Thưa anh chị em,
Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su
có lối kể truyện thật đặc biệt. Các câu chuyện Người kể làm chúng ta phải suy
nghĩ, chấp nhận thách đố và thay đổi. Như trong câu chuyện ‘hai người con’. Sau
khi nghe xong, chúng ta khám phá ý định của Chúa là muốn chúng ta thưa xin vâng
và sống điều xin vâng đó trong suốt cuộc đời. Với dụ ngôn ‘những người làm công
sát nhân’, Đức Giê-su nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại bổn phận của mình, luôn là
những người làm công trong vườn nho, còn Thiên Chúa mới là chủ nhân, chúng ta
không được phép tiếm quyền. Hôm nay, trong dụ ngôn tiệc cưới, Đức Giê-su mời gọi
chúng ta thay đổi lối sống.
Vì thế, chúng ta đừng tìm hiểu và đọc
các câu chuyện trong các dụ ngôn theo nghĩa đen mà phải tìm ra chân lý mà dụ
ngôn ẩn chứa để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với sự mới mẻ mà Đức Giê-su
muốn dậy bảo.
Trước tiên chúng ta hãy tưởng tượng.
Anh hay chị đã bao giờ nhận được lời
mời đến tham dự một bữa tiệc mà bạn thực sự không muốn tham dự? Bạn đã làm gì về
điều đó? Tôi cá là bạn đã không ngược đãi, lạm dụng và giết người báo tin hay
nhân viên đưa thư. Thế mà, đó là những gì đã xảy ra trong câu chuyện hôm nay.
Anh hay chị đã bao giờ hết lòng hết dạ
khoản đãi những khách mời, cuối cùng họ lại không đến chưa? Các việc chuẩn bị
như dọp dẹp nhà cửa, nấu ăn, trang trí phòng ăn thật ấm cúng. Mọi việc đã chuẩn
bị sẵn sàng, gia nhân đã được chỉ bảo trong việc tiếp đón khách. Nhưng đến giờ
khai tiệc vẫn còn một số khách không đến tham dự. Trong hoàn cảnh đó anh hay chị
sẽ làm gì? Tức giận rồi cho gia nhân đi đốt nhà họ hay sao? Có lẽ bạn sẽ không
làm điều đó. Thế mà, đó là những gì đã xẩy ra trong câu chuyện hôm nay.
Câu chuyện mà Đức Giê-su kể hôm nay tạo
một cú sốc cho người nghe. Tuy nhiên chúng ta không nên hình dung và đi đến một
kết luận cho rằng Thiên Chúa là một vị vua giận dữ, đã đối xử với những người
không theo ý Ngài bằng cách sai quân binh đến hủy diệt dân tộc mình và đốt cháy
thành phố của họ như đã được trình bầy trong dụ ngôn. Tất cả không phải sự thật
mà Tin Mừng loan báo.
Dụ ngôn ‘tiệc cuới’ hôm nay ám chỉ đến
bữa tiệc ‘cánh chung’, bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó chúng ta thấy
dung mạo của một vị Thiên Chúa rất nhân từ, kiên tâm trong công việc. Bữa Tiệc
do Ngài làm chủ. Ngài tự ý mở tiệc và cho gia nhân đi mời mọi người. Cho dù,
khi gặp phản ứng khước từ của nhóm khách đầu tiên, nhà vua đã có nhận định là họ
không xứng đáng. Lối nói này dẫn chúng ta thấy hành động sau đó của nhà vua cho
gia nhân đi mời mọi người. Qua đó, chúng ta mới thấy tư cách được mời không phải
vì họ xứng đáng, nhưng đây chính là tâm huyết và niềm vui của Ngài. Điều đặc biệt
ở đây là Thiên Chúa không giữ ‘niềm vui’ cho riêng mình, nhưng Ngài đã tự ý
chia sẻ niềm vui đó qua việc sai các sứ giả, hết nhóm này đến nhóm khác, mời tất
cả mọi người, ở tất cả mọi nơi - từ các nẻo đuờng và trong các hang cùng ngõ hẻm
- đến tham dự tiệc cuới.
Nhưng giữa hai nhóm được mời tham dự
tiệc cưới có điểm khác biệt.
Sự khác biệt không phải là những người
thuộc nhóm thứ nhất xứng đáng hơn những người thuộc nhóm sau. Những vị khách được
mời đầu tiên là những người nhận được lời mời và sự ưu ái của nhà vua. Nhưng những
vị khách được mời thứ hai cũng vậy. Và người đàn ông xuất hiện không mặc áo cưới
cũng vậy. Họ đều được mời. Họ đều được ưu ái. Không ai trong số họ đã làm bất cứ
điều gì để có thể cho rằng mình xứng đáng được mời. Chúng ta cũng thế.
Sự khác biệt không phải là nhà vua
thích nhóm này hơn nhóm khác. Động lực duy nhất của nhà vua là muốn chia sẻ niềm
vui, san sẻ trong bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Điều này nói lên lòng đại lượng
và tâm tình san sẻ của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa muốn mọi người tham
gia vào niềm vui và những sinh hoạt trong gia đình của Ngài. Những người được mời
đều có cơ hội như nhau. Chúng ta cũng thế. Cơ hội luôn chờ đợi sự cộng tác và
đón nhận của chúng ta.
Sự khác biệt không phải là một số
khách tốt và những người khác xấu. Không có sự phân biệt hoặc đánh giá nào được
thực hiện dựa trên hành vi, niềm tin, thái độ sống hay lối hành xử đạo đức. Ngược
lại, với lần mời thứ hai, nhà vua cử người hầu của mình ra các đường phố chính
với chỉ thị “gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Và gia nhân đã làm như chỉ thị:
đi ra các nẻo đường, gặp ai, không phân biệt tốt xấu, sang hèn, giầu nghèo, có
địa vị hay không, mời hết khiến cho phòng tiệc cưới đã đầy khách dự tiệc. Chúng
ta cũng thế, không phân biệt tốt xấu, ai ai cũng được mời.
Có sự khác biệt giữa hai nhóm. Đó là
cách thức hiện diện. Những vị khách được mời lần thứ hai đã hiện diện. Họ vào chật
kín phòng tiệc. Trái lại, những người được mời đầu tiên lại không có mặt. Họ có
lý do chính đáng, như đến các trang trại, tham quan các cơ sở kinh doanh hay đi
buôn. Điều mà họ thiếu sót là sự sống đích thực chỉ có thể tìm thấy được trong
Nước Thiên Chúa, trong các bữa tiệc do Thiên Chúa khoản đãi mà thôi. Chúng ta
được mời và chấp nhận lời mời bằng sự có mặt mật thiết bên nhau trong Nước của
Ngài. Từ đó, chúng ta nhận ra mình thật xứng đáng. Xứng đáng không phải vì mình
nhưng vì Chúa nhận ra mình thật xứng đáng được yêu thương, xứng đáng được đồng
bàn. Đó là lúc Chúa thay đổi chúng ta.
Còn về người khách không mặc y phục lễ
cưới trong nhóm thứ hai, chúng ta sẽ nói thế nào đây? Người ta có thể xếp
anh vào loại người có niềm tin mà không có việc làm như được mô tả ở đoạn 2 trong
thư của Thánh Gia-cô bê, Ngài nói “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”,
giống như đi vào phòng tham dự tiệc cưới mà không có y phục lễ cưới thì đáng bị
ném ra ngoài.
Nhưng hôm nay, tôi nhận ra một điều
khác ở người khách này. Khi bị hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có ý
phục lễ cưới?” thì anh ta ngậm tăm, miệng câm và không nói được gì. Có một cái
gì thiếu nơi anh. Anh không nói được điều nào hết! Anh tuy có mặt nhưng thật ra
đã không hiện diện. Thân xác anh bất động ở đó, nhưng tâm hồn và các sự khác của
anh đã thoát khỏi phòng tiệc. Anh có mặt như không có mặt. Cứ như thể anh không
thực sự hiện diện nơi đó.
Sự thật này đã xẩy ra trong kinh nghiệm
sống của chúng ta. Đã bao lần thân xác ta ở đó, nhưng lòng của mình đã bay tận
chốn nào rồi! Tình trạng ‘đồng sàng dị mộng’ hay ‘lãnh cảm’ là thế đó. Sự thật
này cũng đã xẩy ra trong cuộc sống của chúng ta với Chúa. Đã bao nhiêu lần, thân
xác chúng ta trong nhà thờ mà lòng trí lại ở tận nơi đâu. Giống như thế, trong
các mối tương quan, đã bao nhiêu lần chúng ta có mặt như không có mặt. Sống
chung một nhà mà không muốn nhìn mặt nhau thì coi như người đó đâu còn hiện diện
nữa.
Sau cùng, chúng ta hãy nhớ rằng: tiêu
chuẩn mà chúng ta được mời tham dự tiệc cưới hoàn toàn không dưạ trên lòng đạo
đức, thánh thiện hay là phẩm chất tốt lành của chúng ta. Lời mời được phát sinh
bởi Thiên Chúa, từ lòng quảng đại của Người, Đấng tha thiết mời gọi chúng ta trước
là hiện diện rồi mới chia sẻ niềm vui với Người. Nhưng lòng quảng đại, nhân từ
và kiên tâm chờ đợi của Thiên Chúa không bao giờ là một cái cớ khiến chúng ta tự
mãn và coi thuờng rồi không hợp tác với Ngài. Chính việc chọn lựa không hợp tác
của chúng ta giống như người không có y phục lễ cưới đã được mô tả trong dụ
ngôn. Đó có thể là nguyên nhân khiến chúng ta tuy có mặt nhưng không hiện diện.
Tự mình loại mình ra khỏi bữa tiệc của niềm vui.
Vậy, mỗi khi gặp nhau trong các lần gặp
mặt, các bữa ăn, nhất là qua các bữa tiệc lòng mến hay còn gọi là Thánh Lễ,
chúng ta sẽ mang đến bữa tiệc một sự hiện diện đích thật, không giả dối; đong đầy
yêu thương và tha thứ cho nhau; chấp nhận con người với những yếu đuối của nhau;
luôn mở ra để đón tiếp và chấp nhận nhau; tay bắt, mặt mừng và với niềm hân
hoan để cùng có mặt, cùng nhau chia sẻ niềm vui mọi ngày cho đến tận thế. Amen!
No comments:
Post a Comment