Thursday, 8 November 2018

NGÀY CHUNG THẨM, KHAI MẠC TRIỀU ĐẠI MỚI.



Trình thuật Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay có lối hành văn thật khó hiểu, không gần gũi với chúng ta. Tuy nhiên, câu cuối cùng trong bài Tin Mừng giúp chúng ta thấy sứ điệp mà Đức Giê-su muốn nhắn gửi cho các môn đệ và các tín hữu mọi thời, đó là không ai biết khi nào sẽ tận thế. Người nói “còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”.
Tuy nhiên, mỗi khi thấy những biến cố hay các tai ương xẩy ra trên thế giới như: động đất, lũ lụt, chiến tranh thì không thiếu những người tín hữu vội vàng tiên đoán đó là các dấu chỉ của ngày tận thế. Lối suy đoán này đã từng xẩy ra trong lịch sử. Mỗi một giai đoạn trong dòng lịch sử, người ta lại có các kiểu đoán khác nhau.
Ở đây chúng ta nên nhớ lại lời của Thánh Augustinô sau cuộc trao đổi về ngày tận thế với Đức Tổng Giám Mục, giáo phận Sa-lo-ne-a, Ngài đã nói như sau: “Chúng tôi cũng không biết bao giờ sẽ tận thế. Bởi vì, đó không phải là việc của chúng ta biết khi nào ngày đó sẽ xẩy đến; việc đó nằm trong quyền hạn của Chúa Cha.” Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại cuối cùng.
Thời đại đó đã được bắt đầu từ thời các Thánh Tông Đồ, và sẽ còn tiếp tục sau cả thời của chúng ta nữa. Ngày tận thế còn cách xa chúng ta bao lâu, điều đó tôi cũng chẳng hề biết. Nhưng trong lúc này chúng ta hãy cứ sống trong niềm mong đợi về ngày đó. Và Ngài nhận thấy hiện có ba cách nhìn đã gây ảnh hưởng trên lối sống của các tín hữu thời đó trước những tin đồn về ngày tận thế như sau:
Có một số người quan niệm là hãy sống trong tỉnh thức và cầu nguyện, vì ngày Chúa đến sắp xẩy đến.
Một nhóm khác lại chủ trương là hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì đời sống của con người thì quá ngắn ngủi và bấp bênh và ngày Chúa đến hãy còn xa lắm.
Vì thân phận con người rất là yếu đuối và mỏng giòn, nên chúng ta hãy sống trong tỉnh thức và cầu nguyện trong niềm mong chờ ngày Chúa đến sẽ xẩy ra vào bất cứ lúc nào.
Đối với Thánh Augustinô thì lối sống thứ ba này là thích hợp nhất.
Dù rằng các lời tiên đoán về ngày tận thế đều không xẩy ra như người ta đoán già đoán non. Vì thế, chúng ta không nên quá chú trọng đến việc tiên đoán ngày nào sẽ là ngày tận thế. Nhưng hãy lưu ý đến nội dung của sứ điệp mà họ muốn nói đến là thời đại mà chúng ta đang sống là thời cuối cùng của lịch sử nhân loại, rồi đây vũ trụ sẽ bị tàn phá và sụp đổ để nhường cho việc Chúa đến trong quyền năng; và ngày đó có thể đang gần đến. Tuy nhiên, khi nào ngày ấy đến thì đó không phải là việc của chúng ta. Bởi vì, ngày đó là “Ngày của Chúa” và những gì của Chúa thì hãy để cho Chúa định liệu.
Chúng ta thường có quan niệm nhìn ngày tận thế rất tiêu cực. Ngày tận diệt, ngày phá hủy. Ngày khiến con người sống trong lo âu và sợ hãi. Thật là mâu thuẫn, bởi vì chúng ta đều gọi ngày đó là ngày quang lâm; không lẽ trong ngày hiển thắng của Đức Chúa quang lâm lại chỉ bao trùm chết chóc, sợ hãi và huỷ diệt hay sao! Đâu là sứ điệp vui mừng trong bữa tiệc cánh chung, đâu là hình ảnh ngóng đợi chàng rể đến để hợp hoan, đem vui mừng đến cho mọi người.
Quả thật, trong bài diễn từ về ngày cánh chung hôm nay có hàm chứa một biến cố lịch sử đã xẩy ra cho dân tộc Do Thái, đó chính là việc Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và đã bị huỷ diệt thành bình địa. Nhân dựa vào biến cố lịch sử này, các Thánh sử đều muốn nhắm đến sứ điệp là một thời đại đã qua đi để nhường chỗ cho những gì mới sẽ xẩy đến. Giê-ru-sa-lem cũ đã qua đi để nhường chỗ cho một Giê-ru-sa-lem mới. Và cho dù trời đất này phải qua đi thì Trời mới đất mới sẽ xuất hiện. Và một cảnh sống hoà bình sẽ đuợc thành hình như lời loan báo của ngôn sứ I-sa-i-a như sau: “Trong ngày đó, sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta.”
Hình ảnh mà ngôn sứ I-saia loan báo quả thật vô cùng đẹp đẽ và an bình. Qua đó, chúng ta tin rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự bình an, của sáng tạo, của sự sống chứ không phải huỷ diệt và sư chết. Có nghĩa là từ khởi thủy, Thiên Chúa đã sáng tạo muôn loại, và sẽ đưa muôn loài đến cùng đích trong sự viên mãn và thành toàn nơi Người. Bởi thế, trong ngày của Chúa, mọi sự sẽ được đổi mới toàn diện; ngày mà chúng ta thấy rõ dung nhan vinh hiển của Chúa, mà trong hiện tại chúng ta chỉ thấy mờ mờ.
Trạng thái lo âu và sơ hãi không có chỗ đứng trong hành trang của người tín hũu đang ngóng chờ Ngày Quang Lâm vinh hiển của Đức Chúa. Nhưng không vì thế, mà chúng ta lại đi vào thái cực khác là coi thường, thờ ơ rồi sống như không có ngày chung kết, rồi trong hiện tại con người lại tác oai, tác quái muốn làm gì thì làm, thậm chí kể cả các hành vi vô đạo  và bất lương cũng không từ. Trái lại, chúng ta phải nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của một người quản lý mà Chúa đã giao phó cho việc trông coi và phát triển vũ trụ này trở thành Trời Mới và Đất Mới.
Như vậy, thái độ tích cực nhất của chúng ta là hãy sắp xếp cuộc sống của mình cho phù hợp với các nhiệm vụ đã được giao phó nơi trần thế. Khi thi hành các trách vụ đó, chúng ta không mong tìm được lợi ích cho bản thân mình mà thôi, nhưng quyết tâm chu toàn bổn phận của người quản lý trung tín để phục vụ cộng đồng nhân loại và đổi mới bộ mặt của thế gian. Bởi vì, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn chăm sóc cho dân của Ngài, như lời giáo huấn của Giáo Hội: “Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi của vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của thế gian đã bị lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi. Nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới, một thế giới mới và ở nơi đó công bằng sẽ ngự trị. Hạnh phúc tại nơi ấy sẽ thỏa mãn và lắp đầy mọi ước vọng của sự an bình luôn trào dâng trong lòng con người... Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Tuy nhiên, sự trông chờ đất mới không được làm suy giảm, nhưng trái lại phải kích thích các nỗ lực phát triển trái đất này, đó chính là nơi mà gia đình nhân loại mới đang được tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ tại trần thế với sự bành trướng Vương quyền của Chúa Kitô, nhưng các tiến bộ tại trần thế phải trở nên yếu tố quan trọng đối với Nước Thiên Chúa và tùy theo mức độ gạn lọc để chúng có thể góp phần vào việc xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn” (Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 39). 
Ý thức được nhiệm vụ và bổn phận của mình trong dòng lịch sử nhân loại để ngóng chờ ngày mà Đức Kitô ngự đến trong quang lâm, mỗi Kitô hữu mang trong mình niềm tin tưởng vào sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến, qua những sinh hoạt của mình nơi trần thế. Niềm tin này không chỉ được qui chiếu vào những sinh hoạt phụng vụ hay các bổn phận luân lý cần phải chu toàn mà thôi; nhưng chính nó buộc chúng ta phải dấn thân trọn vẹn vào môi trường, tùy theo ơn gọi của mình, để làm cho môi trường mỗi ngày một hoàn hảo hơn. Đó là niềm hy vọng và cũng là ước nguyện của chúng ta.
Cầu xin cho đức tin, đức cậy của chúng ta cùng triển nở với đức ái để chờ ngày cùng được hiển thắng với Đức Giê-su trong ngày vinh thắng. Amen!



CỦA CHO KHÔNG BẰNG CÁCH CHO



Trình thuật Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này chia ra hai phần rõ rệt. Phần thứ nhất nói về cách sống của mấy ông kinh sư, thuộc về hàng ngũ của những người lãnh đạo tôn giáo Do thái thời Đức Giê-su và ảnh hưởng cách sống của họ kéo dài cho đến khi Thánh Mác-cô soạn tác Tin Mừng cho giáo đoàn mà Ngài coi sóc. Phần thứ hai là cách hành xử của bà góa, đại diện cho một trong những con người đáng thương nhất trong xã hội Do Thái thời đó.
Trong phần thứ nhất, Đức Giê-su nói cho dân chúng về cách sống và lối hành xử quyền bính của mấy ông kinh sư. Thánh Mác-cô nói rất vắn gọn, không dài dòng, đi thẳng vào mục tiêu mà Ngài muốn nhắm đến trong lời cảnh báo cuối cùng là nếu họ không thay đổi thì sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn các người khác, bởi vì họ đã đuợc ban cho nhiều hơn. Tuy nhiên, để giúp cho chúng ta thấy rõ hơn về cách hành xử mà chúng ta hay gọi là ‘lối sống giả hình’ của các ngài thì chúng ta hãy đọc thêm chương 23 của Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu nữa nha.
Lối sống giả hình của họ được thể hiện qua dáng vẻ bên ngoài để được tán dương như: từ cách đeo hộp kinh thật lớn, mang tua áo thật dài và thường xuất hiện công cộng. Thật ra việc đeo hộp kinh và mang tua áo không có gì là xấu bởi lề luật quy định như thế. Thế nhưng cái sai lầm và đáng trách là họ đeo hộp kinh lớn hơn và còn kéo tua áo dài ra để cho người khác nhìn thấy mà tán dương, còn tâm hồn thì rỗng tuếch. Ngoài ra, họ làm ra vẻ đạo đức thánh thiện, đọc kinh nhiều giờ trong các nghi lễ phụng tự; nhưng khi trở về cuộc sống thường nhật họ lại ức hiếp, chà đạp và cướp đoạt tài sản của các bà goá. Tất cả các điều này nói lên tâm địa của họ. Tất cả các việc đạo đức chỉ là bình phong che đậy dã tâm của họ. Họ lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để thỏa mãn nhu cầu và lợi ích cá nhân của họ và gia đình.
Đó là cách hành xử của các đấng các bậc dưới thời Đức Giê-su và thời sơ khai của Giáo Hội. Còn các nhà lãnh đạo của chúng ta ngày nay thế nào? Lối sống và cách hành xử của các ‘ngài’ trong thời đại hôm nay có khá hơn ngày xưa không?
Tinh thần ‘biệt phái’ vẫn còn! Vẫn còn một số đấng víp-vồ muốn tỏ cho người ta thấy uy quyền của các ngài, xúng xính với các bộ phẩm phục vào các dịp lễ lạc để được kính trọng. Còn quí thừa tác viên cấp dưới lại bị ảnh hưởng bởi ý tưởng là họ được sai đến để ‘cai trị’ hơn là ‘phục vụ’ khiến cho lời nói và việc làm của họ không được thống nhất. Thậm chí, còn một số vị uy nghi trong các bộ lễ phục khiến cho các nghi thức phụng vụ trở nên nặng nề và buồn chán.
Trong thời gian gần đây, chúng ta được nghe rất nhiều về ý định của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong việc cải tiến cơ cấu của giáo triều bên Rô-ma; và ngài cũng muốn các đấng vip-vồ tại các Giáo hội địa phương áp dụng ý định cải cách này. Tuy nhiên vẫn còn có một số vị trong hàng ngũ cao cấp ở giáo đô không đồng ý với chủ trương của Đức Thánh Cha. Nhưng đại đa số, nhất là thành phần những người thấp cổ bé miệng lại vô cùng hân hoan trước việc làm của Ngài. Đã đến lúc Giáo Hội phải trở về nguồn, trở về với yêu sách của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Nhìn lại lịch sử của Hội Thánh, chúng ta phải nhìn nhận rằng Hội Thánh đã từng trải qua các mối nguy cơ gây ra bởi việc lạm dụng uy quyền, cố gắng ngoi lên các vị trí hàng đầu của các vị lãnh đạo hay cách xử dụng các đặc quyền đặc lợi để vinh thân mình mà quên đi vai trò tôi tớ của người môn đệ. Lối sống giáo sĩ trị vẫn là mối nguy hại cho việc canh tân Hội Thánh theo tinh thần của Tin Mừng.
Một cách rất cụ thể, chúng ta phải kể đến các tin buồn về cách hành xử của một vài vị lãnh đạo gây ảnh hưởng không mấy tốt đẹp trong các cơ cấu và tổ chức, trong đó có cơ chế của Hội Thánh Công Giáo. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nhắc nhở cho chúng ta thấy tầm nguy hại của lối sống ‘giáo sĩ trị’ hay là sự ‘lạm dụng của các bậc quyền thế’. Các hành vi lạm dụng uy quyền này dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, thậm chí có những trường hợp dẫn họ đến các hành vi tội ác, để lại các vết sẹo trên thân thể và cuộc đời của các nạn nhân. Quả thật, chúng ta chẳng thể nào hiểu nổi các hành vi của họ!
Thưa anh chị em,
Khi đưa ra sự đối nghịch giữa lối sống và uy quyền giảng dậy của giới kinh sư và các thầy thuộc phái Pha-ri-sêu, Chúa muốn các môn đệ hãy nhìn vào lối sống của họ mà né tránh rồi tìm ra bài học về con đường mới, về lối sống mới mà chính Người là chứng nhân. Cụ thể trong phần kế tiếp của bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã trình bầy hình ảnh và việc làm qua việc hiến dâng lễ vật của bà goá như là gương mẫu mà các môn đệ cần noi theo.
Trưóc khi tìm hiểu việc làm của bà góa và cách đánh giá của Đức Giê-su về việc bà làm, chúng ta cùng nghe một truyện kể được tìm thấy trong kho tàng truyện tích tại các trang mạng. Truyện kể như sau:
            Có một ông kia tuy nghèo, nhưng lại có thú chơi xe. Ông đã phải dành dụm trong một thời gian rất lâu mới có đủ tiền để mua được chiếc xe mà ông yêu thích. Sau khi tậu nó về. Ông không ngại cực khổ, cặm cụi rửa xe, đánh bóng, rồi dành thời gian để ngắm nghía thành quả của mình. Ông coi công việc chăm sóc xe như một sở thích trong đời. Cậu con trai tuy còn nhỏ tuổi, nhưng lại đồng cảm với bố. Cậu thấy bố yêu thích chiếc xe như vậy nên cũng thường xuyên phụ bố rửa xe. Hai bố con làm việc rất vui vẻ.
Một ngày kia, người bố lái xe về nhà sau một trận mưa lớn, chiếc xe dính đầy bùn đất, nhưng ông lại quá mệt, nên nói với con trai: “Hôm nay bố hơi mệt, thôi để hôm khác chúng mình rửa xe nhé con yêu!” Cậu con trai thấy mình đang rảnh rỗi, liền xung phong muốn thay bố rửa xe, và được đồng ý. Tuy nhiên, người bố này lại quên là con trai mình chưa được muời tuổi đời. Ông thản nhiên trở về phòng nghỉ ngơi mà quên không chuẩn bị dụng cụ gì cho cậu bé cả.
Cậu quí tử hào hứng xông ra rửa xe, nhưng lại không tìm thấy khăn lau. Cậu bé chạy vào trong bếp, đột nhiên cậu nghĩ tới cái miếng chùi xoong mà mẹ vẫn thường dùng để chà nồi rất sạch sẽ, cậu liền lấy ngay miếng thép ấy để dùng. Cậu cầm miếng chùi xoong, chạy tới chạy lui chung quanh xe, ra sức chà, hết lần này tới lần khác. Sau khi chà xong, cậu phát hiện trên xe có những vết nguệch ngoạc, cậu sờ lên chỗ đó, lại thấy sần sùi, lồi lõm.
Thấy như thế, cậu sợ quá bèn khóc rống lên và chạy ngay vào phòng ngủ của bố, vừa khóc vừa nói: “Bố ơi, con xin lỗi, bố mau tới xem đi!” Ông bố vội vàng theo con trai chạy ra ngoài, chứng kiến chiếc xe “cưng” của mình mang một bộ dạng thê thảm như vậy. Ông không dám tin vào mắt mình. Nhưng, đó vẫn là sự thật! Ông ngẩn người ra, chết lặng đến cả nửa ngày mà vẫn chưa nói nên lời, mãi sau này ông mới thét lên: “Ối trời ơi! Chiếc xe của tôi, chiếc xe của ta ơi!”
Ông vô cùng tức giận, xông ngay vào trong phòng, ngửa mặt lên trời mà nói rằng: “Hỡi Thượng Đế, Chúa của tôi! Chúa biết, đây là chiếc xe mà con đã dùng hết tài sản đã dành dụm mới mua được; thế mà chưa đến một tháng, giờ này nó đã biến thành như vậy, xin người cho con biết, con nên làm sao? Con nên xử phạt đứa con này như thế nào đây?”
Lời cầu xin vừa chấm dứt, đầu óc của ông đột nhiên trở nên sáng suốt, và này một tư tưởng vừa lóe lên trong đầu: “Trong cuộc sống, mọi chuyện đều không thể nhìn vào cái vẻ bên ngoài mà phải nhìn vào trái tim.”
Trong khi đó, cậu con trai vẫn còn nước mắt đầm đìa. Nhìn thấy con mình như thế, bao nhiêu giận dữ của ông bố từ từ biến mất, ông bước lại gần dự tính trấn an con mình, nhưng cậu con trai vừa thấy bố đến gần, đã sợ lại càng run hơn. Ông ôm đứa con trai nhỏ bé của ông vào lòng rồi ôn tồn nói: “Cảm ơn con đã giúp bố rửa xe; bố yêu con nhiều hơn yêu chiếc xe này nữa!”
Câu chuyện này giúp ta nhận ra cách hành xử của Đức Giê-su trước hành động của bà goá trong bài Tin Mừng, đúng hơn là hai bà góa trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Hai bà đã dậy chúng ta một bài học, mà tôi đã đuợc nghe cha ông chúng mình dậy bảo rằng “của cho không bằng ý nghĩa hay cách mình cho.” Việc làm của hai bà thật đáng ngợi khen. Họ đã cho đi tất cả những gì mà họ có để duy trì cuộc sống của hai bà và gia đình. Có nghĩa là, họ đã cho đi chính cuộc sống của họ và gia đình. Hành động của họ không chỉ mang tính quảng đại, mà còn nói lên tính liễu lĩnh, biểu lộ một niềm tin vô cùng vững chắc vào Đấng có quyền trên việc sống chết của họ nữa.
Bà goá ở Sa-rép-ta trong bài đọc thứ nhất đã nói: “Tôi chỉ có trong hũ một nắm bột, và trong bình một chút dầu thôi”. Đó là của ăn đường cho bà và gia đình trước khi chết. Thế mà bà và gia đình sẵn lòng hy sinh phần ăn này để cứu ngôn sứ Elia khỏi bị chết đói. Hy sinh như thế nói lên tâm tình dâng hiến của bà. Hiến dâng những gì mình có tức là cho đi chính con người của mình, sự sống của mình. Mấy ai làm được điều này. Quả thật đây là một vấn đề khiến lương tâm chúng ta phải nhức nhối.
Tương tự như thế, ngày hôm nay trước cửa tiền đình của đền thờ Giê-ru-sa-lem và trước mặt bao nhiêu người giầu có đã dâng cúng vào hòm tiền của đền thờ phần dư thừa. Bà góa vô danh của chúng mình lại dâng cúng ít nhất, chỉ vỏn vẹn có hai đồng kẽm. Nhưng đó lại là tất cả những gì bà có. Bà dâng trọn vẹn những gì còn lại để nuôi sống bà. Bà cho đi tất cả.
Đức Giêsu nhìn thấy, không chỉ nhìn vẻ bề ngoài mà còn nhận ra trong phần sâu thẳm trong tâm hồn của những người dâng cúng nữa. Người nói “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”
Khi nói tới đây, chúng ta không thể nào quên được việc làm của Đức Giê-su. Hành động của bà góa hôm nay có thể được coi như một hình ảnh báo trước việc Đức Giê-su chuẩn bị thực hiện tại Giê-ru-sa-lem trên đồi Gol-go-tha. Người đã hiến dâng chính mạng sống mình làm giá chuộc muôn người. Lễ vật dâng trong đền thờ của bà góa hôm nay loan báo việc tự hiến của Đức Giê-su dâng cho Chúa Cha đấy thôi!
Một lần nữa, trình thuật Tin Mừng hôm nay thuật lại hoàn cảnh và việc làm của bà goá. Bà là hình ảnh của một lớp người lẽ ra được các môn đệ săn sóc, lại trở thành gương sáng, mẫu mực cho những ai muốn trở thành môn đệ của Chúa. Theo Chúa là để dâng hiến tất cả những gì mình có, như bà goá khi dâng cúng số tiền tuy ít, nhưng là những gì bà có. Như vậy, noi gương bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ và chúng ta cũng được dậy bảo để dâng hiến, không chỉ một phần, nhưng là chính cuộc sống mình cho công việc phục vụ đền thờ.
Ước gì trong Chúa chúng ta cũng biết noi gương bà góa trong việc hiến dâng tất cả để xứng đáng là môn đệ chân chính của Đức Giê-su. Amen!


Thursday, 1 November 2018

YÊU LÀ YÊU, CHÚNG MÌNH YÊU NHIỀU,YÊU QUÁ… CỨ YÊU.




           

Vào thời Đức Giê-su, đạo Do Thái có 613 khoản luật, trong đó có 248 lời khuyên và 365 luật buộc. Một cách ngay lành, chúng ta phải nhìn nhận các nỗ lực và cố gắng của họ trong việc tìm hiểu ý nghĩa của các huấn lệnh mà Chúa ban, để giúp họ sống. Nguyên thuỷ, người Do Thái tin rằng, qua tổ phụ Maisen, Thiên Chúa đã ban cho họ các giới răn của Ngài. Từ những giới răn này, sau này những người lãnh đạo như mấy ông kinh sư hay thầy dậy đạo thuộc phái Pha-ri-sêu thường bàn bạc với nhau để tìm hiểu xem điều luật nào lớn và quan trọng nhất.
Trong các sách Tin Mừng, chúng ta hay gặp các tình huống mô tả việc các nhà lãnh đạo đem các khoản luật đến chất vấn nhằm gài bẫy và bắt lỗi Đức Giê-su. Tuy nhiên, hoàn cảnh hôm nay dường như có vẻ hơi khác. Ông kinh sư đến gặp Đức Giê-su lại là người có thiện cảm với Chúa. Ông muốn tìm hiểu xem trong 613 điều luật thì điều nào đứng đầu và quan trọng nhất. Ông xin Chúa một điều, Chuá lại ban cho ông hai. Đó là: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” Đức Giê-su đã nối kết hai điều luật lại với nhau thành một. Người dạy họ và chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người thân cận là trọng tâm của cuộc sống.
            Việc tìm hiểu giới răn nào là huấn lịnh quan trọng nhất đã là việc khó; phương chi nói đến việc áp dụng trong cuộc sống; hẳn nhiên còn khó hơn bội phần. Ai trong chúng ta dám vỗ ngực xưng mình là kẻ đã yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức của mình! Lại còn cần thể hiện lòng mến đó cho tha nhân, đặc biệt là những ai ở bên mình.
            Để minh họa điều này, chúng ta cùng nghe một câu chuyện ngụ ngôn. Đối với người Hồi Giáo, thì việc hành hương thánh điạ Mecca là một trong năm việc đạo đức mà họ phải thực hiện ít nhất một lần trong đời. Mục đích của việc hành hương là để tìm kiếm sự tha thứ, dẫn dắt và cứu rỗi linh hồn của họ từ Allah, Thiên Chúa của họ.
Ngày xửa ngày xưa, trong một lần nào đó, chúa tể giống mèo đi hành hương thánh địa Mecca. Trong chuyến hành hương này cũng có chúa tể của loài chuột nữa. Trên đường trở về, vị lãnh đạo của loài chuột mới tự nghĩ rằng ông ta có bổn phận phải đến để chào và chúc mừng chúa tể giống mèo. Khi nghe vị lãnh đạo dân chuột có ý nghĩ này, thì mấy chú chuột đàn em cấp duới lo ngại cho sự an toàn của ông. Họ can gián ông đừng đi bằng các lời lẽ như sau: “Thưa ngài, mèo đã là kẻ thù truyền kiếp của chúng ta, làm sao Ngài có thể tin vào ông ta được”. Nhưng vua chuột đáp: “Ông ta mới đi hành hương thánh địa Mecca về. Người ta nói ông ta đã cầu nguyện năm lần một ngày nữa. Vì thế, ta rất hy vọng là ông chúa của giống mèo đã được biến đổi! các ngươi hãy tin vào Ta.”
Nói xong, ông lập tức khởi hành đến cung điện của chúa mèo. Vừa vào tới cửa dinh, ông nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng đẹp. Vua mèo, trong bộ trang phục của người vừa đi hành hương về, đang quì mọp xuống nền nhà để cầu kinh vô cùng sốt sắng. Nhìn thấy thế, vua chuột nhà ta cảm thấy an tâm hơn, bèn tiến vào gần thêm chút nữa. Ngay trong giây phút đó và vô cùng bất ngờ, chúa mèo nhẩy chồm lên để vồ lấy ông. Cũng may cho vua chuột của chúng mình, nhờ nhanh chân hơn nên đã kịp phóng ra ngoài thoát nạn.
Khi vị lãnh tụ loài chuột về đến hang của mình, đàn chuột con đến thăm hỏi và muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ giữa hai ông: chúa mèo và chúa chuột. Họ hỏi ông rằng sau khi tham dự hành hương thánh địa trở về, vua mèo có thay đổi và trở nên thân thiện với họ hay không? Vị lãnh tụ loài chuột đáp: “Những lời góp ý của các ngươi rất thực tế và chính xác. Mèo vẫn là mèo. Khi ông ta cầu nguyện thì dáng vẻ thánh thiện và hiền lành như một người đang tham dự hành hương; nhưng khi nhẩy lên vồ ta thì mèo vẫn hoàn mèo.”
Qua câu chuyện mang tính ngụ ngôn nói trên đã giúp chúng ta hiểu rằng thật là nguy hiểm khi chúng ta tách rời hai huấn lịnh, mến Chúa và yêu người, ra thành hai. Đức Giê-su đã gom hai điều răn này thành một, gắn liền với nhau, không thể tách rời. Yêu Chúa là yêu tha nhân và tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân phải được phát xuất từ Tình yêu Chúa. Yêu Chúa như Chúa yêu đã không phải là việc dễ dàng; yêu tha nhân còn khó hơn bội phần. Vì, làm sao chúng ta có thể yêu được con người với đủ mọi khuyết điểm; và đôi khi họ còn được coi như những người trái ý và không cùng phe với chúng ta.
Vẫn biết là khi yêu chúng ta cần cảm xúc. Tuy nhiên cảm xúc đến rồi đi. Nhưng mối tình dành cho Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở mặt cảm xúc; nò còn đòi hỏi chúng ta diễn tả bằng hành động. Đó là thứ tình mà Đức Giê-su nhắc lại cho ông kinh sư hôm nay: yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực là yêu Thiên Chúa bằng tất cả những gì chúng ta đang có. Đó là dạng thức của mối tình bác ái, hy sinh, dâng hiến và mưu cầu hạnh phúc cho người mình yêu.
Vì thế, ai yêu mến Chúa thì vâng lời Ngài. Ai yêu mến Người thì tôn thờ Người. Những người cha và người mẹ yêu thương Thiên Chúa thế nào thì họ sẽ nuôi dạy con cái họ trong đức tin. Tình yêu mà cha mẹ dành cho con cái bền vững hơn khi mối tình mà họ trao ban cho nhau và cho con cái được xuất phát từ Tình yêu Thiên Chúa. Một thương gia sẽ trở thành một viên quản lý trung tín và liêm khiết nếu ông xây dựng cuộc sống mình trên nền tảng của giao ước yêu thương giữa Thiên Chúa và ông. Trong mọi trường hợp, tình yêu Thiên Chúa được đánh giá bằng hành vi hiến dâng, biểu hiện bằng việc làm đem lại lợi ích cho người khác.
Đức Giê-su còn mời gọi chúng ta thể hiện trong cuộc sống mình một sự liên kết chặt chẽ, không gì có thể tháo gỡ và tách biệt hai giới răn này ra khỏi nhau. Thật vậy, nhiều lần chúng ta đã lạm dụng cụm từ yêu thương khi mạnh dạn tuyên xưng mình rất yêu Chúa mà lại không nhìn thấy hay làm ngơ trước các nhu cầu của tha nhân là những người đang sống gần bên ta, thế nghĩa là làm sao!
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay là cơ hội giúp chúng ta đặt lại vấn đề căn bản: Đạo công giáo là đạo gì? Phải chăng đạo công giáo chỉ bao gồm những điều khoản bắt tín đồ phải giữ. Không chỉ là như thế. Thật ra đó là đạo Tình Yêu, đó là con đường yêu thương. Đây không chỉ là bài học của Chúa hôm nay, nhưng chính là con đường Chúa đã đi qua.Vì thế, cách sống đạo của chúng ta không chỉ dựa vào việc đọc kinh ê a, dài dòng, hoặc tổ chức các chuyến hành hương, tụ họp để biểu dương niềm tin tôn giáo; nhưng còn phải và nhất là: Hãy yêu nhau. Chúng ta có chung một mối tình đó là Yêu Chúa yêu người. Khi nói như thế không có nghĩa là con tim của chúng ta bị chia hai: một nửa cho Chúa và phần nửa còn lại cho tha nhân và người hàng xóm láng giềng bên cạnh ta.
Việc đầu tiên chúng ta cần làm là cởi mở cõi lòng để nhận ra có một Đức Chúa duy nhất, chứ không có một thần tượng nào khác ngoài Ngài ra. Môt khi đã nhận ra Ngài là Thiên Chúa duy nhất là lúc chúng ta đầu phục và biết rằng mọi sự chúng ta có trên cõi đời này, ngay cả việc nhận ra Ngài là Thiên Chúa duy nhất cũng được trao ban cho chúng ta bởi Ngài. Nếu mọi sự chúng ta có đều thuộc về Ngài thì làm sao chúng ta có thể cư xử với nhau như người dưng, khách lạ được. Trong Ngài, tất cả chúng ta đều là anh chị em.
Bước kế tiếp là yêu Chúa. Tình yêu Chúa trong ta và tình của ta dành cho Chúa là căn nguyên, là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta sẵn sàng ra đi để yêu tha nhân. Chỉ có ai cắm rễ sâu trong Tình yêu của Chúa thì mối tình của người đó dành cho tha nhân mới bền lâu; bằng không cũng chỉ là những cảm xúc nhân loại, nhất thời và chóng qua. Chỉ khi nào chúng ta tiếp cận được với Thiên Chúa của Đức Giê-su thì chúng ta mới đầu phục và tôn thờ Ngài hoàn toàn, và tình của ta dành cho tha nhân mới chân thật và bền vững. Bởi vì, nếu không có Đức Giê-su, chúng ta dễ bị lầm lẫn giữa việc tôn thờ Thiên Chúa và việc tôn sùng ngẫu tượng. Việc tôn sùng ngẫu tượng này còn tạo cho chúng ta một điều rất nguy hiểm; đó chính là thay vì tôn thờ Thiên Chúa thì con người lại đi thờ chính bản thân mình, khiến cho niềm tin bị sai lạc, mù quáng và dẫn đến cuồng tín.
Còn yêu tha nhân thì sao? Yêu Chúa thế nào thì yêu tha nhân như thế; bởi tình yêu dành cho tha nhân phải được phát xuất từ Tình yêu Thiên Chúa. Đây chính là mẫu mực, là tiêu chuẩn của những ai muốn trở thành môn đệ Chúa. Đây là giới răn mới mà Đức Giê-su ban thêm. Ông kinh sư đến gặp Chúa để xin Người ban cho ông giới răn trọng nhất; cuối cùng ông và chúng ta nhận được hai điều bằng nhau và chẳng có điều răn nào khác lớn hơn hai điều ấy. Qua việc yêu thương tha nhân, chúng ta đi vào chương trình và ý muốn của Thiên Chúa. Vẫn biết là như thế. Nhưng chúng ta cũng nên cụ thể hóa tình yêu của chúng ta dành cho những người lân cận bằng hành động. Chúng ta cũng không cần hỏi ai là người thân của mình, mà hãy yêu tất cả mọi người như nhau.
Đây không phải là việc dễ làm. Cho nên chúng ta cần đến Chúa. Chỉ những ai yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực thì sẽ có hành động diễn tả tình yêu của họ một cách cụ thể cho tha nhân. Chúng ta không yêu và trao ban cho người khác những gì mình dư thừa, cũng không chỉ là việc trao ban những gì mình đang nắm giữ; mà là việc trao ban mang ý nghĩa dâng hiến như Đức Giê-su đã thực hiện, bởi vì chúng ta nhận ra hình ảnh của Đức Giê-su nơi người đó. Như chúng ta đã được đón nhận việc phục vụ và dâng hiến của Đức Giê-su thế nào thì tha nhân cũng vậy. Họ thật xứng đáng đón nhận quà tặng của Chúa qua việc trao ban của chúng ta. Như vậy, việc trao ban giữa chúng ta với nhau không phải là việc bố thí; nhưng đó là việc đáp ứng nhu cầu của nhau. Khi làm như thế, chúng ta tôn trọng và giúp cho con người của họ được phát triển toàn diện.
Tóm lại, để trở thành môn đệ của Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa và thương tha nhân “hết” lòng, “hết” trí khôn, “hết” sức lực và “hết” mình có nghĩa là dám cho đi tất cả, dâng hiến mọi sự. Trong ngôn ngữ của người Do Thái, các chữ “lòng”, “linh hồn” và “trí khôn” có nghĩa toàn bộ con người. Do đó, ý nghĩa của giới răn hôm nay là “hãy yêu mến Thiên Chúa và thương yêu nhau bằng tất cả con người mình, cho đi tất cả con người mình, dâng hiến toàn bộ con người mình.” Nghĩa là, trong Tình yêu thì không còn sự chia cách, không còn phân biệt giữa người này với người khác. Tất cả đều được hoà hợp trong Tình Yêu, nơi đó không còn biên giới, không còn hận thù, không còn tỵ hiềm hay chia rẽ; mà chỉ có hiệp thông, tha thứ và bình an.

Cầu xin mọi người vui sống trong tình yêu Chúa và thương mến nhau hơn. Amen!