Thursday, 28 March 2019

LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA



Trước khi tìm hiểu về dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mà chúng ta vừa đọc, xin phép đặt vấn đề với các bạn: nếu trong gia đình các bạn có hai người con mà cách sống của chúng giống hệt như hai người con trong dụ ngôn thì quý phụ huynh sẽ yêu thích người con nào hơn? Nói chung, chúng ta có lẽ sẽ yêu anh con cả hơn, bỏi vì ít nhất anh đã không làm cho các bậc cha mẹ phải buồn phiền và lo lắng. Còn đối với cậu con thứ, thì chúng ta hơi khó chấp nhận việc làm của cậu; cho dù đó là việc mà chỉ có ai đủ can đảm và liều lĩnh mới dám chọn lựa hướng đi này. Và nếu như vậy, thì xem ra chỉ vì sự an bình của bản thân mà đôi khi chúng ta dễ dàng hơn trong việc chấp nhận và yêu thương những người con chỉ biết vâng lời, và không làm điều gì trái ý chúng ta; một kiểu vâng lời tối mặt, một dạng con cái khi gặp khó khăn sẽ chạy trốn vì chưa bao giờ tự mình đối diện với khó khăn hay thử thách. Còn những người con muốn có một cuộc sống tự lập thì thường có khuynh hướng làm trái ý của cha mẹ thì lẽ dĩ nhiên sẽ được quý phụ huynh thương yêu ít hơn!

Trong dụ ngôn hôm nay, người con thứ muốn tìm kiếm một lối sống trưởng thành, tự lập và không muốn mãi là người con chỉ biết ăn bám vào cha mẹ. Anh đến gặp cha và thưa rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.” Anh không tham lam, chỉ xin những gì mà anh được hưởng theo qui định mà thôi. Có một số người cho rằng qua lời yêu cầu chia gia tài này anh mong muốn cho người cha mau chết. Thật ra, không ai biết anh có ý nghĩ đó hay không? Phải chăng đó là kiểu gán ghép điều mình nghĩ cho người khác. Chúng ta chỉ biết là lời thỉnh nguyện của anh ẩn chứa ý nghĩ là anh muốn được tự do để tự mình sắp xếp cuộc sống cho chính mình.

Tuy được sự chấp thuận của cha, nhưng cậu con thứ vẫn chưa đi ngay, ít ngày sau đó anh mới lên đường. Anh dùng mấy ngày vắn vỏi này để gom góp sản nghiệp thuộc phần mình và có lẽ cũng xem xét lại các dự án một cách cẩn thận và chu đáo hơn. Và sau khi đã ổn định mọi sự, anh từ giã quê cha đất tổ và khởi sự lên đường. Như vậy, cuộc ra đi của anh đã được tính toán cẩn thận và có chuẩn bị chứ không phải là một cuộc đi hoang như chúng ta thường hay nói.

Trên đường tìm kiếm một lối sống cho riêng mình anh vẫn mang theo của cải đã được cha anh chia cho. Tuy cô đơn trên hành trình tìm kiếm, nhưng một cách nào đó những gì mà anh có hiện giờ vẫn là của người cha ban cho, chứ anh tự mình chưa làm ra được điều gì! Nhưng, ngay lúc này anh lại không nhận ra điều đó. Bởi vì, lòng tham vọng để thỏa mãn “cái tôi” đã làm mờ mắt anh và từ đó mối tương quan gia tộc, sợi dây liên kết tình cha con nay bị gián đoạn và không được anh quí trọng.

Hậu quả của việc tìm kiếm để thỏa mãn những ước mơ như: có một cuộc sống tự do, sung túc mà không cần lệ thuộc vào sự chăm sóc của cha đã dẫn anh đi vào ngõ cụt của dòng đời. Vì không còn có cha bên cạnh, nên anh đã tiêu pha một cách phung phí hết tài sản của cha đã trao cho; anh không còn kềm chế được hành vi của mình nữa, thả lỏng dây cương và trôi dạt vào những bến bờ vô định. Anh đã mất tất cả. Thậm chí, ngay cả môi trường mà anh đang sống cũng chống lại anh. Nạn đói trong vùng càng làm cho anh thêm túng quẫn. Thậm chí, anh ước mơ có công việc của một hạ nhân là chăn nuôi heo để có thể ăn thức vật của heo ăn mà cũng không ai thèm mướn.

Mọi cánh cửa dường như khép lại. Và chính trong hoàn cảnh khốn cùng như thế anh bắt đầu hồi tâm và tìm cho mình một lối thoát. Quá trình này được khởi đầu bằng việc nhìn lại chính mình - ta có thể coi giai đoạn này như là thời gian ‘vào sa mạc’ của anh. “Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ - He came to himself.”

Nhìn lại chính mình không phải để trách móc hay than thân trách phận, nhưng là đặt mình trong tương quan với cha và ôn lại các kỷ niệm khi còn ở với cha; anh nhớ lại rằng ngay những kẻ ăn người ở trong nhà cũng có được một cuộc sống cơm dư gạo thừa, còn anh thì lại chết đói. Mái nhà xưa đã không đủ ấm cúng để giữ chân anh, thì giờ đây lại là mục đích mà anh hướng đến. Nếu trước đây ‘cái tôi’ đã làm anh mù quáng và sống trong mơ mộng và chỉ nghĩ đến tham vọng của bản thân, thì giờ đây nhờ việc anh đặt mình trong tương quan với các thành viên khác trong gia đình của anh đã giúp anh thay đổi. Sự thay đổi này được diễn tả không chỉ trong tư tưởng mà còn ở việc làm của anh nữa.

Anh khám phá rằng chính lúc anh để mất tất cả, mất luôn quyền thừa tự lại là lúc anh cảm nhận được diễm phúc làm con, một người con không còn gì để mất nữa. Việc nhận ra sự thật này là điều căn bản giúp anh có được một chọn lựa chính đáng, đó là chọn sự sống hầu thoát khỏi cái chết. Anh cũng biết rằng quyền được làm con mà anh có thể sẽ được phục hồi không phải do các nhân đức của anh, nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào lòng thương xót và sự định liệu của cha anh.

 Chúng ta thường được nghe nói là người con thứ có cuộc sống hoang đàng. Thật sự mà nói, tôi không dám sử dụng cụm từ “hoang đàng” để diễn tả hành vi của cậu. Việc cậu chọn lựa và thực hiện dự án nói lên tính tự nhiên của con người là tìm kiếm cho chính mình một lối sống tự do và rồi sẵn sàng chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Người con thứ không muốn bị trói buộc bởi các luật lệ của tiền nhân và cũng chẳng muốn thụ động trong các tương quan, dù là tương quan gia tộc.

Qua ngòi bút của Thánh Luca, chúng ta thấy anh con thứ đã thành công trong việc này: Anh đã mất tất cả, trở thành một kẻ nghèo cùng cực, không còn gì để mất; và vào chính lúc anh không còn gì để mất thì anh lại tìm thấy hướng đi lên. Khởi đầu của hướng đi này là sự cảm nhận: anh cảm nhận được bản chất đích thực trong thân phận làm người, đó chính là anh không thể sống một mình, nhưng là sống trong tương quan với người khác, những người trong gia đình, đặc biệt là cha anh.

Anh đã nhìn cha bằng cái nhìn khác, không giống như lúc còn ở nhà. Anh không còn trẻ con mà đã lớn khôn, trưởng thành và biết suy nghĩ về hoàn cảnh của cha. Từ đó anh thông cảm với cha trong các nỗi đau khổ khi phải xa anh. Từ sự cảm thông này anh đã hòa nhập vào con tim và lối suy nghĩ của cha.

Với những tâm tình này, anh con thứ đã dọn cho mình một lối về. Vì thế, chúng ta ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh người cha vội vã ra đón mừng anh, còn anh thì không! Anh không hề ngạc nhiên khi  thấy cha vui mừng chạy ra đón mừng anh, vì đó cũng là niềm vui của chính anh. Qua sự biến đổi này, Thánh Luca đã gọi anh là ‘người con trưởng thành’, trong khi đó thì người con cả vẫn chỉ là ‘trẻ con’.

Tôi cảm phục lòng can đảm kiếm tìm một lối sống của người con thứ. Anh đã thành thật và sống trọn vẹn với các suy tư của anh. Và khi đã mất tất cả thì anh lại tìm thấy điều quí giá nhất, đó là mối tương quan đích thật của tình cha con. Hành trình nào lại không có những va chạm, đổ vỡ! Cuộc sống nào chẳng có thử thách! Con người nào lại chẳng có tội! ... Có lẽ các điều đó không quan trọng. Điều thiết yếu là chúng ta có đủ can đảm và dùng mọi cố gắng để tìm kiếm một lối thoát trong sự đổ vỡ đó hay không? Cứ can đảm tìm kiếm và thực hiện các dự tính của mình. Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng của Ngài vẫn đang chiếu soi trên các bước chân của chúng ta.

Còn người cha thì sao?

Trong phần đầu của dụ ngôn, hành động của người cha được trình bày dường như là quá thụ động và dễ dãi. Thoáng nhìn, chúng ta có thể nghĩ rằng ông ta thuộc tuýp người cưng chiều con cái. Nhưng cũng có thể là ông yêu thương và tôn trọng các con. Có tình yêu nào mà không pha một chút mù quáng và điên dại; con tim của các kẻ đang yêu thì vẫn thiếu bóng dáng của lý trí; nhưng nếu yêu mà để cho lý trí lấn át thì tình yêu đó cũng khô cằn? Có lẽ, chúng ta vẫn không hiểu rõ ràng được hành động của ông trong phần đầu câu chuyện. Nhưng theo tôi nghĩ thì ông thuộc loại người giầu tình cảm, luôn rung động trước những nhu cầu của kẻ khác. Ông giáo dục con cái bằng cách chấp nhận các sáng kiến của họ, và luôn chờ đợi và chấp nhận các sai lầm của chúng bằng tấm lòng nhân hậu và khoan dung để qua đó có thể giúp cho con cái cảm nhận được tình thương của ông và cũng là cơ hội giúp cho con cái được trưởng thành hơn qua các kinh nghiệm đau thương mà chúng đã trải qua.
Với tâm tình ấy, từ ngày con ông bỏ đi, ông hằng mong cậu trở về. Ông đau khổ đêm ngày mỗi khi tưởng nhớ đến cậu. Chính vì thế, khi cậu còn ở đàng xa - hình dáng của cậu lúc này có lẽ khác trước: gầy còm vì thiếu ăn, tiều tụy vì lo lắng; thế mà ông vẫn nhận ra con của mình. Niềm đau buồn thương nhớ nay biến thành niềm hạnh phúc. Điều này được diễn tả bằng các chi tiết vô cùng sống động mà ít người cha nào có thể thực hiện được. Ông chạy ra, ôm chầm lấy con, hôn lấy hôn để. Thái độ của ông được xem như là một ngoại lệ, không phù hợp với tập tục của người phương Đông thời bấy giờ. Tuy nhiên, qua việc xử sự như thế, người cha đã biểu lộ một cách mãnh liệt tình thương mà ông hằng ôm ấp đối với con ông. Qua ánh mắt, cả hai đều cảm nhận được những đau khổ chồng chất, và những thay đổi trong cuộc sống từ ngày hai cha con họ xa nhau. Hơn nữa, thái độ của ông - chạy, ôm cổ, hôn lấy hôn để - còn diễn tả tâm tình của một người mẹ.

Tình thương và sự vui mừng đã đạt đến cao điểm khi ông cắt đứt dự định thú tội của người con thứ khi cậu muốn được đối xử như người tôi tớ trong nhà mà thôi. Ông không cho cậu có cơ hội nói lên điều đó. Bởi vì, dù quá khứ của cậu có xấu xa đến đâu chăng nữa, nhưng bây giờ, trong giây phút này, trước mặt ông, trong lòng ông cậu vẫn là con trong nhà; mà đã làm con thì không bao giờ được coi như kẻ làm công, ông không cho phép cậu tự hạ mình xuống hàng tôi đòi, vì như thế tức là xúc phạm đến tình cha con. Con muôn đời vẫn là con yêu quí của cha. Hãy quên đi quá khứ của mình mà mặc lấy con người mới. Quyền thừa kế và vinh dự cũng được trao lại cho con. Con đừng để các mặc cảm tội lỗi dầy vò cuộc sống mà hãy vui với niềm vui của cha. Hai cha con đã thông chia cùng một tâm tình khi họ xa nhau, tình trạng này được gọi là ‘tâm linh tương thông’. Đã như vậy, thì giờ đây cha con chúng mình hãy bước vào để dự tiệc vui, tiệc đoàn tụ nói lên sự hiệp nhất và yêu thương của gia đình mình. Bởi vì, theo cha, từ ngày con rời nhà ra đi thì trong gia đình của chúng mình có một khoảng trống mà không ai có thể bù đắp được, ngoại trừ con. Giờ đây, con đã tìm về sự sống với gia đình. Vậy chúng ta phải hân hoan và ăn mừng chứ.

Tiệc vui đã được dọn sẵn.

Đến phiên ông con cả?

Người con cả lúc này đang ở ngoài đồng, lo việc cho Cha. Khi về gần đến nhà, anh chẳng thèm bước vào để hỏi cha xem chuyện gì đã xẩy ra mà nhà này lại vui như thế. Anh còn thua cả người giúp việc nữa, bởi vì tuy là kẻ tôi đòi, nhưng họ cũng nhận được niềm vui của ông chủ khi nghe ông báo rằng: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe.” Điều này, có nghĩa là phần chúng tôi đây, cho dù phận làm tôi, nhưng cũng được thông phần vào sự vui mừng với ông chủ qua việc chuẩn bị tiệc vui này cho thật chu đáo.

Mọi người đều vui. Người con cả đã được báo tin vui. Nhưng phản ứng của anh thì khác. Anh nổi giận, không tiếp nhận tin vui; trái lại còn biểu lộ sự bất mãn bằng cách tiếp tục đứng lỳ bên ngoài.

Người cha bước ra năn nỉ mà người anh cả vẫn không nhận ra được nỗi lòng của cha. Trái lại, còn kể lể công lao, phân bì, ghen tương, lên án và đặt điều nói xấu cậu em qua lời hờn dỗi sau đây: Cha coi, con hầu hạ cha suốt cuộc đời, chưa bao giờ có ý định hay phản kháng lại ý cha, thế mà đã bao giơ cha cho con được tổ chức tiệc mừng với bạn bè chưa. Rõ khổ, người cha bị anh loại bỏ trắng trợn; vị trí của mấy ông bạn còn trọng hơn cha. Rồi anh tiếp tục: còn thằng con của cha; nghĩa là cha vẫn nhận nó làm con và hình như nó không còn là em con nữa; vì kể từ ngày nó rời bỏ căn nhà này ra đi thì con không màng đến việc nó sống hay chết nữa. Đến nay, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm; nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Không biết ông anh cả lấy chi tiết này ở đâu mà dám tăng thêm tội cho em mình là phung phí tài sản với các cô gái như thế hay là cậu cả nhà mình lại gán cho cậu em điều mà cậu cả hằng mơ ước!

Cậu cả muốn nghĩ sao cũng được, vấn đề ở đây là việc ông cha mời cậu cả cùng chung chia niềm vui gia đình với ông; vì dù thế nào cậu vẫn là một thành viên trong gia đình này.

Công việc hầu hạ và không dám trái lịnh cha của người con cả là một điều tốt. Nhưng các việc anh làm lại không đem lại ích lợi gì cho anh vì anh làm trong tư thế của kẻ làm công. Anh làm để mong được thưởng và chia sẻ phần thưởng đó với bạn bè, chứ không phải với cha anh. Anh tuy sống trong nhà, nhưng thật ra con tim và lối sống của anh đã không thuộc về gia đình nữa, anh đã thoát ly và đi xa hơn người em. Anh đã đánh mất tình cha con, và tình anh em cũng không còn. Vì thế, khi nghe người cha nhắc đến cậu con thứ, anh liền lên tiếng xác nhận ngay ‘đó là thằng con của cha, có nghĩa là nó là con cha mà không phải là em con.’ Tuy ở chung một nhà, thế mà có bao giờ anh đã nhận ra sự đau khổ của cha khi mất cậu em. Riêng cậu cả thì kể từ ngày em cậu ra đi thì cậu cả đã coi như em mình đã chết.

Người con cả trong trình thuật là thế đó. Dường như dòng máu của người anh cả vẫn còn luân chuyển trong dòng máu của chúng ta, nên lối hành sử của chúng ta vẫn là như thế!

Tóm lại, cao điểm và trọng tâm của dụ ngôn vẫn là thái độ sống và lối xử sự của người cha. Ông là hình ảnh tuyệt diệu của lòng nhân ái, tình yêu thương của Thiên Chúa. Ông yêu thương và tôn trọng các con theo cá tính khác biệt của mỗi người con. Ông hiểu và thông cảm các tính tốt cũng như tật xấu của mỗi người con. Chúng được ông yêu thương bằng nhau. Đối với ông, cuộc sống của họ thật đáng quí trọng. Vì thế, một lần nữa, ông bước ra để xác nhận với người con cả, mang quyền thừa tự rằng “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha (tiền tài, vinh dự, niềm vui, nỗi buồn... cuộc sống của cha) đều là của con.”

Cuối cùng, tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn là điều tuyệt hảo nhất mà chúng ta cần dựa vào. Tình yêu này chúng ta đã không xin mà có, vì thế hãy hân hoan đón nhận và san sẻ cho nhau nhưng đừng đòi đáp trả nhé. Amen!


Thursday, 21 March 2019

YÊU THƯƠNG: VIỆC LÀM CỦA SÁM HỐI




Vào sáng thứ Sáu, ngày 15 tháng 3 vừa qua, tại Thành Phố Christchurch, bên New Zealand đã xẩy ra một vụ thảm sát bằng súng. Vụ thảm sát này đã cướp đi sinh mạng của 50 người và cho đến hiện nay còn 50 người khác đang bị thương. Vụ nổ súng đã xẩy ra tại hai ngôi đền của người Hồi Giáo. Thủ phạm gây ra tội ác là một người da trắng. Vì bạo lực và hận thù, ông đã khiến bao nhiêu người bị đau khổ.

Trong tình liên đới và đồng cảm với các nỗi đau khổ của các nạn nhân và gia đình của họ, chúng ta hướng về họ, cầu xin cho họ và thế giới được an bình, văn hoá của hận thù và bạo lực phải bị tiêu diệt để nhường chỗ cho nền văn minh của sự sống và tình thương được giải bầy và triển nở trong đời sống của chúng ta.

Máu của những người dân vô tội đã đổ xuống vì hành động điên rồ của một con người chỉ biết hận thù và giết chóc. Máu của những người mộ đạo đổ ra tại đền thờ, đã được hoà trộn và dâng lên Đấng Tối Cao như là của lễ mà cả đời họ đã dâng hiến. Máu của những người vô tội này còn nhắc nhở chúng ta nhớ đến lòng thương xót của Chúa trên mọi người.

Đứng trước những tai ương, các biến cố đem lại đau khổ, tai hoạ và chết chóc; người ta lại đặt những vấn nạn như: Chúa ở đâu, khi các bi kịch này cứ xảy ra trên thế giới? Chúa ở đâu, khi người vô tội lại gặp toàn những chuyện bất hạnh và khổ đau? Không một ai trong chúng ta có thể giải đáp được các câu hỏi như thế; và chúng ta cũng không nên tìm hiểu tại sao các tai ương vẫn xẩy đến cho bằng hãy tự hỏi là khi nào tai họa sẽ xẩy đến và một khi nó xẩy ra thì phản ứng của chúng ta sẽ như thế nào?

Ngày xưa những người đồng thời với Đức Giêsu cho rằng mọi tai họa như bịnh tật, tai ương, chết chóc, v.v… là những hình phạt của Thiên Chúa giáng trên những kẻ mà họ gọi là phường tội lỗi. Còn, những ai thoát nạn thì lại được họ đánh giá là những người đạo đức, công chính và không cần hoán cải.

Đức Giê-su không đồng ý với quan điểm và lối nhìn của những sống cùng thời với Người. Người còn nhìn ra thâm ý của họ khi tường trình lại biến cố này. Họ muốn xem thái độ và cách hành xử của Đức Giê-su trước những biến cố thời sự đang xẩy ra như thế nào?

Có lẽ chúng ta cũng nên đặt biến cố này vào hoàn cảnh và môi trường chính trị thời Đức Giê-su đang sống. Thánh Lu-ca tường thuật là máu của họ hoà lẫn với máu của các con vật mà họ dùng để tế lễ. Chi tiết này cho chúng ta biết những người bị Phi-la-tô giết hại hôm nay là những người đang tham dự các nghi thức phụng vụ tai đền thờ. Họ có thể là thành phần của một nhóm yêu nước muốn nổi dậy để đòi quyền tự chủ hay là những người dân vô tội đã vô tình xuất hiện ngay vào lúc có cơn càn quét các nhóm chống đối chính quyền Rô-ma. Vậy nếu Đức Giê-su binh vực họ thì Người sẽ chống lại quân lính của Phi-la-tô và khuyến khích họ đi vào những cuộc nổi dậy không lối thoát. Ngược lại, nếu đồng ý với cách cư xử tàn ác của Phi-la-tô thì Đức Giê-su xem ra lại đứng về phe của những kẻ có thế lực đang dầy xéo và tạo nên bao nhiêu cảnh lầm than cho dân chúng.

Đức Giê-su xác định rõ lập trường của Người, đó là Người đến để thi hành ý muốn của Chúa Cha là ban ơn cứu độ, giải thoát con người khỏi căn nguyên của tội lỗi. Vì thế, Người đã không để cho bất cứ một tham vọng chính trị nào ảnh hướng trên sứ vụ của Người. Đức Giê-su đã vặn lại bằng cách hỏi họ rằng “các ông tưởng những người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?” Qua cách đặt vấn đề như thế, Đức Giê-su muốn lôi họ ra thoát khỏi quan niệm của họ khi cho rằng tai hoạ là hình phạt của Thiên Chúa giáng xuống kẻ có tội.

Thật ra, giữa tai họa và tội lỗi không có một nối kết nào. Hẳn chúng ta còn nhớ trong phép lạ chữa người mù từ thủa mới sinh, các môn đệ đã lập luận với Thầy mình về tình trạng của người mù. Anh đã làm gì nên tội mà bị mù ngay từ lúc vừa chào đời; và nếu án phạt là hậu quả của tội lỗi thì việc anh bị mù là tội của ai? Đức Giê-su đã trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội (mà anh bị mù). Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ thấy quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

Theo Đức Giê-su thì tai hoạ không phải là hậu quả của tội lỗi; vì thế Người mới nói thêm về số phận của những người bị tháp Si-lô-ác đè chết, họ cũng không phải là những người mang tội nặng hơn những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem đâu!

Sau đó, Đức Giê-su đã khuyến cáo họ, lời khuyến cáo này rất khẩn thiết và quan trọng vì trong một đoạn văn rất ngắn mà Thánh sử đã lập lại hai lần, Đức Giê-su phán rằng “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” có nghĩa là số phận của họ không giống như các ông nghĩ là do tội của họ mà ra. Người tiếp tục “… nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy.”

Như vậy lời khuyến cáo của Đức Giê-su là lời mời gọi sám hối. Đây cũng không phải là điều gì mới mẻ. Ngay từ lúc khai mạc sứ vụ Đức Giê-su đã phán “hãy hối cải và Tin vào Tin Mừng.” Hối cải không chỉ là một lịnh truyền cần được nhắc đi nhắc lại từng giây từng phút trong cuộc sống của người môn đệ mà thôi; nó còn là một sự chọn lựa bộc lộ bằng hành động của mình. Muốn hối cải, con người cần trở về với chính mình để nhận ra tình thương của Chúa hoạt động trong chúng ta mãnh liệt dường bao. Và nếu chúng ta không biết hối cải thì cho dù còn sống nhưng thật ra đã chết!  

Việc hối cải không chỉ là nỗ lực riêng của con người; nhưng phát sinh từ Thiên Chúa, Đấng trung tín với sự bất trung và bội tín của con người. Ngài luôn kiên tâm và chờ đợi con người như ý nghĩa trong dụ ngôn cây vả mà chúng ta nghe hôm nay. Người làm vườn đầy tình thương và chờ đợi để nó sinh hoa trái, Người nói ‘Thưa ông chủ, xin cứ để nó lại năm nay nữa.’ Còn tình thương và lòng quảng đại nào vĩ đại hơn điều chúng ta vừa nghe. Đã bao nhiêu lần ‘cứ để’, và bao nhiêu thời hạn ‘một năm’ đã trôi qua; Chúa vẫn lặng thinh, âm thầm và chờ đợi con người mở lòng ra để đón nhận lòng thương xót của Ngài.

Suy niệm tới đây, tôi nhớ đến một truyện tích ngắn đã xẩy ra trong cuộc đời của Vua Na-po-le-on, vị hoàng đế vĩ đại một thời của nước Pháp. Khi mang trách vụ Tổng chỉ huy quân đội, Đại đế Na-po-le-on đã công bố một điều luật là nếu ai vắng mặt không có phép mà bị bắt thì sẽ bị xử tử vào giờ ăn sáng của ngày hôm sau.

Có một chú lính kia, mới được 17 tuổi, cậu đã chứng kiến các bạn của cậu bị bắn khi vi phạm vào khoản luật nói trên. Vì quá sợ hãi, cậu chạy trốn; không may cho cậu là trốn không thoát nên số phận của cậu cũng sẽ bị định đoạt trong bữa ăn sáng của ngày kế tiếp.

Có một sự việc xẩy ra rất tình cờ, đó là cậu này lại là con trai bà bếp của nhà vua. Bà xin gặp và van xin lòng thương xót của vua. Sau khi nghe lời van xin thống thiết của bà mẹ; Vua Napoleon vẫn giữ ý định của mình và đuổi bà ra khỏi dinh. Trước khi đuổi bà đi, Vua phán “Bà hãy đi, vì con bà không xứng đáng đón nhận lòng thương xót của tôi.” Khi nghe như thế, người phụ nữ mới đáp lại: “Thưa Vua, Ngài nói chí phải. Con của tôi không xứng đáng đón nhận lòng thương xót của Ngài. Bởi vì, nếu nó xứng đáng, thì Lòng Thương Xót không còn mang đặc tính của Lòng Thương xót được ban tặng nhưng không cho những ai không xứng đáng đón nhận nữa.” Nghe đến đó, nhà Vua ngồi trầm ngâm suy nghĩ…

Truyện không có kết luận. Đó cũng là điều mà chúng ta cần khám phá và thực thi trong cuộc sống và trong mối tương quan của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Ước gì chúng ta hãy học để đối diện và chấp nhận các tai ương như là các dấu chỉ thời đại để nhận ra tình thương, lòng nhân hậu và sự kiên trì của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và một trong các dấu chỉ thời đại, đó là vụ khủng bố làm xập tòa tháp đôi bên Thành Phố New-York vào năm 2001. Cho đến giờ này, tôi vẫn không thể quên được hình ảnh của những con người dũng cảm đã lao mình vào Toà Tháp Đôi để cứu nạn nhân của vụ khủng bố kinh hoàng đó. Họ đã quên đi sự an toàn của chính bản thân và chỉ nghĩ đến việc cứu người. Nhiều người đã bị thiệt mạng cùng với nạn nhân dưới đống gạch vụn. Họ là các anh hùng. Những vị thánh không cần tuyên phong. Quả thật với hành động dũng cảm, hy sinh và nghĩ đến người khác này, chúng ta tin rằng không cần sau cơn mưa trời lại sáng mà ngay trong cơn mưa trời vẫn sáng, trong cơn u tối vẫn còn ánh sáng, trong cảnh bạo tàn và tai ương vẫn còn những nguồn suối yêu thương.

Các việc làm xuất phát từ trái tim yêu thương ấy giúp cho chúng ta có thể xác tín và loan báo rằng chỉ có TÌNH YÊU mới có thể mở ra cho nhân loại một chân trời mới. Và cũng chỉ có TÌNH YÊU mới làm cho con người luôn sống trong hy vọng về một tương lai tươi đẹp hơn những tai ương, khủng bố, hay thảm sát như biến cố 11/9 năm 2001 và 15/3 năm 2019 vừa qua.

TÌNH YÊU đang chờ đón bàn tay và khối óc của mỗi người. Chờ ta cùng tiến bước để loan báo bằng chính cuộc sống mình rằng: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng sống vì người mình yêu". Đức Giêsu đã tuyên bố như thế và Người đã sống chính lời Người phán, bằng việc đi đến cùng con đường mà Người đã chọn để thể hiện Tình Yêu của Thiên Chúa.

Cái chết trên thập giá diễn tả mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng...

Chết cho Tình Yêu để rồi sống mãi cho Tình Yêu. Đức Giêsu mong muốn lối sống này được tiếp tục qua cuộc sống của mỗi tín hữu, môn đệ dấu yêu và trung tín của Người.

Đó là hành động phát sinh từ một trái tim luôn hối cải để hoàn thiện và thăng tiến mãi trong mối tình cao cả mà họ đã trải nghiệm trong Đức Ki-tô, Chúa chúng ta. Đấng là Tình Yêu, là Lòng Xót Thương và luôn kiên tâm mong mỏi chúng ta trở về để sinh hoa kết trái theo như ý định và ước muốn của Người. Amen!



Friday, 15 March 2019

HIỂN DUNG: ĐỔI MỚI và VỮNG TIN




Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước và dân tộc Việt Nam đã bước sang một trang sử mới. Nói chung, cuộc sống của chúng ta trong giai đoạn đó thật khó khăn. Hội Thánh phải dè dặt trong mọi sinh hoạt để thăm dò phản ứng của nhà cầm quyền. Bọn dân đen ngửa cổ trông chờ chỉ thị và hướng dẫn của các vị lãnh đạo. Các tu viện bị hạn chế sinh hoạt, các cơ sở và chương trình đào tạo tạm đóng cửa. Mọi sinh hoạt tôn giáo đã được thu gọn lại trong khuôn viên của xứ đạo và nhà thờ. Một tâm trạng sợ hãi bao trùm khiến con người cảm thấy bị nghẹt thở.

Trong khi đó, có một số rất ít các nhà lãnh đạo, vốn đã có mối tương giao với nhà nước, cảm thấy hân hoan và ngây ngô cho rằng ‘trời mới đất mới’ đã hiện diện. Họ hồ hởi phấn khởi kêu gọi mọi người sắn tay xây dựng đất nước. Cuối cùng chính họ là những người vỡ mộng, buông xuôi chán nản rồi bỏ cuộc, tự mình đánh mất hướng đi và từ bỏ sứ mạng.

Giống như bao nhiêu người khác. Tôi cũng chới với, nhất là trong hoàn cảnh của một người đang đi tìm hướng đi cho cuộc sống. Tương lai mù mịt, hướng đi bị che lấp bởi các áng mây, càng nỗ lực tìm kiếm càng nhìn thấy khó khăn; cho đến một buổi chiều thứ bẩy kia tôi đã được nghe công bố về biến cố hiển dung của Đức Giêsu. Sau khi loan báo tin vui này, vị linh mục đã giải thích; còn tôi ngồi đó mà lòng trí và tâm hồn lại để chỗ khác. Tôi cố gắng hình dung và đặt thực trạng đời mình như một người trong cuộc hiển dung của Đức Giê-su. Hẳn nhiên tôi không được diễm phúc nhìn thấy ánh vinh quang của Đức Chúa. Tôi cũng không có diễm phúc nhìn thấy cuộc thần hiện của Người. Nhưng, tôi đã trải qua những phút giây thật tuyệt diệu như phản ứng muốn dựng lều của Phê-rô trong bài Tin Mừng hôm nay. Và, cho đến nay, dù tôi không tài nào nhớ hết các diễn tiến đã xẩy ra. Điều duy nhất mà tôi nhận ra là có một sự biến đổi trong bản thân: thay vì sợ sệt, tôi đã hiên ngang đón nhận; thay vì buông xuôi và chạy trốn tôi đã liều mình bước tới, cho dù chẳng biết mình sẽ bước đi đâu! Nói chung, giây phút trào dâng đầy mật ngọt này cho đến nay, sau hơn 40 năm, tôi chẳng còn có được những cảm nghiệm như thế nữa.

Ai trong chúng ta có thể giải thích những kinh nghiệm hàng ngày để làm chứng có bàn tay Thiên Chúa can thiệp? Chỉ có người đó và Thiên Chúa biết mà thôi. Đó là một loại mạc khải riêng mà không ai biết, ngoại trừ người đó. Và, không một kinh nghiệm nào lại giống một kinh nghiệm nào hết.

Thưa quí vị,

Theo Thánh sử Lu-ca, biến cố hiển dung của Đức Giê-su hôm nay được coi như ‘trình thuật bản lề’ trong hành trình sứ mạng của Đức Giê-su. Biến cố này chấm dứt giai đoạn rao giảng của Đức Giê-su tại Ga-li-lê. Mặc dầu, trong đoạn chót của sứ vụ tại Ga-li-lê, chúng ta khám phá kết quả của việc rao giảng và huấn luyện của Đức Giê-su, đó là việc các môn đệ đã nhận ra Thầy mình chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa. Nhưng họ vẫn còn lẫn lộn giữa quan niệm của họ về Đấng Mesia và sứ mạng đích thật mà Đức Mesia sẽ hoàn tất theo ý định của Thiên Chúa. Vì thế, khi Đức Giê-su loan báo về việc bị từ khước, các đau khổ mà Người sẽ lãnh nhận và sau cùng bị giết thì các ông lại mù tịt và không thể chấp nhận việc Thầy mình đi vào ngõ cụt, còn lên tiếng ngăn cản Thầy lên Giê-ru-sa-lem để chịu thống khổ và bị chết. Vì thế, hôm nay qua biến cố hiển dung, Đức Giê-su đã hé mở cho các ông nhìn thấy trước vinh quang Phục sinh mà Người sẽ đón nhận từ tay Thiên Chúa để các ông đủ sức chấp nhận và đồng hành với Người trên con đường khổ nạn và chết đi của Người trên Giê-ru-sa lem.

Sau này, biến cố hiển dung của Đức Giê-su còn đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình đức tin và đời sống của các tín hữu thuộc về các cộng đoàn tiên khởi và chúng ta ngày hôm nay. Quả thật, chúng ta không nên quên thực trạng đời sống của các tín hữu thời sơ khai. Họ đã để lại cho chúng ta một mẫu gương gắn bó với Đức Giê-su và với nhau. Cho dù họ bị chối từ, bị coi thường, bị theo dõi, bị săn lùng và thậm chí bị giết chết; nhưng vẫn quyết tâm và thành tín để trao đổi cho nhau qua việc chia sẻ và nói về Đức Giê-su. Trong số những san sẻ đó có chuyện tích hiển dung hôm nay.

Khi nói về biến cố này, họ đã cảm nghiệm có một sự thay đổi nơi con nguời của họ. Ánh vinh quang cuả Thiên Chúa đã chiếu toả để cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi các tín hữu được rõ ràng hơn. Một con người có Chúa là như thế, dung mạo của họ sẽ toát lên một sức mạnh mà chỉ có nhưng ai ở trong Chúa mới có được. Sự hiện diện của Thiên Chúa là thế!

Như vậy, biến cố hiển dung của Đức Giê-su không chỉ nâng đỡ và hỗ trợ cho các môn đệ đủ can đảm đối diện với các thử thách và đau khổ trong khi thi hành sứ vụ; nó còn chất chứa một lời mời gọi tất cả những ai tin vào Chúa là hãy sẵn sàng tham dự vào những gì mà Đức Giê-su đã thực hiện trong cuộc sống. Chúng ta không được phép thụ hưởng, cho dù đó là những giây phút tuyệt diệu nói lên mối dây thân tình giữa ta và Chúa.

Các kinh nghiệm mật thiết đó không làm chúng ta quên đi sứ mạng của chính mình; nhưng đem chúng ta đến vì phần ích và niềm vui của người khác. Tâm tình này cũng giống như ước muốn của thánh Phao-lô. Kể từ ngày gặp Chúa Giê-su, ngài đã không còn sống cho riêng mình nữa nhưng chỉ sống cho Chúa, chỉ hành động vì danh Chúa, và khao khát được ở với Đức Ki-tô. Nhưng vì ích lợi của các tín hữu mà ngài đã chấp nhận ở lại để chu toàn trách nhiệm là đem niềm vui đức tin cho mọi tín hữu.

Kinh nghiệm gặp gỡ với Chúa lúc ẩn lúc hiện. Ngay lúc chúng ta tưởng như là Người đang hiện diện trước mắt khiến chúng ta vui quá nên đã muốn dựng lều như ý định của Phê-rô hôm nay, lại là lúc Người vụt mất để nhường chỗ cho quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Ngài “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Và sau lời tuyên phán của Thiên Chúa thì các ông bừng tỉnh, trở về với thực tế và chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. 

Như vậy, qua Lời Chúa phán hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng Đức Giê-su không chỉ là Đấng Cứu Thế. Người còn là Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ngôi thứ và nhiệm vụ của Người thì vượt xa so với tổ phụ Mai-sen và truyền thống các ngôn sứ mà E-li-a là người đại diện đã xuất hiện hôm nay. Tiếng cuả Thiên Chúa còn yêu cầu chúng ta hãy lắng nghe và vâng theo Lời Đức Giê-su; có nghĩa là hãy nhớ lại các lời tiên báo mà Người sẽ thực hiện tại Giê-ru-sa-lem trong hành trình sắp tới; đó là việc Đức Giê-su sẽ phải chịu muôn vàn thống khổ, bị loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Và, đây có thể là nội dung của cuộc bàn luận của Đức Giê-su với Mai-sen và E-li-a về những gì mà Người sẽ chu toàn tại Giê-ru-sa-lem.

Để tuân theo và hoàn tất ý định của Cha Người, Đức Giêsu sẽ đạt được vinh quang như đã có từ trước với Chúa Cha, khi Người sẵn lòng đón nhận và đi vào các nỗi thống khổ của thế gian để chữa lành và phục hồi những khuôn mặt đã bị biến dạng bởi bạo lực, bởi lòng tham muốn và ích kỷ mà trên thực tế các điều ghê sợ đó vẫn tồn tại trong môi trường của chúng ta đang sống.

Đó chính là con đường mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Đức Giê-su, Con yêu dấu của Ngài và dĩ nhiên cho cả chúng ta nữa. Hành trình càng gian khổ bao nhiêu thì ánh vinh quang càng toả sáng bấy nhiêu. Sứ vụ của Đức Giê-su và cũng là sứ vụ của chúng ta hôm nay không dừng lại ở chốn đau khổ, cũng không chỉ nhắm về tương lai mà quên đi các thử thách và gian nan trong hiện tại. Hai mặt đau khổ và vinh quang cần được nối kết với nhau. Không trải qua gian khổ, không đón nhận cái chết thì vinh quang có được cũng là giả tạo, không bền vững.

Vì thế, trình thuật hiển dung hôm nay không chỉ cần cho chúng ta trong Mùa chay này mà thôi; nhưng ứng dụng của nó cần được thể hiện trong hành trình và sứ vụ của người môn đệ. Thử thách, gian nan và đau khổ là một phần trong hành trình của sứ vụ. Cứ mãi mê nhìn và chiến đấu với nó khiến chúng ta mệt nhoài. Hãy ôn lại các lần gặp gỡ giữa Chúa và ta, hãy nhớ lại việc Chúa can thiệp để biến đổi chúng ta… tất cả những kinh nghiệm đó sẽ là những cuộc hiển dung của Thiên Chúa nhằm giúp chúng ta mạnh dạn, can đảm bước đi và đi mãi cho đến cùng của hành trình Thương Khó, chết đi cho những biến dạng của thế tục và mãi để cho hình ảnh của Thiên Chúa được bộc lộ một cách thật rõ ràng qua thân xác vinh hiển của Đức Ki-tô phục sinh, Đấng đã cho các môn đệ nếm hưởng ánh vinh quang Phục Sinh trong biến cố hiển dung hôm nay. Amen!


Friday, 8 March 2019

CHỌN AI?



Vào các Mùa chay hàng năm, Hội Thánh thường nhắc cho chúng ta nhớ đến các việc đạo đức như ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái. Từ năm này qua năm khác, sứ điệp vẫn là như thế; nhưng việc thực hiện thì khó khăn. Tự kiểm điểm và nhận ra rằng tôi chưa thực hiện được bao nhiêu. Vì thế, sứ điệp vẫn cần thiết. Các việc làm đó nhằm hướng chúng ta về cuộc sống và sứ vụ của Đức Giê-su, mà cao điểm là biến cố Phục sinh từ trong cõi chết của Người mà chúng ta chuẩn bị mừng Lễ. Nói chung là như thế, tuy nhiên mỗi người chúng ta đều có cách thức khác nhau để thực hiện các lời khuyên đạo đức trong mùa chay này.

Vào cuối tuần vừa qua, tôi may mắn được nghe các bậc phụ huynh chia sẻ với nhau về các việc mà con cái họ thường áp dụng trong mùa chay. Trong các lời san sẻ, tôi đã bị đánh động bởi việc làm của các cháu trong gia đình của người bạn. Anh chị đã chia sẻ rằng: Để chuẩn bị cho mùa chay năm 2019 này, mấy người con gái của anh chị đã lau chùi, sắp xếp lại phòng ốc cho ngăn nắp, khang trang và sạch sẽ hơn. Các cháu còn đưa ra quyết tâm sẽ kiêng thịt trong suốt mùa chay. Đây không phải là điều gì mới mẻ, các cháu đã từng làm vào các mùa chay trước đây. Tuy nhiên, việc làm của các cháu thật ý nghĩa, nó đã để lại trong tôi một ấn tượng thật sâu sắc.

Lau chùi và sắp xếp lại phòng ốc là hình ảnh tiêu biểu giúp chúng ta sống mùa chay.

Vẫn biết, thời gian thuộc về Chúa và tất cả mọi biến cố xẩy ra đều là các dấu chỉ để con người nhận ra ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, mùa chay bao giờ cũng là thời gian thuận tiện, thời khắc ân sủng để chúng ta có cơ hội nhìn lại mà lau chùi và sắp xếp lại cuộc sống của chính mình sao cho phù hợp với cuộc sống và sứ vụ của Đức Giê-su, nhất là thông phần vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người.

Cho dù là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã đối diện với bao cám dỗ, đã trải qua muôn vàn thử thách và đau khổ để học cho được bài học vâng phục ý định của Thiên Chúa, Cha Người. Và trong phần phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật thứ nhất Mùa chay năm nay, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy gẫm ba cuộc thử thách tiêu biểu trong muôn vàn cám dỗ khác mà Đức Giê-su đã phải đương đầu khi thi hành tác vụ cứu nhân độ thế của Người. Và đây cũng là các thử thách mà các môn đệ và mọi thành phần trong cộng đoàn của các môn đệ sẽ gặp, trong đó có cả chúng ta nữa.

Thưa anh chị em,

Ba cuộc thử thách mà Đức Giê-su đối diện trong tư cách làm ‘Con Thiên Chúa’ cho chúng ta biết Người sẽ hành động thế nào? Trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giê-su sẽ đi tìm vinh quang và biểu lộ uy quyền cho người ta thấy mình là Con Thiên Chúa hay là lắng nghe và để cho Lời của Chúa ứng nghiệm qua sự vâng phục của Người? Đó vẫn là vấn nạn mà Người sẽ đáp trả trong cuộc sống.

Cơn cám dỗ đầu tiên là biến đá thành bánh. Cơm ăn áo mặc là  nhu cầu chính đáng của con người; nhất là sau khi đã nhịn đói 40 đêm ngày thì giờ đây chính là cơ hội để cho họ thấy quyền năng của Con Thiên Chúa, Đấng có thể làm cho đá thành bánh, bộc lộ uy quyền cho họ sáng mắt sáng lòng. Nhưng, đó là cạm bẫy đi ‘con đường tắt’ để bộc lộ vinh quang, cho nên Người đã từ chối thực hiện phép lạ vì ích lợi riêng cho bản thân mình.

Là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận tất cả mọi sự từ Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ từ Cha mà thôi. Cuộc sống của Người bao gồm cả tác vụ mà Người thi hành. Tất cả đều xuất phát từ Cha, nên Người phải lệ thuộc vào Ngài; không tự động biến đá thành bánh theo ý mình. Vẫn biết bánh và của ăn thì cần thiết cho việc nuôi dưỡng cơ thể; nhưng sự sống của con người hoàn toàn không chỉ lệ thuộc vào của ăn mà thôi. Nói như thế, có nghĩa là cho dù phải đói khát, Người vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lo cho Người, Cha Người sẽ cung cấp lương thực nuôi dưỡng Người. Phần Người hãy lo tìm kiếm và thực hiện ý Cha trước.

Như vậy, đối diện với thử thách thứ nhất, Đức Giê-su hôm nay và trong những ngày thi hành sứ vụ đã khước từ các gợi ý mà ma quỷ đưa ra, Người chỉ biết bám lấy ý định và việc dậy bảo của Thiên Chúa. Chính đó là lẽ sống nuôi dưỡng và là sức mạnh giúp Người thực hiện sứ mạng.

Thử thách hay còn gọi là cám dỗ thứ hai là cơn cám dỗ về việc sở hữu quyền lực. Trước đề nghị và lời hứa của ma quỷ hình như là một cạm bẫy. Vinh quang và quyền quý luôn là các ước mơ của con người; tuy nhiên phương thức để đạt được các điều đó khiến cho con người trở thành nạn nhân của thứ vinh quang hão huyền, để rồi khi đạt được, con người có thể sẽ mất đi chính họ.

Như chúng ta đã từng kinh nghiệm, quyền lực thì thống trị và đi ngược lại với uy quyền. Ở đây ma quỷ đưa ra một lời thỏa hiệp trắng trợn. Thói vinh hoa trong cám dỗ này thuộc quyền sở hữu của thần dữ. Và một khi con người chấp nhận thỏa hiệp này thì chính mình lại trở thành nạn nhân cho chúng. Đức Giê-su đã quyết liệt từ khước lề thói thỏa hiệp này. Người khẳng định niềm tin và sự chọn lựa đứng về bên Thiên Chúa, cho dù phải kinh qua đau khổ Người vui lòng chấp nhận miễn là sao cho Lời Chúa được ứng nghiệm. Đó chính là vũ khí tối hậu để chống trả các cơn cám dỗ.

Đức Giê-su đã không đến và dùng quyền lực để lôi kéo đám đông; nhưng qua uy quyền của kẻ làm tôi tớ, Người đã thực hiện một vương quốc yêu thương, vương quốc vĩnh cửu và an bình. Đức Giê-su chỉ đón nhận vương quyền từ Thiên Chúa mà vương quyền đó được thể hiện qua việc hiến dâng và trở thành tôi tớ của muôn  người. Đó mới là vương quyền đích thật không do tay người phàm tạo ra, nhưng được xuất phát và ban tặng bởi Thiên Chúa qua sự vâng phục của người Con.

Cuộc cám dỗ cuối cùng là thả mình xuống khỏi đỉnh cao của đền thờ. Ma quỷ đưa ra một lời đề nghị thật hoành tráng cho những ai nghĩ rằng mình có quyền, rồi dùng quyền để làm cho mọi người phải qui phục. Đã nghĩ như thế thì hãy thả mình xuống để thử coi Thiên Chúa có cứu họ hay không? Thật thú vị cho lối suy nghĩ bắt Chúa làm theo ý mình.

Đức Giê-su đã có thái độ ngược lại, Người không dám thử thách uy quyền cuả Thiên Chúa và buộc Ngài phải thực hiện những phép lạ để bảo vệ Người. Trái lại, những gì mà Người trải nghiệm tại Giê-ru-sa-lem sẽ là sự từ khước, nỗi xấu hổ và bị nhục mạ. Nhưng chính qua các trải nghiệm và cho đi tận cùng của Con Thiên Chúa, ngay cả khi trần trụi trên Thập Giá, Đức Giê-su đã chẳng đòi hỏi hay cầu xin Thiên Chúa ra tay cứu Người. Đức Giê-su tin vào điều đó, nhưng chỉ là một niềm tin sắt son, không cần kiểm chứng. Người tin vào Thiên Chúa sẽ hoàn thành chương trình của Ngài trong việc Người làm, thế và chỉ có thế thôi. Vì thế, Thiên Chúa đã suy tôn Người, nâng Người dậy và ban cho Người một danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu, để cả gầm trời này phải quì xuống mà suy tôn Người là Chúa.

Đức Giêsu đã đối diện với các thử thách khi thi hành sứ vụ và với quyền năng của Thần Khí, Đức Giê-su đã chiến thắng các cuộc cám dỗ.

Hôm nay, khi suy niệm về các cuộc cám dỗ mà Đức Giê-su đã trải qua, chúng ta nhớ lại điều mà tác giả thư Do Thái đã viết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người,” (Dt 6:8-9)

Phần chúng ta cũng thế. Là thành viên của Hội Thánh; với tư cách của một tín hữu và là con yêu dấu của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi sống và tuân theo ý định của Thiên Chúa, không được phép dùng Chúa hay Lời của Người như một công cụ để đáp ứng nhu cầu riêng mình. Thế mà, vẫn còn một số viên chức, đã nhân danh hai chữ uy quyền để buộc người khác làm theo ý mình. Các đấng bề trên, những người lãnh đạo thay vì giúp người khác nhận ra ý Chúa mà thi hành; trái lại vẫn còn một số người, cho dù là rất ít, đã lạm dụng hai chữ ‘vâng lời’ để bắt người khác phải vâng theo sự khôn ngoan của các ngài. Cuối cùng, uy quyền không được dùng như một khí cụ để bộc lộ tình yêu, mà đã biến thành luỡi gươm của quyền lực để chà đạp và gây tổn thương cho các phần tử bé nhỏ, mỏng dòn và yếu đuối khác.
Có một thực tế rất hiển nhiên mà chúng ta nên can đảm nhìn nhận. Thử thách hay còn gọi là cám dỗ là điều không thể thiếu vắng trong đời sống của các kẻ tin nói riêng và đời sống cộng thể nói chung. Và, không một ai trong chúng ta có thể tránh thoát được các cạm bẫy của ma quỷ hay các quyền lực của sự dữ ẩn núp dưới các chiêu bài khác nhau để lôi kéo chúng ta đi ngược lại Ý Chúa. Cạm bẫy đó xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh của cuộc sống. Nhiều lúc nó đã đến với chúng ta dưới nhãn hiệu ‘nhu cầu mục vụ’, ‘giúp đỡ kẻ khác’, v.v..

Cám dỗ nào cũng ngọt ngào và hấp dẫn. Thử thách nào cũng đòi chúng ta phải biện phân và chọn lựa.

Chỉ có sự hiện diện của Chúa, Đấng đã đối diện và chiến thắng thần dữ mới giúp và mở lòng cho chúng ta nhận ra đâu là Ý Chúa mà học cho được vâng phục. Thánh Ý của Ngài luôn vuợt qua những đắng cay và đau khổ mà chúng ta phải đối diện và gánh chịu khi chọn lựa.

Chọn Chúa để tôn thờ hay làm theo ý riêng mình?
Chọn yêu và phục vụ anh em hay yêu chính mình rồi làm tổn thương người khác?  
Xin Thiên Chúa chúc lành và giúp anh chị em chọn đúng. Amen