Trong hoàn cảnh đó, Đức Giê-su tiếp tục trấn an: Họ sẽ không cô đơn, “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Gio-an 14:26)

Đó là vai trò của Chúa Thánh Thần mà Đức Giê-su bộc lộ hôm nay. Ngài vừa là thầy dậy vừa là bạn đồng hành nhắc lại cho các môn đệ nhớ lại những Lời mà Đức Giê-su đã dậy bảo. Với vai trò của Chúa Thánh Thần như một người Thầy và bạn đồng hành mà Đức Giê-su giới thiệu hôm nay khiến tôi nhớ đến một vai trò mà chúng ta thường nghe hay đã có kinh nghiệm, đó là vai trò của một ‘mentor’ trong cuộc sống của chúng ta. Vậy, mentor là ai?

Với kinh nghiệm trong cuộc sống, nhất là qua lối đào tạo rất nhân văn của xã hội hôm nay, chúng ta nhận ra vai trò của một vị vừa là thầy vừa là người bảo trợ giúp chúng ta khỏi cô đơn. Họ hiện diện để hướng dẫn chứ không áp đặt. Họ có mặt để giúp chúng ta thoát cảnh cô độc và khi chúng ta đã vững vàng thì họ lại lùi về phía sau, mà không biến mất; để chờ dịp khác hộ phù và tiếp tục bảo trợ.

Khi nói đến vai trò của những người ‘mentor-đồng hành’ làm tôi nhớ lại công việc của những người mẹ. Bởi vì, khi nhìn Chúa Thánh Thần trong vai trò Thầy dậy và người bầu chữa làm tôi nhớ ngay đến các người mẹ. Các ngài là tất cả. Mẹ đã hiện diện ngay khi ta mở mắt chào đời, tiếp tục dìu dắt và vực chúng ta dạy mỗi khi ta vấp ngã. Các ngài đã dậy bảo nhưng không áp đặt, dìu dắt và nâng đỡ chứ không lôi kéo. Lùi về phía sau nhưng không biến mất để chờ dịp cùng chúng ta tiến về đích bình an. Quan trọng hơn cả là cùng đồng hành để ta không cô đơn.

Thưa anh chị em,

Sau cùng, chúng ta biết rằng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã được ứng nghiệm nơi cuộc sống sứ vụ của các môn đệ sau khi Chúa sống lại từ cõi chết. Với quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Ngài đã làm được những dấu lạ điềm thiêng khiến bao nhiêu kẻ trở lại và tin vào Danh Chúa Ki-tô. Nhưng hiện trong lúc này, tình cảnh xẩy ra ngay trước mắt các ông vẫn là việc ra đi của Thầy. Điều này làm cho lòng dạ các ông hoang mang, rối bời và lo sợ.

Với tình huống đó, Đức Giê-su đã phán: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Gio-an 14, 27)

Đây là một trong những khoảnh khắc sâu đậm nhất trong bản văn Tin Mừng hôm nay. Chúa ban bình an cho các môn đệ, một thứ bình an mà các môn đệ không thể nào tìm được ở đâu khác trên thế gian này. Thế gian không có thứ bình an này. Bình an xuất phát từ trong tâm hồn.

Chỉ có người nào có con tim thanh tịnh, cõi lòng thanh thản mới có thể cảm nhận được thứ bình an này. Vì thế, Người khuyên họ đừng để con tim giao động và sợ hãi trước những biến cố sẽ xẩy đến. Người sẽ không để các ông mồ côi. Không chỉ có Thầy mà cả Cha Thầy cũng sẽ đến để trao ban bình an cho những ai tin vào Người.

Như vậy, bình an không chỉ là lời chúc hay nguyện ước; đó chính là quà tặng của Chúa ban ngay tại thời điểm mà chúng ta cần để có thể đối diện với những giây phút bi đát mà chúng ta có thể gặp trước sự ra đi của Đức Giê-su. Không chỉ có thế, với ơn bình an, Đức Giê-su còn mong muốn các môn đệ và chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì biết rằng chính vào giờ từ giã thế gian lại là thời điểm trở về nhà Cha của Người.

Tuy nhiên, đối diện với hoàn cảnh thực tế, các môn đệ và chúng ta không thể tránh thoát những giây phút hoang mang, lo lắng về sự vắng bóng của Đức Giê-su. Nhưng cho dù lòng dạ có xao xuyến đến đâu hay hoàn cảnh mà chúng ta gặp phải có bi đát đến dường nào đi chăng nữa, chúng ta hãy nhớ rằng lòng mến Chúa và ơn bình an mà Chúa trao ban hôm nay vẫn là những khí cụ hữu hiệu nhất mà chúng ta cần có để chu toàn sứ mạng.

Sau cùng, đừng để lo âu và sợ hãi giết chết các mối quan hệ của chúng ta. Bất cứ khi nào anh chị em thấy mình trong bóng tối hay chao đảo trước các sóng gió và bão tố của cuộc đời thì hãy tin rằng Chúa Giê-su Phục Sinh vẫn ở cùng chúng ta. Chớ gì cuộc đời của chúng ta luôn là chiếc bình rỗng, trống không để Chúa đổ tràn đầy sự sống, tình yêu và bình an vào trong đó. Amen!

Wednesday, 11 May 2022

YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA YÊU


Bài Tin Mừng hôm nay, tuy vỏn vẹn chỉ có bốn câu, nhưng chất chứa một sứ điệp thật quan trọng.

Trong hai câu đầu, Thánh sử trình bầy việc ra đi của Giu-đa. Hành động của ông báo hiệu giờ của đêm tối đã đến. Vẫn biết rằng, việc Đức Giê-su bị giao nộp sẽ xẩy ra. Nhưng đối với Thiên Chúa thì việc làm của Giu-đa hôm nay lại là cơ hội để Đức Giê-su làm trọn vai trò của Người. Do đó, một cách nào đó chúng ta có thể nhìn việc ra đi của ông giống như hình ảnh của bóng tối. Một khi bóng tối khuất đi thì ánh sáng sẽ xuất hiện.

Đức Giê-su nói “giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.” Hành vi nộp Người của Giu-đa lại biến thành giờ để Đức Giê-su thực hiện và sống ơn gọi của Người một cách trọn vẹn nhất. Giờ ra đi để hoàn tất ý định của Chúa Cha. Cả cuộc đời của Người, bao gồm mọi khoảnh khắc trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giê-su luôn hướng về giờ mà Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. 

Và hôm nay, trước lúc ra đi và trong giây phút thân tình với các môn đệ, Người đã tâm sự cho các ông biết ý nghĩa về việc được tôn vinh trong vâng phục của Người. Đức Giê-su cảm thấy bị xúc động khi Người phải từ giã các ông. Người trăn trối cho các môn đệ những điều mà Người đã ưu tư, ôm ấp và khát khao thực hiện là anh em hãy yêu thương nhau; hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương. Đây là điều mới lạ. Và tình yêu mà chúng ta trao ban chco nhau chứng tỏ anh em là môn đệ của Thầy.

Điều Đức Giê-su ban cho các môn đệ đêm nay vô cùng quan trọng.

Trước tiên, Chúa không chỉ truyền lịnh. Nhưng Người đã trao cho những người bạn thiết nghĩa của Thầy chính cử chỉ và hành động mà Thầy đã thực hiện trong một bữa ăn. Chúa trỗi dậy, rời bàn ăn, múc nước rửa và lau khô chân cho các môn đệ. Chứng kiến việc Thầy làm, các môn đệ không chỉ xúc động mà còn khiến cho các ông ngạc nhiên. Thấy thế, Chúa bèn giải thích rằng “nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Gio-an 13: 14) Đây là điều vô cùng mới mẻ. Điều Chúa truyền dậy khác với cách hành xử mà con người dành cho nhau.

Thật vậy, chúng ta vẫn biết rằng, đạo nào cũng dậy con người làm lành tránh dữ và yêu thương nhau. Nhưng, điều đặc sắc và mới mẻ mà Đức Giê-su tỏ bầy hôm nay, đó là yêu người như Chúa yêu. Đức Giê-su gọi việc làm đó là giới răn, điều luật để trở nên thành viên cho một nhóm; có nghĩa là từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, bằng chứng, bản chất và danh xưng của những người thuộc về nhóm mà người ta gọi là nhóm môn đệ được Chúa yêu thương.

Như vậy, yêu thương là bổn phận và là dấu chỉ chính thức của người môn đệ Chúa. Yêu thương theo mẫu mực của Chúa. Yêu thương như Chúa đã làm là quì xuống rửa chân cho kẻ kém hơn mình, rửa những vết thương hôi thối, rửa những lỗi lầm, xóa bỏ những hận thù ghen ghét đã tạo nên sự nghi kỵ và chia rẽ trong cộng đồng. Rửa chân không nhằm nói đến việc tự hạ cho bằng đó là dịp để Chúa sống trọn vẹn ơn gọi mà Người đã lãnh nhận từ Cha; và trao ban cho các môn đệ. Những việc làm này là bổn phận của mỗi Kitô hữu, môn đệ của Chúa.

Thật vậy, đạo mà chúng ta đang theo là con đường mà Chúa đã đi. Đó không chỉ bao gồm những điều phải tin, và những điều khoản phải giữ; nhưng là con đường yêu thương. Vì thế, cách sống đạo đích thật mà chúng ta cần thực hiện là hãy trao ban và đón nhận tình yêu như cách thức của Chúa. Nhưng trên thực tế, mấy ai trong chúng ta đã thực hiện được gương sáng và giới lịnh của Chúa hôm nay. Tôi còn nhớ một mẩu chuyện ngắn như sau:

Mahatma Gandhi được dân Ấn Độ ca tụng như một Thánh nhân. Khi còn trẻ, ông say mê đọc Kinh Thánh, nhất là bài giảng trên núi. Ông nghĩ rằng Kitô giáo sẽ là câu trả lời chính đáng và thích hợp nhất để giải quyết các xung đột giữa các giai cấp ở Ấn.

Một ngày nọ ông đến dự lễ tại một nhà thờ. Nhưng người giữ cửa ngăn ông lại, và bảo ông nên đến dự lễ ở một nhà thờ khác dành cho người da đen. Ông đã bỏ đi và không bao giờ quay trở lại.

Vì sự phân biệt chủng tộc và mầu da của một người tín hữu đã làm mất một Ki-tô hữu tốt lành như Gandhi. Thật vậy, làm thế nào chúng ta có thể làm chứng cho tình yêu khi chúng ta không sống điều mà chúng ta tuyên xưng.

Lời trăn trối của Đức Giê-su “Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" khiến chúng ta phải xét mình. Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, mới vì Chúa đòi chúng ta phải yêu nhau như Người đã yêu họ. Vấn đề then chốt không nằm ở nơi chúng ta yêu nhau mà tình yêu của chúng ta phải được xuất phát từ tình yêu của Chúa.

Và, anh chị em hãy nhớ rằng tình yêu cần có đối tượng; bởi vì không ai trong chúng ta có thể nói rằng mình đang yêu nếu đối tượng mình yêu không thật sự hiện hữu. Sự hiện hữu của đối tượng cũng mang nhiều mức độ và nằm trong nhiều cảnh huống khác nhau. Nhưng, tất cả đều có một mẫu số chung, đó là nếu muốn thể hiện tình yêu thì chúng ta cần từ bỏ tháp ngà, ý riêng của chính bản thân, ra đi để gặp gỡ họ.

Họ là ai? Họ là anh, là chị hoặc tôi, những người thân quen trong gia đình, xóm giáo, các nhóm cầu nguyện và đặc biệt hơn nữa, Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bị bỏ rơi ở ngoài đường hay gầm cầu, phố chợ, v.v… Thiên Chúa và tha nhân đang chờ đợi bàn tay yêu thương, vỗ về, săn sóc và an ủi của chúng ta. Qua viêc làm trong yêu thương, chúng ta sẽ xoa dịu một phần những vết hằn mà người khác đang phải gánh chịu. Yêu thương là thế đấy.  

Và để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, xin anh chị em nghe một câu chuyện.

Có một gia đình kia có hai người con trai. Hai an hem cùng nhau cày chung một thủa ruộng do cha mẹ chết đi để lại.

Người anh đã có vợ và đông con, người em còn ở một mình. Ngày mùa đến, hai anh em gặt xong, bó lúa chất thành hai đống bằng nhau và để cả ở ngoài giữa cánh đồng.

Đêm hôm ấy, người em suy nghĩ: “Anh mình còn phải nuôi vợ, nuôi con. Nếu phần lúa của mình mà cũng ngang với phần của anh thì thật là không công bằng. Ta hãy đi ngay ra đồng, lấy mấy bó lúa của mình, kín đáo đem bỏ thêm vào phần của anh. Anh mình không thể nào biết được việc này, và đương nhiên không thể từ chối.”

Và người em đã trỗi dậy, ra đi làm theo như ý nghĩ của mình.

Cũng trong đêm hôm ấy, người anh thức dậy và nói vợi vợ: “Em ta còn trẻ, chú ấy sống một thân một mình, không có người đỡ đần trong việc đồng áng và an ủi những lúc cực nhọc. Thật là không công bằng nếu chúng ta cũng lấy một phần lúa bằng phần của chú ấy. Chúng ta hãy ra đồng, lấy ở phần của ta mấy bó lúa, bỏ sang vựa lúa của chú ấy. Chúng ta sẽ làm việc này một cách kín đáo, chú ấy làm thế nào biết được mà từ chối.”

Hai anh em tiếp tục làm công việc ấy liền trong mấy đêm. Nhưng vì mỗi bên mang bỏ sang phần bên kia số bó lúa tương đương nhau, thành thử hai đống lúa dường như vẫn bằng nhau như cũ.

Hai anh em ngạc nhiên, cho đến một đêm kia, không ai bảo ai, họ đều ra đồng rình xem nguyên nhân của sự kỳ lạ đó. Họ bắt gặp nhau, mỗi người còn đang ôm trong tay những bó lúa của mình, định đem bỏ thêm cho nhau. Xúc động ứa nước mắt, họ chạy lại ôm hôn nhau thắm thiết.

Đó chính là ý nghĩa của câu chuyện mà cha ông chúng ta muốn truyền tải. Và theo tương truyền, những người dân trong làng, khi biết nghĩa cử của hai anh em thì họ đã dựng lên một nhà nguyện nhắc nhở họ nhớ đến cử chỉ yêu thương này.

Sau cùng, xin anh chị em hãy luôn luôn nghĩ tới nhau, quan tâm giúp đỡ nhau, dành cho nhau những điều vui sướng và nhường cho nhau những thuận lợi… Tình nghĩa anh em như thế thật thiêng liêng và cao đẹp biết bao.

Điều này không chỉ dành riêng cho anh chị em trong gia đình, mà còn được mời gọi lan tỏa cho những người khác không cùng giai cấp, phe nhóm, niềm tin với chúng ta nữa. Và khi chúng ta đối đãi với nhau như thế, chắc chắn chúng ta là môn đệ của Chúa. Amen. Alleluia.

 

Wednesday, 4 May 2022

MẸ LÀ NGUỒN SUỐI TÌNH YÊU


Anh chị em thân mến,

Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của diễn từ ‘Chúa Chiên Lành’ trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an. Trong phần này, Chúa Giê-su mô tả mối quan hệ của Chúa với chúng ta bằng chính kinh nghiệm Người hằng có với Chúa Cha.

Người đã dùng một cách nói thật bình dân mô tả mối quan hệ giữa người chăn chiên và chiên của mình. Đối với người Do Thái, họ hiểu ngay cách mô tả của Chúa, bởi vì hình ảnh Chúa dùng xuất phát từ cuộc sống hàng ngày của những người sống cùng thời với Chúa Giê-su. Mọi người đều biết về mối quan hệ của những người chăn chiên và chiên. Người nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng bị diệt vong và không ai cướp được chúng ra khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng giao chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai có thể cướp chúng khỏi tay Người. Tôi và Chúa Cha là một.”

Hình ảnh ‘người chăn chiên’ đã được các ngôn sứ của thời cựu ước dùng để ám chỉ đến các vị lãnh đạo của dân Do Thái. Cụ thể, ngôn sứ Ezekiel xuất hiện trong thời dân bị lưu đầy bên Babylon. Trong bối cảnh lịch sử như thế, khi mà dân Do thái đã mất tất cả: văn hóa, quê hương, đền thờ... Ngôn sứ đã khơi lên niềm hy vọng cho dân bằng cách trình bầy Thiên Chúa là Người chăn chiên tốt lành, là Mục tử nhân hậu, là Đấng dẫn đường để dẫn dắt đoàn chiên, tìm chỗ cho chiên ăn, dẫn lại về ràn các con chiên lạc đường và cứu chiên thoát khỏi các cạm bẫy, các hiểm nguy của các thợ săn và thú dữ. (Ed 34: 11 – 16) Từ đó mỗi khi nói đến người chăn chiên thì dân Do Thái hình dung ra hình ảnh của một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và quan tâm đến họ.

Trước hết, chúng ta cần đồng ý với nhau rằng qua cuộc sống và sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng thực điều Người đã phán dậy hôm nay, chính Đức Giê-su là người chăn chiên tốt lành và thiện hảo. Người biết rõ nhu cầu, sở thích, ưu điểm, khuyết điểm và các thương tích của từng con chiên. Người đã hy sinh chính mạng sống mình để bảo vệ và ban cho các con chiên trong ràn sự sống. Đối với Đức Giê-su thì tất cả mọi người không cần phân biệt chủng tộc hay mầu da, tự do hay nô lệ, tín ngưỡng hay lối sống, nam hay nữ, giầu sang hay nghèo hèn… Tất cả đều thuộc về ràn chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người để chăm nom. Trong Chúa không có sự tách biệt. Tất cả đều bình đẳng, không ai hơn ai kém. Mọi người đều có giá trị thật quan trọng trong con tim của Người chăn chiên tốt lành là Đức Giê-su Kitô.

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” là một xác định thật quan trọng nói lên mối tương quan giữa Đức Giê-su và các con chiên. Người không lý giải hay biện minh. Người đã phán như một Đấng có uy quyền. Trong mối dây tương quan giữa Chúa Cha và mình, Đức Giê-su đã xác định một cách thật mạnh mẽ: Tôi là Người Chăn Chiên Tốt, Tôi biết chiên tôi, chúng biết và nghe tiếng Người. Đây không là vấn đề để tranh luận hay bàn cãi. Ai tiếp nhận thì điều mà Chúa phán hôm nay nghiễm nhiên trở thành sự thật và của mình.

Nghe tiếng Chúa, hôm nay, có nghĩa là nhận ra tiếng Chúa trong mối dây thân mật dưạ trên tương quan của Tình Yêu, của gắn bó và hiệp thông. Thậm chí đến mức độ, trong mối tương quan này họ không cần nói, cũng chẳng cần nghe… mọi âm thanh dường như cần dừng lại để cho cảm xúc của Tình Yêu và Lòng Mến dâng trào và ngâp tràn trong giây phút hai người biết nhau, như “Tôi biết chúng và chúng biết tôi.”

Dựa vào những suy tư của dân Do thái, hoàn cảnh thực tế của nghề chăn chiên và nhất là các kinh nghiệm về sự sống mà Chúa Giêsu đã trao ban cho các tín hữu thời giáo hội sơ khai, tác giả của Tin mừng thứ tư đã trình bầy Chúa Giêsu không chỉ là người chăn chiên; nhưng là Đấng chăn chiên tốt lành, đã hy sinh mạng sống để đem tất cả con chiên, dù lạc ràn hay không, về lại ràn và ban cho chúng sự sống đời đời và không một ai có quyền tước mất sự sống này được. Và ai ở trong ràn chiên của Người thì không bao giờ bị diệt vong.

Anh chị em thân mến,

Tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến nhiệm vụ của người chăn chiên là trao ban và lo cho sự sống của chiên. Yếu tố này nhắc nhở tôi nhớ lại ý mà Hội Thánh mời gọi chúng ta cầu nguyện và cổ võ cho ơn gọi trong Chúa Nhật hôm nay. Và theo tôi, một trong những ơn gọi cao quí nhất đó là ơn gọi làm mẹ. Mẹ ở đây không phải là nhiệm vụ dành riêng cho các phụ nữ mà thôi. Nhưng trong vai trò lãnh đạo, hình ảnh của Đấng Chăn Chiên được thể hiện qua cách cư xử của các bà mẹ. Vì thế tinh thần, phẩm chất và bản năng của người mẹ cần thiết vô cùng cho những ai được gọi trong vai trò lãnh đạo để phục vụ.

Giờ đây chúng ta dành vài phút chia sẻ vài cảm nghĩ, đôi dòng suy tư về ơn gọi của những người mẹ Việt Nam cũng như tất cả các bà mẹ trên toàn thế giới.

Người ta thường nói mẹ là hình ảnh của tình yêu. Nhưng theo thiển ý của tôi thì mẹ chính là tình yêu, là sức sống, là hạnh phúc và là nơi nương tựa của đoàn con. Mẹ đã không vì mẹ mà sống, nhưng cuộc sống của các Người là vì chồng và cho con cái. Mẹ hy sinh và chấp nhận mọi khó khăn để bầy tỏ tình yêu của mẹ.

 Tình yêu của những người mẹ như dòng suối chảy một chiều: cho đi mà không đòi lấy lại. Chúng ta thường được nghe rằng: “nước mắt chảy xuôi.” Thật vậy, cho dù con cái đã khôn lớn và vì vô tình hay cố ý mà một số người con đã không cư xử tốt với mẹ, thì mẹ vẫn yêu thương các con; vì tình yêu là lẽ sống của mẹ.

Khi nói mẹ là sự sống thì tôi nhớ lại sự kiện đã xẩy ra bên Nhật. Câu chuyện đó như sau. Vào năm 1995, sau vụ động đất tại Thành Phố Kô-bê, người ta đào bới và khám phá dưới đống gạch vụn của một tòa nhà đã đổ nát là hai mẹ con. Người mẹ, tuy còn sống nhưng đã bất tỉnh; còn đứa cháu gái đang cố gắng ngậm chặt ngón tay của người mẹ và cố hút nguồn sống bằng máu phát xuất từ thân thể của mẹ cháu.

Sau khi phục hồi sức khỏe cho hai mẹ con. Người ta nghe bà mẹ kể lại rằng. Tuy bị chôn vùi ở dưới đống gạch đổ nát của tòa cao ốc. Nhưng hai mẹ con chúng tôi quả thật đã gặp vận may. Có một cái đà thay vì đổ xuống đập vào chúng tôi thì lại bị ngăn lại bởi bức tường và trở thành vật chắn giúp hai mẹ con chúng tôi không bị đè chết. Sau đó, đứa con vài tháng tuổi của chị đói quá khóc thét lên. Bà mẹ không biết phải làm gì! Dòng sữa thì khô quặn vì đã mất mấy ngày họ đâu có gì để ăn và để uống. Bà mẹ mò mẫm trong bóng tối và tay bà đã chạm vào một vật sắc và nhọn. Với bản năng yêu thương của một người mẹ, bà không kịp suy nghĩ, lập tức dùng ngay vật nhọn đó cắt vào ngón tay của mình và đặt vào miệng cháu. Cứ thế mỗi lần con của bà khóc thét lên là một vết cắt của yêu thương được xuất phát từ thân thể của bà. Cứ thế cho đến khi bà ngất đi vì bât tỉnh và không hề biết những chuyện xẩy ra sau này.

Người ta hỏi bà là khi cắt da thịt mình để lấy máu thay sữa cho con, bà không sợ chết sao? Bà trả lời rằng với bản năng của người mẹ, tôi không có thời gian để suy nghĩ. Sự sống của con tôi là tất cả những gì mà tôi có thể làm được; cho dù giờ này biết làm thế rồi chết, tôi vẫn làm.

Anh chị em thân mến,

Giống như lòng của mẹ, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho con được sống, Chúa Giêsu - người Mục Tử Nhân Lành và Từ Bi- luôn để mắt đến chúng ta. Người đã hy sinh mạng sống để cho chúng ta được sống, một cuộc sống sung mãn và tràn đầy. Người đã không bị thần chết tiêu diệt. Trái lại, Người đã vượt qua sự chết để được Phục sinh và luôn ở bên cạnh chúng ta. Người không bao giờ rời mắt khỏi chúng ta. Niềm tin thâm sâu của chúng ta là, nhờ vào sự hiện diện âu yếm của Người, chúng ta sẽ bình an đạt tới đích trong sự bao bọc của Thiên Chúa.

Như vậy, bản năng và ơn gọi mà Thiên Chúa đã mời mẹ chúng ta lãnh nhận thật cao quí. Vì thế, để hoàn thành sứ mạng này, mẹ chúng ta có một cuộc sống tuy giản dị và âm thầm nhưng lại vô cùng kiên trung. Mẹ đặt trọn niềm tin và sự cậy trông nơi Đấng đã mời gọi mẹ. Mẹ đáp nhận bằng cả con tim yêu thương của mẹ để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ thật đáng tôn vinh như những vị anh hùng vô danh mà chúng ta thường tưởng nhớ, hoặc như những vị thánh âm thầm mà không cần tuyên phong. Cuộc sống của các Người như những lời mời gọi, như những động lực giúp chúng ta tiếp tục sứ mạng làm chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa.

Vậy, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một người mẹ, đã ban cho nhân loại ‘ơn gọi làm mẹ’. Ước gì những ai được mời gọi thừa kế quyền lãnh đạo của Chúa Giê-su, hãy có con tim của người mẹ, luôn yêu thương và sống trọn vẹn cho những ai mà Chúa ban cho họ chăm sóc. Amen

Happy Mother’s day!