Vào sáng thứ Sáu, ngày 15 tháng 3 vừa qua, tại Thành Phố
Christchurch, bên New Zealand đã xẩy ra một vụ thảm sát bằng súng. Vụ thảm sát
này đã cướp đi sinh mạng của 50 người và cho đến hiện nay còn 50 người khác đang
bị thương. Vụ nổ súng đã xẩy ra tại hai ngôi đền của người Hồi Giáo. Thủ phạm
gây ra tội ác là một người da trắng. Vì bạo lực và hận thù, ông đã khiến bao
nhiêu người bị đau khổ.
Trong tình liên đới và đồng cảm với các nỗi đau khổ của các nạn
nhân và gia đình của họ, chúng ta hướng về họ, cầu xin cho họ và thế giới được
an bình, văn hoá của hận thù và bạo lực phải bị tiêu diệt để nhường chỗ cho nền
văn minh của sự sống và tình thương được giải bầy và triển nở trong đời sống của
chúng ta.
Máu của những người dân vô tội đã đổ xuống vì hành động điên
rồ của một con người chỉ biết hận thù và giết chóc. Máu của những người mộ đạo đổ
ra tại đền thờ, đã được hoà trộn và dâng lên Đấng Tối Cao như là của lễ mà cả đời
họ đã dâng hiến. Máu của những người vô tội này còn nhắc nhở chúng ta nhớ đến
lòng thương xót của Chúa trên mọi người.
Đứng trước những tai ương, các biến cố đem lại đau khổ, tai
hoạ và chết chóc; người ta lại đặt những vấn nạn như: Chúa ở đâu, khi các bi kịch
này cứ xảy ra trên thế giới? Chúa ở đâu, khi người vô tội lại gặp toàn những
chuyện bất hạnh và khổ đau? Không một ai trong chúng ta có thể giải đáp được
các câu hỏi như thế; và chúng ta cũng không nên tìm hiểu tại sao các tai ương vẫn
xẩy đến cho bằng hãy tự hỏi là khi nào tai họa sẽ xẩy đến và một khi nó xẩy ra
thì phản ứng của chúng ta sẽ như thế nào?
Ngày xưa những người đồng thời với Đức Giêsu cho rằng mọi tai
họa như bịnh tật, tai ương, chết chóc, v.v… là những hình phạt của Thiên Chúa
giáng trên những kẻ mà họ gọi là phường tội lỗi. Còn, những ai thoát nạn thì lại
được họ đánh giá là những người đạo đức, công chính và không cần hoán cải.
Đức Giê-su không đồng ý với quan điểm và lối nhìn của những sống
cùng thời với Người. Người còn nhìn ra thâm ý của họ khi tường trình lại biến cố
này. Họ muốn xem thái độ và cách hành xử của Đức Giê-su trước những biến cố thời
sự đang xẩy ra như thế nào?
Có lẽ chúng ta cũng nên đặt biến cố này vào hoàn cảnh và môi
trường chính trị thời Đức Giê-su đang sống. Thánh Lu-ca tường thuật là máu của
họ hoà lẫn với máu của các con vật mà họ dùng để tế lễ. Chi tiết này cho chúng
ta biết những người bị Phi-la-tô giết hại hôm nay là những người đang tham dự
các nghi thức phụng vụ tai đền thờ. Họ có thể là thành phần của một nhóm yêu nước
muốn nổi dậy để đòi quyền tự chủ hay là những người dân vô tội đã vô tình xuất
hiện ngay vào lúc có cơn càn quét các nhóm chống đối chính quyền Rô-ma. Vậy nếu
Đức Giê-su binh vực họ thì Người sẽ chống lại quân lính của Phi-la-tô và khuyến
khích họ đi vào những cuộc nổi dậy không lối thoát. Ngược lại, nếu đồng ý với
cách cư xử tàn ác của Phi-la-tô thì Đức Giê-su xem ra lại đứng về phe của những
kẻ có thế lực đang dầy xéo và tạo nên bao nhiêu cảnh lầm than cho dân chúng.
Đức Giê-su xác định rõ lập trường của Người, đó là Người đến
để thi hành ý muốn của Chúa Cha là ban ơn cứu độ, giải thoát con người khỏi căn
nguyên của tội lỗi. Vì thế, Người đã không để cho bất cứ một tham vọng chính trị
nào ảnh hướng trên sứ vụ của Người. Đức Giê-su đã vặn lại bằng cách hỏi họ rằng
“các ông tưởng những người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn
mọi người Ga-li-lê khác sao?” Qua cách đặt vấn đề như thế, Đức Giê-su muốn lôi
họ ra thoát khỏi quan niệm của họ khi cho rằng tai hoạ là hình phạt của Thiên
Chúa giáng xuống kẻ có tội.
Thật ra, giữa tai họa và tội lỗi không có một nối kết nào. Hẳn
chúng ta còn nhớ trong phép lạ chữa người mù từ thủa mới sinh, các môn đệ đã lập
luận với Thầy mình về tình trạng của người mù. Anh đã làm gì nên tội mà bị mù
ngay từ lúc vừa chào đời; và nếu án phạt là hậu quả của tội lỗi thì việc anh bị
mù là tội của ai? Đức Giê-su đã trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải
cha mẹ anh đã phạm tội (mà anh bị mù). Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ thấy
quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Theo Đức Giê-su thì tai hoạ không phải là hậu quả của tội lỗi;
vì thế Người mới nói thêm về số phận của những người bị tháp Si-lô-ác đè chết,
họ cũng không phải là những người mang tội nặng hơn những người đang cư ngụ tại
Giê-ru-sa-lem đâu!
Sau đó, Đức Giê-su đã khuyến cáo họ, lời khuyến cáo này rất
khẩn thiết và quan trọng vì trong một đoạn văn rất ngắn mà Thánh sử đã lập lại
hai lần, Đức Giê-su phán rằng “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” có
nghĩa là số phận của họ không giống như các ông nghĩ là do tội của họ mà ra.
Người tiếp tục “… nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y
như vậy.”
Như vậy lời khuyến cáo của Đức Giê-su là lời mời gọi sám hối.
Đây cũng không phải là điều gì mới mẻ. Ngay từ lúc khai mạc sứ vụ Đức Giê-su đã
phán “hãy hối cải và Tin vào Tin Mừng.” Hối cải không chỉ là một lịnh truyền cần
được nhắc đi nhắc lại từng giây từng phút trong cuộc sống của người môn đệ mà
thôi; nó còn là một sự chọn lựa bộc lộ bằng hành động của mình. Muốn hối cải,
con người cần trở về với chính mình để nhận ra tình thương của Chúa hoạt động
trong chúng ta mãnh liệt dường bao. Và nếu chúng ta không biết hối cải thì cho
dù còn sống nhưng thật ra đã chết!
Việc hối cải không chỉ là nỗ lực riêng của con người; nhưng
phát sinh từ Thiên Chúa, Đấng trung tín với sự bất trung và bội tín của con người.
Ngài luôn kiên tâm và chờ đợi con người như ý nghĩa trong dụ ngôn cây vả mà
chúng ta nghe hôm nay. Người làm vườn đầy tình thương và chờ đợi để nó sinh hoa
trái, Người nói ‘Thưa ông chủ, xin cứ để nó lại năm nay nữa.’ Còn tình thương
và lòng quảng đại nào vĩ đại hơn điều chúng ta vừa nghe. Đã bao nhiêu lần ‘cứ để’,
và bao nhiêu thời hạn ‘một năm’ đã trôi qua; Chúa vẫn lặng thinh, âm thầm và chờ
đợi con người mở lòng ra để đón nhận lòng thương xót của Ngài.
Suy niệm tới đây, tôi nhớ đến một truyện tích ngắn đã xẩy ra trong
cuộc đời của Vua Na-po-le-on, vị hoàng đế vĩ đại một thời của nước Pháp. Khi mang
trách vụ Tổng chỉ huy quân đội, Đại đế Na-po-le-on đã công bố một điều luật là
nếu ai vắng mặt không có phép mà bị bắt thì sẽ bị xử tử vào giờ ăn sáng của
ngày hôm sau.
Có một chú lính kia, mới được 17 tuổi, cậu đã chứng kiến các
bạn của cậu bị bắn khi vi phạm vào khoản luật nói trên. Vì quá sợ hãi, cậu chạy
trốn; không may cho cậu là trốn không thoát nên số phận của cậu cũng sẽ bị định
đoạt trong bữa ăn sáng của ngày kế tiếp.
Có một sự việc xẩy ra rất tình cờ, đó là cậu này lại là con
trai bà bếp của nhà vua. Bà xin gặp và van xin lòng thương xót của vua. Sau khi
nghe lời van xin thống thiết của bà mẹ; Vua Napoleon vẫn giữ ý định của mình và
đuổi bà ra khỏi dinh. Trước khi đuổi bà đi, Vua phán “Bà hãy đi, vì con bà
không xứng đáng đón nhận lòng thương xót của tôi.” Khi nghe như thế, người phụ
nữ mới đáp lại: “Thưa Vua, Ngài nói chí phải. Con của tôi không xứng đáng đón
nhận lòng thương xót của Ngài. Bởi vì, nếu nó xứng đáng, thì Lòng Thương Xót
không còn mang đặc tính của Lòng Thương xót được ban tặng nhưng không cho những
ai không xứng đáng đón nhận nữa.” Nghe đến đó, nhà Vua ngồi trầm ngâm suy nghĩ…
Truyện không có kết luận. Đó cũng là điều mà chúng ta cần khám
phá và thực thi trong cuộc sống và trong mối tương quan của Thiên Chúa dành cho
chúng ta.
Ước gì chúng ta hãy học để đối diện và chấp nhận các tai ương
như là các dấu chỉ thời đại để nhận ra tình thương, lòng nhân hậu và sự kiên
trì của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và một trong các dấu chỉ thời đại, đó là
vụ khủng bố làm xập tòa tháp đôi bên Thành Phố New-York vào năm 2001. Cho đến
giờ này, tôi vẫn không thể quên được hình ảnh của những con người dũng cảm đã
lao mình vào Toà Tháp Đôi để cứu nạn nhân của vụ khủng bố kinh hoàng đó. Họ đã quên
đi sự an toàn của chính bản thân và chỉ nghĩ đến việc cứu người. Nhiều người đã
bị thiệt mạng cùng với nạn nhân dưới đống gạch vụn. Họ là các anh hùng. Những vị
thánh không cần tuyên phong. Quả thật với hành động dũng cảm, hy sinh và nghĩ đến
người khác này, chúng ta tin rằng không cần sau cơn mưa trời lại sáng mà ngay
trong cơn mưa trời vẫn sáng, trong cơn u tối vẫn còn ánh sáng, trong cảnh bạo
tàn và tai ương vẫn còn những nguồn suối yêu thương.
Các việc làm xuất phát từ trái tim yêu thương ấy giúp cho chúng
ta có thể xác tín và loan báo rằng chỉ có TÌNH YÊU mới có thể mở ra cho nhân loại
một chân trời mới. Và cũng chỉ có TÌNH YÊU mới làm cho con người luôn sống
trong hy vọng về một tương lai tươi đẹp hơn những tai ương, khủng bố, hay thảm
sát như biến cố 11/9 năm 2001 và 15/3 năm 2019 vừa qua.
TÌNH YÊU đang chờ đón bàn tay và khối óc của mỗi người. Chờ
ta cùng tiến bước để loan báo bằng chính cuộc sống mình rằng: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của
người thí mạng sống vì người mình yêu". Đức Giêsu đã tuyên bố như thế và Người
đã sống chính lời Người phán, bằng việc đi đến cùng con đường mà Người đã chọn
để thể hiện Tình Yêu của Thiên Chúa.
Cái chết
trên thập giá diễn tả mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng...
Chết cho
Tình Yêu để rồi sống mãi cho Tình Yêu. Đức Giêsu mong muốn lối sống này được tiếp
tục qua cuộc sống của mỗi tín hữu, môn đệ dấu yêu và trung tín của Người.
Đó là
hành động phát sinh từ một trái tim luôn hối cải để hoàn thiện và thăng tiến
mãi trong mối tình cao cả mà họ đã trải nghiệm trong Đức Ki-tô, Chúa chúng ta.
Đấng là Tình Yêu, là Lòng Xót Thương và luôn kiên tâm mong mỏi chúng ta trở về
để sinh hoa kết trái theo như ý định và ước muốn của Người. Amen!
No comments:
Post a Comment