Wednesday, 18 September 2024

SỨ MẠNG CỦA MÔN ĐỆ LÀ PHỤC VỤ


Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Thomas Merton, nhà thần học chuyên về tu đức và đời sống thiêng liêng rất nổi tiếng người Mỹ, đã nói một câu thật chí lý như sau: “Không ai là một hòn đảo.” Có nghĩa là chúng ta chỉ thật sự sống như một con người khi sống nối kết với người khác. Người khác đó không ai khác hơn là những người ta gặp hàng ngày, thậm chí có thể là những người không cùng ‘phe’ mình. Nói chung, người khác mà chúng ta đề cập ở đây là tất cả mọi người trong cộng đòan.

Còn gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được sống trong một cộng đòan, nhỏ bé như gia đình hoặc rộng lớn như Giáo hội, mà trong đó mọi thành viên đều sống cho nhau, vì nhau và thương yêu nhau. Muốn được như thế thì mọi thành viên trong cộng đòan cần có trách nhiệm xây dựng và hoàn thành mục tiêu sống và nghĩ đến nhu cầu của nhau. Trái lại, nếu các thành viên trong cộng đoàn chỉ nghĩ và sống cho quyền lợi riêng, thì chúng ta không cần đi tìm ‘hỏa ngục’ đâu xa nữa; nó hiện diện ngay trong môi trường và lối sống ích kỷ mà chúng ta đang dành cho nhau đó. Và hậu qủa của lối sống ích kỷ là những va chạm, bất hòa và đổ vỡ. Một thực tế đáng buồn là chúng ta quá dễ dàng hòa hợp với lối sống đó. Và như cơn bịnh ung thư, nó cứ thế lan rộng và ăn dần vào từng bộ phận và giết dần giết mòn các chức năng khác của thân thể.

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn, nhưng một trong những nguyên nhân gây ra chia rẽ trong cộng đoàn lại xẩy ra bởi lòng ước muốn của những người lãnh đạo. Như các Tông đồ, các nhà lãnh đạo cũng bị cám dỗ về quyền lực.

Hẳn anh chị em vẫn còn nhớ lời cầu xin của Gia-cô bê và Gio-an. Các ông chỉ xin Chúa cho ngồi hai bên Chúa mà thôi. Điều đó có nghĩa là nếu Chúa là chủ tể (Tổng Thống) thì một ông là Thủ Tướng và ông kia là Tổng trưởng quốc phòng. Còn vị trí nào cao hơn điều mà các ông xin. Các tông đồ kia cũng có tham vọng như thế, nhưng không ‘nhanh miệng’ bằng hai anh em ông Gio-an, vì thế đâm ra tức tối (Mk: 10:41).

Nói tóm lại, nhìn lại các chứng cứ và các hiện tượng đã xẩy ra trong quá khứ, chúng ta nhận ra rằng quyền bính để thống trị, quyền lực để áp bức thường là những nguyên nhân khiến cộng đòan - nhỏ bé như gia đình, hay rộng như Giáo hội - bị chia rẽ và phân tán. Ai trong chúng ta cũng có trải nghiệm này.

Anh chị em thân mến,

Gia đình ít khi bị đổ vỡ vì con cái. Các cháu có thể là nguyên nhân gây ra sự bất đồng trong việc giáo dục. Nhưng nguyên nhân chính yếu thường xẩy ra bởi cha mẹ. Thay vì dùng khả năng, ân phúc để xây dựng và phục vụ lẫn nhau, nương tựa và cùng giúp nhau chu toàn nghĩa vụ được trao ban; trái lại chúng ta lạm dụng uy quyền để áp bức và thống trị nhau. Thậm chí có những tình huống bạo lực xẩy ra trong gia đình. Chỉ vì không ai chịu thua ai. Ai cũng dành phần thắng, phần nhất về cho mình. Trong khi dùng quyền bính để sai bảo người khác, chúng ta đã quên đi một điều là ai nói mà chẳng đuợc, ai cũng bảo vệ lập trường và lý luận của mình. Lắng nghe nhau mới là điều khó mà chúng ta cần học.

Nói tới đây, tôi nhớ lại những lời khuyên của các bậc trưởng thượng, trải qua bao thử thách trong cuộc sống chung. Các ngài đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm trong việc xây dựng gia đình của họ như sau. Họ nói rằng, thua là nghệ thuật sống chung trong gia đình. Khi bạn thua là lúc bạn thắng. Thắng chính mình để sống cho nguời khác hầu đem lại bầu khí an vui và hạnh phúc cho gia đình.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể nào loại bỏ các khuynh hướng xấu đang lan tràn và ảnh hưởng cuộc sống của chúng ta, đó là lối sống thống trị, ăn trên ngồi trốc. Trước hoàn cảnh đó, đặc biệt để giải quyết các tranh cãi của các Tông đồ hôm nay, Đức Giê-su đã đưa ra một giải pháp luôn luôn mới lạ và vô cùng hiệu quả nếu chúng ta biết áp dụng, và đây cũng là một thách đố cho Giáo Hội trong mọi thời đại.

Trong quá khứ quyền bính của các vị lãnh đạo Giáo Hội được công nhận về mặt thế quyền nữa. Thần quyền và thế quyền hòa trộn với nhau. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội quá nhiều quyền bính và được tôn vinh quá mức. Vinh quang mà họ thụ hưởng phản ảnh quyền lực của thế gian hơn là cách thức mà Chúa Giê-su dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người.” Không chỉ có thế, sau đó Người đem một em nhỏ đến và đặt cháu đứng giữa các môn đệ, rồi ôm lấy cháu rồi nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy.”

Như anh chị em đã biết, vào thời Đức Giê-su, thân phận của người phụ nữ và trẻ con không được tôn trọng và quí mến. Đối với họ thì hai hạng người này bị coi là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Theo luật thì các cháu phải chờ đến lúc lên mười hai tuổi mới đuợc tham dự các nghi thức phụng vụ tại Đền Thờ.

Đối với Đức Giê-su thì khác, khi đem em nhỏ đến và đặt giữa các ông là lúc Người muốn căn dặn các ông và chúng ta rằng: em nhỏ này là hình ảnh tượng trưng cho những người thấp cổ bé miệng, nghèo hèn, bị coi thường và không có tiếng nói về mặt đạo cũng như mặt đời. Như vậy, qua cử chỉ đón tiếp thật ân cần mà Đức Giê-su dành cho em bé hôm nay, Người muốn dậy các ông bài học quan tâm và đón tiếp nhau.

Không ai trong chúng ta là người giầu có hết. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là người nghèo. Chúng ta chẳng có gì trao cho nhau cả. Tất cả đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng trao vào tay chúng ta những món quà cho người khác. Vì thế, khi chúng ta đón tiếp người nghèo, người tất bạt, người đói khát, trần truồng, bịnh hoạn, những người không có địa vị như trẻ em thì đó không phải là một hành vi bố thí, thương xót về thân phận của họ bị coi thường, cho bằng nhận ra sự hiện diện của Đức Chúa nơi những người đó. Chúa hiện diện trong con người và cuộc sống của họ, cho nên khi chúng ta đón tiếp, yêu thương và giúp đỡ những người như thế là giúp đỡ và yêu thương chính Chúa.

Lời khuyên của Chúa được kèm theo việc làm của Người. Cử chỉ của Đức Giêsu khi ôm em nhỏ vào lòng là lúc Người biểu lộ lòng quí mến, yêu thương và tiếp nhận. Tiếp nhận một em nhỏ như thế chắc chắn không phải để em nhỏ phục dịch mình, nhưng là cơ hội mà Người muốn dậy cho các môn đệ bài học phục vụ. Hãy nhớ lại Lời Người đã nói “ai phục vụ ta thì hãy theo Ta”. Chúng ta đã là môn đệ của Người, vì thế chúng ta không còn chọn lựa nào khác hơn là phục vụ. Đó chính là lẽ sống và niềm vui của người môn đệ.

Như vậy, điều Chúa khuyên: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải là người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” quá rõ ràng. Có nghĩa là ai muốn làm lớn, theo tinh thần của Đức Ki-tô, phải là người phục vụ trước. Phục vụ là chìa khóa, là nguyên tắc của quyền lãnh đạo. Uy quyền có được trao ban cũng là do Thiên Chúa. Địa vị, quyền cao chức trọng cốt để phục vụ mọi người, chứ không phải để thống trị, như Chúa phán: "Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ." Chúa đã đảo ngược cách hiểu thông thường về sự vĩ đại, vị trí của người làm lớn. Trong Nước Trời, người lớn nhất không phải là người có quyền lực, địa vị cao, mà là người hạ mình, phục vụ người khác.

Như vậy, qua trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta đảo ngược những giá trị mà thế gian thường đề cao, thay vào đó là tấm lòng phục vụ và quan tâm đến những người yếu thế trong xã hội. Bởi vì, chỉ có Chúa mới là ông chủ, còn tất cả chúng ta chỉ là những người thừa hành và phục vụ lẫn nhau. Nói cách khác, cuộc sống của những kẻ có niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh là cuộc sống phục vụ, sẵn sàng hiến mạng mình vì ích lợi của người khác. Amen!

Monday, 9 September 2024

THẦY LÀ AI?


Trong bài Tin Mừng, Chúa hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” cũng là câu hỏi mà Chúa đặt ra cho tôi hôm nay. Tôi xin thú nhận rằng tôi vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Chúa là ai trong cuộc sống? Lắm lúc tôi thấy Chúa thật gần gũi, thật dễ thương và dường như Chúa đã làm chủ đời tôi rồi. Nhưng, lúc khác tôi lại chẳng thấy Chúa đâu cả. Người hiện diện mà tôi chưa được thấy nên Người vẫn xa vắng. Tuy nhiên, tôi không dám bỏ cuộc, vẫn cố gắng tìm kiếm với niềm hy vọng một ngày nào đó tôi sẽ biết Người như Người đã biết tôi.

Sau khi đã trải qua hơn hai phần ba hành trình của đời người, với mọi nỗ lực và cố gắng, đối diện và nhiều lần ngã gục trước các thử thách… tôi nhận ra rằng mình chưa làm được gì để chứng minh Chúa là chủ tôi… Vẫn như ngày đầu tiên… Tâm nguyện vẫn còn… Nhưng sức lực yếu dần, đèn trong nguời cũng sắp cạn hết dầu … Tôi vẫn loay hoay đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ‘Thầy là ai?’

Ở đây cũng vậy! Số là sau phần tuyên tín của Phê-rô là lúc Đức Giêsu bộc lộ con đuờng mà Con Thiên Chúa phải đi thì ông lại ngăn cản Người. Lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Không chỉ có thế, trên đường thương khó Phêrô đã chối Thầy đến ba lần… Tuy nhiên, Phêrô cũng là người đã bộc lộ tình yêu và lòng mến dành cho Thầy…

Thánh nhân cũng có nhiều tài năng để trở thành một môn đồ tốt. Ngài thẳng thắn, tự tin, chăm chỉ, không che đậy, không tính tóan hơn thiệt giống như các bạn của ông tìm cách để tìm kiếm địa vị cao hơn…  và nhất là lúc nào cũng muốn và trở thành một người bạn thiết nghĩa với Thầy mình. Chính vì thế mà Chúa tín nhiệm ông. Nói khác đi, vì nhận ra mình là người còn đầy khiếm khuyết và tội lỗi nên Phê-rô quyết tâm lệ thuộc vào Chúa. Đối với Phê-rô, Chúa làm chủ đời ông.

Thưa anh chị em, còn anh chị em nói Thầy là ai?

Chúng ta có thể tìm thấy muôn vàn câu trả lời dựa trên sách vở và kiến thức về Đức Giêsu; nhưng tất cả những câu trả lời đó sẽ đem lại gì cho chúng ta! Hãy tìm câu trả lời bằng chính lối sống mình.

Có thật chúng ta tin nhận Người là Đức Ki-tô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và mở lối chỉ đuờng cho chúng ta về với Cha hay không? Và, nếu chúng ta đã hãnh diện tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa thì trong cuộc sống chúng ta đã đầu phục vị Chúa đó hay là vẫn dùng Người như là khí cụ để phục vụ tham vọng của mình?  Niềm tin và cuộc sống của những ai tin vào Chúa phải đồng nhất nên một. Không thể nào miệng tuyên xưng một đường, rồi chọn lối sống theo ngã khác. Chúng ta cứ làm như đời và đạo vẫn là hai mặt tách biệt của cuộc sống, không gắn bó và ăn nhập gì với nhau.

Vậy, Đức Giêsu là ai?

Tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này không phải là việc dễ dàng. Có thể, trong suốt cuộc sống chúng ta cũng chỉ thấy mờ mờ mà thôi. Câu chuyện sau, xẩy ra mọi nơi, có thể giúp chúng ta phần nào. Truyện kể như sau:

Trong một lớp giáo lý, dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, ma-sơ hỏi các em: Còn các con nói Đức Giêsu là ai? Cả lớp nhao nhao, có cháu nói Nguời là Thiên Chúa, cháu khác lại nói là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa… v.v. Gom chung lại thì các cháu nói đúng như văn bản trong Kinh Tin Kính mà chúng ta tuyên xưng với nhau trong các Thánh Lễ Chúa Nhật.

Trong khi đó, ma-sơ để ý thấy một bé trai ngồi ở góc lớp, im lặng, mắt nhìn ra cửa sổ, đăm đăm như có chuyện gì khó giải quyết. Sơ đến gần, chăm chú nhìn cháu rồi một lần nữa rồi nhắc lại câu hỏi. Cháu thẫn thờ trả lời: Thưa sơ, con không biết! Con chỉ biết là hiện nay em con đang bị ốm, trong nhà không có tiền mua thuốc. Ba con là một quân nhân, hiện đóng quân ở một vùng rất xa. Mẹ đang chạy ngược chạy xuôi ngoài chợ… Nếu Đức Giêsu là Chúa thì sao Người không săn sóc cho em con! Mọi người đều ngạc nhiên trước câu trả lời của bạn mình. Chẳng ai biết làm gì! Sau cùng, bà sơ lấy ra một túi nhỏ, tự mình bỏ vào đó vài đồng cắc và chuyền túi đó cho cả lớp, rồi trao cho em.

Qua hành động và chứng từ như thế, chúng ta sẽ làm chứng Đức Giêsu là ai, không chỉ bằng lời nói, cho dù đó là bản kinh Tin Kính, lời tuyên xưng của Hội Thánh; nhưng đó chính là những trải nghiệm của cuộc sống. Người đến để mời gọi chúng ta hy sinh, quan tâm, yêu thuơng và thỏa mãn các nhu cầu của nhau.

Nói đến hy sinh là phải nhớ đến từ bỏ. Đây không phải là việc làm dễ dàng. Từ bỏ một nết xấu, thói quen đã khó. Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su mời gọi chúng ta từ bỏ mình, vác Thánh giá rồi đi theo Người, có nghĩa là khi chọn đi trên con đường của Chúa là lúc chúng ta bị thế gian loại bỏ.

Ai trong chúng ta có thể làm đuợc điều đó! Chúa mới là cội nguồn của sự việc. Chúa làm trong chúng ta. Chúa không làm thay vì Người đã ban và muốn dùng chúng ta như những khí cụ để thể hiện uy quyền của Người. Đúng thế, người tín hữu, dù được gọi sống trong bậc nào, âm thầm nhỏ bé như hạt cải văng vãi ở một góc nào trong xứ đạo hay đứng đầu một địa phận hoặc ở một vị thế cao hơn thế nữa, v.v… Cuộc sống của người môn đệ phải là mục tiêu cho những người chung quanh đặt vấn đề và họ phải tìm kiếm câu trả lời. Có nghĩa là, cuộc sống của chúng ta, bao gồm từ lời nói đến việc làm, sẽ là một câu hỏi cho những người chung quanh. Họ phải tìm hiểu xem chân tướng của chúng ta là ai? Thế gian sẽ không biết Chúa, nhưng qua cuộc sống của chúng ta thế gian sẽ có câu trả lời Chúa là ai?

Chúa là Đấng cứu chuộc. Người đã ban ơn cứu độ cho chúng ta. Người đã hoàn tất ý định và chương trình của Cha, phần còn lại là của chúng ta. Hãy đón nhận Chúa và ơn cứu độ của Người vào trong cuộc sống để ơn cứu độ trở thành hiện thực. Và đây là chứng từ. Hy vọng bạn và tôi sẽ là những nhân vật trong câu chuyện sau:

 Truyện kể về một người thanh niên có cuộc sống phóng đãng, đã phung phí tài sản của gia đình vào rượu chè, ma túy, phụ nữ, cờ bạc và lãng phí cuộc đời mình. Các nhân viên cảnh sát trong vùng đều biết mặt anh ta. Mọi người trong xóm đều nghe và biết về những hành vi đồi trụy của anh. Thậm chí, cha anh cũng không muốn nhìn nhận anh. Chán nản vì bị xua đuổi nên anh chọn cuộc sống ly hương và hứa sẽ không bao giờ quay trở lại chốn cũ.

Ngày này qua tháng nọ. Thời gian cứ trôi và không ngừng để chờ đợi anh. Mọi người trong xóm ngõ, ngay cả cha anh cũng quên sự hiện diện của anh trên cõi đời này. Duy nhất chỉ còn một người không bao giờ quên anh, đó là mẹ anh. Tính từ ngày anh ra đi đến nay đã tròn hai năm, mẹ anh sống trong buồn chán và nhớ thương cho nên đã ảnh hưởng đến sức khỏe của bà. Bà vốn là một phụ nữ yếu đuối, lại thêm buồn chán cho nên càng ngày càng tiều tụy cho đến một ngày kia khi thấy sức khỏe yếu dần bà mới ngỏ ý với chồng là muốn gặp cậu con đang trôi dạt ngoài chợ đời lần sau cùng trước khi bà chết. Chồng bà miễn cưỡng nhận lời. Tuy không biết anh đang ở nơi nào, nhưng họ cố gắng nhờ các phương tiện truyền thông đại chúng kêu gào và nói lên ý nguyện của người mẹ. Bằng cách này và cách khác, người cha cuối cùng cũng nhắn được mẫu tin báo cho anh biết về tình trạng và ước mơ của mẹ anh.

Nhận được tin, cậu vội vàng về nhà và ngay lập tức chạy vội vào phòng ngủ của mẹ và bàng hoàng khi thấy hình ảnh và dáng vóc tiều tụy của mẹ. Anh không cầm được nước mắt, nhào vào ôm choàng lấy mẹ, nức nở nghẹn ngào, vừa khóc vừa nói: “Thưa mẹ, con thật đáng chết, vì con mà mẹ phải đau khổ đến dường này, chẳng còn dáng người nữa, thà mẹ đừng sinh ra con thì hơn.” Chờ cho anh nói xong, bà mới nhấc đầu anh dậy, ôn tồn và nói: “Mẹ không hề giận hờn con, mẹ cũng có lỗi vì để con sống đầu đường xó chợ. Mẹ chưa bao giờ trách con. Mẹ luôn tha thứ cho con. Mẹ yêu thương con vô ngần và mẹ biết rằng Chúa còn yêu thương, săn sóc và giữ gìn con giúp mẹ nữa.”

Nghe đến đó, mắt anh bừng sáng lên nhìn mẹ không chớp mắt. Nhìn vào cặp mắt sáng long lanh đang chăm chú nhìn bà, người mẹ nhớ câu Chúa nói “Ta là sự sáng thế gian!” Sự sáng của Chúa chiếu soi từ đôi mắt anh và bà nhận ra có một sự thay đổi trong con người anh. Bà tin rằng, những gì bà cầu xin hay khấn nguyện cho anh, nay đã được Chúa nhận lời.

Ngay lúc đó, ba của anh bước vào phòng. Bà nhìn ông và nói: “Xin ông hay đón nhận và giúp con thay đổi. Em không còn sống được bao lâu nữa. Hãy giúp em làm cho con sống tốt hơn.” Ông bất đắc dĩ nhận lời vợ để bà yên tâm ra đi, nhưng trong thâm tâm ông biết rằng cậu con trời đánh của ông sẽ chẳng bao giờ giữ lời hứa, vì cậu đã hứa bao nhiêu lần trước đây mà nó có thay đổi đâu. Nhìn thấy thái độ của ông, bà đoán biết ý nghĩ của ông, nên âm thầm nói tiếp: “Trước đây con của chúng ta đã từng hứa, và nó đã từng thất hứa. Nhưng hôm nay, con đã gặp Chúa cho nên con chúng ta sẽ thay đổi. Anh hãy giúp em nhé.”

Nói xong bà cầm tay cậu con trai đặt vào lòng bàn tay của chồng bà và nhắm mắt lìa đời. Hai người đàn ông nắm chặt tay nhau và được gắn bó bởi tình yêu của họ dành cho người phụ nữ, người vợ và người mẹ này. Trong cái chết của bà, họ đã được Thiên Chúa hòa giải từ ngày đó.

Đó là truyện kể minh họa về sự tác động của Chúa nơi những kẻ tin.

Thật ra, Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta đã giao hòa thế gian với Người và mọi người với nhau. Thánh sử Gio-an đã loan báo rằng không ai có thể gặp gỡ Con của Ngài nếu Thiên Chúa không lôi kéo họ. Thật vậy, chúng ta được qui tụ lại với nhau trong Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Độ trần gian để trở thành anh chị em, cùng một chi thể với Đức Ki-tô là đầu của chúng ta.

Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, là đầu của thân thể, là Đức Ki-tô là lúc chúng ta đầu phục vị Chúa Tể, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ, được giao hòa với Chúa và trở thành anh chị em với nhau. Cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết dùng cả cuộc sống nhân chứng của mình để đáp trả lời chất vấn của Đức Giê-su: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Amen!

Wednesday, 4 September 2024

‘ÉP-PHA-THA’ HÃY MỞ RA!

 

Khoa học ngày nay đã sáng chế ra một loại ngôn ngữ bằng dấu chỉ (sign language) để giúp những người bị tật nguyền như câm và điếc có thể giao tiếp với người khác. Nhưng những người sống cùng thời với Đức Giê-su thì không được như vậy. Vì điếc nên họ không thể nghe và mức độ cảm thông với người khác cũng bị suy giảm. Vì bị câm nên họ không thể nói, vì thế việc làm cho người khác hiểu đuợc tâm tư và nguyện vọng của họ cũng gặp nhiều khó khăn. Tình trạng này kéo dài từ ngày nay sang ngày khác, nên sinh ra khó khăn trong việc giao tiếp. Cuối cùng, cuộc sống của những người bị câm và điếc càng ngày càng bị cô lập và xa cách với cộng đoàn. Chúa đã không nhìn họ như thế. Nơi Người có sự đổi mới. Chúng ta hãy tìm hiểu.

Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Mác-cô kể lại việc Đức Giê-su đã chữa cho một người vừa bị câm lại bị điếc được khỏi bịnh. Đức Giêsu không chỉ phục hồi tình trạng tật nguyền cho ông mà còn ra tay phá bỏ bức tường ngăn cách giữa ông và cộng đoàn. Từ đó, ông ta nghe được, nói được và cảm thông được với người khác, và ngược lại, người khác cũng dễ dàng nghe, hiểu và thông cảm với ông ta hơn.

Như vậy, việc chữa lành hôm nay không chỉ dừng lại việc chữa bịnh về mặt thể lý, nhưng còn nói lên việc Thiên Chúa tín trung, giữ lời hứa và tái tạo thế giới mới, một thế giới mà trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ một nỗi lầm than nào; sẽ không còn tật nguyền nhưng đầy sự sống; sẽ không còn đói khát, âu lo và chiến tranh nhưng là hòa bình. Thế giới sẽ tràn đầy niềm vui và hoan lạc. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa đã khai mạc trong Đức Giê-su. Trong ngày đó, những ai tưởng như mình đã chết, đã đui mù, đã câm điếc, què quặt và những tật nguyền giống như thế… sẽ được chữa lành. Tất cả sẽ vùng lên, hân hoan, vui mừng reo hò vì Đấng cứu độ đã đến và giải thoát họ khỏi tất cả những tật nguyền và hoạn nạn nói trên.

Kính thưa anh chị em,

Khi Tin Mừng Mác-cô ghi lại cho chúng ta những điều kỳ diệu của Đức Giê-su như việc làm cho người câm nói đuợc, người mù trông thấy và người điếc nghe được thì có nghĩa là lúc mà những gì đã được loan báo về Nước Thiên Chúa bởi các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ I-sa-ia nay đã được thực hiện. Đức Giê-su, một con người bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước mặt ta. Người không chỉ đứng đó mà nhìn ngắm rồi phán dậy. Người hiện diện một cách thật tích cực. Người hiện diện bằng hành động. Những tật nguyền đã làm cho con người sống trong đau khổ nay được tháo bỏ. Những hàng rào quan niệm khiến cho con người bị cô lập và mất đi mối hiệp thông như nói không ra tiếng, nghe không thấy âm sắc… tất cả đuợc cởi bỏ.

Hôm nay, Đức Giê-su đến để khai mạc thời đại mới. Tuy, bổn phận của chúng ta là Tin vào những gì mà Đức Giêsu đã làm. Nhưng, vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những quyền phép lạ lùng nhưng phải tin rằng những gì mà Đức Giê-su đã thực hành vẫn được thể hiện qua cuộc sống của chúng mình.

Đó là hồng ân. Chúng ta không chỉ là những người thừa hưởng gia nghiệp mà còn có bổn phận làm cho gia nghiệp mà chúng ta đã lĩnh nhận càng ngày càng phát triển rộng lớn hơn. Có nghĩa là, chúng ta cũng đuợc mời gọi, trong cuộc sống, trở thành những người biết san sẻ hồng ân và niềm vui khi được cứu độ cho người khác nữa.

Đó là ân phúc thật trọng đại, vì biết rằng mình đã thuộc về Thiên Chúa. Nhưng làm thế nào, chúng ta làm cho người khác nhận ra rằng chúng ta thuộc về Chúa. Có nghĩa là chúng ta cần có chứng từ trong cuộc sống. Nói khác đi, những ai đã thuộc về Thiên Chúa thì đều cảm nhận được niềm vui của Thiên Chúa, Đấng giải thoát, nâng đỡ và tháo gỡ những gông cuồng, đau khổ đang đầy đọa cuộc sống ta. Cho nên, trong niềm vui mừng và hân hoan đó, chúng ta không được phép khư khư giữ cho riêng mình mà còn phải biết nghĩ đến người khác, quan tâm cho những ai đang sống với các nỗi khổ đau, đang chịu thiệt thòi mà họ phải gánh chịu; rồi như Đức Giê-su, chúng ta sẵn sàng sống và chia sẻ cho họ nguồn ơn cứu độ mà chính bản thân mình đã đươc lĩnh nhận.

Chúa đã làm xong phần của Người, còn chúng ta, phải làm gì để xứng đáng với vinh dự là môn đệ của Đức Giê-su, Đấng đã mở tai cho người điếc, mở luỡi cho người câm, giải oan cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa cho muôn dân? Vấn nạn này chất vấn và theo chúng ta cả đời và với tư cách của tín hữu, chúng ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước các đau khổ của những con người mà Chúa đã đến để làm bạn với họ.

Tóm lại, Đức Giêsu đã đến để đưa quyền năng của Thiên Chúa vào thế giới này hầu tái tạo trời mới đất mới và trao ban sự sống mới cho muôn dân thế nào thì chúng ta cũng cần thể hiện như thế. Có nghĩa là cuộc sống của chúng ta cần được mở rộng và mở lớn hơn.

‘Mở’ ra cho Chúa và Lời của Người soi sáng tâm hồn vì đó là nơi kín ẩn mà Thiên Chúa muốn ngự trị.

‘Mở’ tung những ‘mặt nạ’ để khuôn mặt thật của Chúa được tỏa sáng.

‘Mở’ ra cho bản thân và người khác nhìn thấy Chúa nơi phần sâu thẳm nhất của đời mình.

‘Mở’ để nhìn, để nghe, để cảm thông, để buớc đến, để an ủi, để vỗ về và để san sẻ tình thương cho bao nhiêu người đang chờ đợi bàn tay và con tim của chúng ta….

Cuối cùng là ‘Ép-pha-tha – hãy mở ra’ để Chúa làm chủ mọi sự trong và ngoài của chúng ta. Amen.