Dụ ngôn nói về lối sống nhung lụa của ông phú hộ và cảnh nghèo hèn
đói khát của La-da-rô hôm nay như một tiếng chuông báo động, nhắc nhở, cảnh tỉnh
lối sống vô tâm và vô cảm của chúng ta. Trong dụ ngôn, Đức Giê-su giới thiệu hai
nhân vật: Người giàu không có tên, còn ông nghèo hèn kia, tên là La-da-rô. Một
nghịch lý, vì theo thói đời, những người giầu có quyền quí mới được khắc tên
trên bia đá, bảng vàng để mọi người ghi nhớ; còn có ai dư giờ, rỗi hơi mà ghi
tên những người nghèo. Chỉ mình Chúa quan tâm, thương yêu và hay bênh vực họ.
Trình thuật mô tả hai cảnh đời
trái ngược nhau. Chúa không hề nói đến cách làm giàu của ông phú hộ; và cũng
không hề ca tụng cảnh nghèo của La-da-rô. Không có chỗ nào nói La-da-rô là một
con người nhân đức, anh chỉ được giới thiệu là một người nghèo. Cũng vậy, không
có chỗ nào nói ông nhà giầu là kẻ ác ôn, đã vơ vét của cải một cách mờ ám, đã
chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi La-da-rô.
Chúa cũng không bảo La-da-rô là người đức hạnh và ông nhà giầu là người xấu xa.
Chỉ đơn giản, ông nhà giầu là người giầu, La-da-rô là người nghèo.
Ông nhà giầu đã không nhìn thấy La-da-rô nghèo đói khốn cùng, đang nằm
ở ngoài cổng. Giữa họ có một khoảng cách. Khoảng cách không phát sinh từ hoàn cảnh;cho
bằng thái độ sống và cách chọn lựa: Lòng vô cảm, không quan tâm của ông nhà giầu.
Giải thích thế nào cũng không vượt qua đuợc trọng tâm mà dụ ngôn muốn
gửi đến: Nếu chúng ta không quan tâm, giúp đỡ, thương yêu người nghèo hèn thì
chúng ta không còn là bạn của Đức Giê-su nữa.
Vẫn biết sứ điệp thật rõ ràng. Nhưng áp dụng vào hoàn cảnh thực tế
không dễ dàng.
Khi còn làm việc tại trung tâm Hoan Thiện, một cơ sở công giáo của người
Việt tại Keysborough và các vùng phụ cận thuộc về phía nam của thành phố
Melbourne. Tôi thường gặp những hoàn cảnh thật khó xử. Có những người đến xin
được giúp đỡ. Dân Việt mình thì xin chứng giấy tờ, bảo đảm đức hạnh. Còn những
người khác, người thì xin tiền, kẻ khác đổ xăng hay trả tiền thiếu hụt thuê
nhà, v.v.
Lòng thì muốn giúp, thế nhưng đầu óc, kinh nghiệm và những lời
khuyên của các vị lão luyện trong việc mục vụ làm tôi chần chừ. Cuối cùng, tôi
cũng tìm cách thoái thác và gửi họ đến các văn phòng xã hội lo cho người nghèo,
như văn phòng của hội bác ái St. Vincent de Paul. Tuy giải quyết xong vấn nạn.
Nhưng lòng tôi cảm thấy không thoải mái khi tiễn chân họ ra khỏi trung tâm.
Cách hành xử như thế, tuy là có chút khôn khéo, chưa hẳn là khôn ngoan.
Thật ra, không ai muốn nghèo. Cảnh nghèo thúc đẩy con người không
còn chọn lựa; ngay cả nhân phẩm và tư cách cũng có thể bị đổi chác. Tôi còn nhớ
rất rõ những gì đã chứng kiến trong chuyến đầu về thăm quê hương vào năm 2005.
Số là sau khi hoàn tất những công việc cần làm. Vào buổi sáng cuối cùng
của chuyến viếng thăm đó, thay vì vào nhà dòng, chúng tôi ‘tự thưởng’ cho mình một
bữa sáng tại khách sạn. Món ăn thua được cung cấp tại khách sạn không bằng các
phần ăn đạm bạc nhưng đầy tình anh em trong nhà dòng. Chỉ được một điều là
không khí trang trọng, lịch sự. Khách sạn mà. Đang vui vẻ ba hoa với cha bề
trên. Lòng tôi chùng hẳn xuống khi nhìn thấy một nhóm các cô gái, đóan chừng
còn rất trẻ, chưa đến 20, đang ôm vai, bá cổ, nhõng nhẹo với mấy người ngọai quốc.
Lúc đó, tôi có chia sẻ với cha bề trên rằng. Không hiểu tôi sẽ suy nghĩ và phản
ứng thế nào nếu một trong các cô gái đó là con cháu của tôi!
Thưa anh chị em,
Như đã trình bầy ở trên; trọng
tâm và sứ điệp của dụ ngôn là việc chia sẻ mối dây yêu thương và lòng quan tâm
của chúng ta dành cho người nghèo. Nhưng điều này
không chỉ bị hạn hẹp trong việc chia sẻ tiền bạc, cơm bánh mà thôi.
Còn hơn thế nữa.
Tác giả của dụ ngôn truớc tiên nhắm đến những người biệt phái. Chúng
ta đừng quên cộng đòan mà Thánh Lu-ca là một cộng đòan dân ngọai gốc Hy lạp.
Tuy nhiên, cũng có một số gốc biệt phái. Họ chủ truơng rằng sự giầu sang, thịnh
vuợng mà họ đang thụ hưởng là phần thưởng và dấu chỉ mà Thiên Chúa phải trao
ban để tưởng thưởng cho các việc lành phúc đức và lối sống chu tòan lề luật của
họ. Còn đám dân ngọai kia biết gì về Chúa. Sự hiểu biết thiển cận của họ về lề
luật của Chúa nói lên tình trạng nghèo nàn của họ. Trong con mắt của những người
biệt phái thì đám dân nghèo đó thật đáng khinh. Họ giống như La-da-rô, ngồi bên
ngoài nhà tại cổng ra vào để chờ chực phần ăn rơi rớt từ trên bàn tiệc của những
nguời biệt phái vậy.
Quan niệm của những người biệt phái thật sai lầm. Thiên Chúa của Đức
Giê-su không hành động như thế. Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên
Chúa. Con người thật đáng yêu đáng mến. Không có việc lọai trừ hay phân chia
giai cấp dựa trên tiêu chuẩn giầu hay nghèo, sang hay hèn. Tất cả đều bình đẳng
trong tương quan với Thiên Chúa.
Thánh Phaolô nói rằng không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa trong Đức Giê-su. Vì vậy, chúng ta được mời gọi để nhận ra,
để nhìn thấy Chúa Giê-su trong nhau, và cũng nhận ra các giá trị thiêng liêng
qua việc chia sẻ vật chất dành cho người khác. Và chỉ trong mối dây tương quan
mật thiết luôn nghĩ đến nhau, luôn quan tâm cho nhau mới giúp chúng ta lắp đầy
hố sâu ngăn cách vì vô tâm, vị kỷ để nối kết con người lại gần nhau hơn, và trở
thành một gia đình mà chính Chúa là nguời Cha duy nhất.
Đó là mối quan hệ mà Chúa Giê-su mời gọi chúng ta xây dựng.
Vì vậy, bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta buớc ra khỏi tình trạng an
tòan trong cuộc sống để ra đi bằng việc làm hàn gắn các hố sâu ngăn cách và kết
nối con người lại với nhau. Chúng ta không cần chờ đến sau khi chết mới thấy hậu
quả của cuộc sống “vô cảm, vô tâm” của ông phú hộ trong dụ ngôn hôm nay. Ngay đời
này. Mấy ai sống trong nhung lụa mà thấy hạnh phúc. Họ đang tự chôn mình trong
nỗi cô đơn mà chính họ tạo ra.
Như vậy, dụ ngôn không hề có ý mô tả cuộc sống mai sau. Dụ ngôn muốn
nói rằng cuộc sống hiện tại của mấy ông nhà giầu cho dù có sướng thật, nhưng
chưa hẳn là một cuộc sống có giá trị. Sự hiện diện của người nghèo không phải
là một gánh nặng trong cuộc sống của ông; trái lại qua những người nghèo, mấy
ông nhà giầu phải nhận ra rằng cuộc sống của họ đang thụ hưởng chỉ đem lại hạnh
phúc đích thật nếu họ biết chia sẻ, xây dựng mối dây thân ái, tạo sự hiệp thông
bằng việc làm như những lời vàng ngọc mà chúng ta đã nghe trong phần Lời Chúa của
tuần trước là hãy dùng tiền của bất chính mà gây nhân nghĩa. Nhân nghĩa là xây
dựng đền thờ trong tâm hồn con người… Nhưng hình như, uớc muốn của các người
nghèo như La-da-rô trong bài Tin Mừng hôm nay không đuợc đáp ứng; và như vậy số
phận của ông nhà giầu coi như đã được quyết định.
Còn chúng ta thì sao?
Không có ai, kể cả người chết sống lại, có thể buộc chúng ta phải
yêu mến. Lời Chúa, lề luật và các ngôn sứ đã được gửi đến. Mặc khải đã có sẵn. Đức
Giê-su đã đến. Việc đón nhận để áp dụng vào trong cuộc sống là bổn phận của
chúng ta.
Vực sâu lớn nhất của cuộc đời là ích kỷ, là vô cảm, là vô tâm và chỉ
biết đến bản thân. Vì thế, chỉ có việc quan tâm, để ý đến nhu cầu của người
khác mới có thể tạo nên những nhịp cầu, những lối đi dẫn con người đến sự hiệp
thông, đến tình liên đới. Khi biết để ý đến người khác, dù chỉ là nụ cười, đôi
lời tâm sự, vài phút bên nhau … tất cả đều là dấu chỉ mà Thiên Chúa gửi đến.
Và, trong Chúa tất cả đều dễ thương, tất cả đều trở thành cơ hội để hành động.
Vì thế, đừng sống vô tâm, đừng đến với nhau như những người vô cảm. Còn rất nhiều
La-da-rô trong xã hội, trong lòng Hội Thánh. Họ đang chờ chúng ta băng bó, sưởi
ấm để cho thế giới bớt băng giá hơn. Ai trong chúng ta cũng nghèo. Nhận ra tình
trạng nghèo của bản thân để biết rằng: chỉ có trong Chúa chúng ta mới giàu có,
chỉ có trong Chúa chúng ta mới làm được những gì mà Chúa muốn. Amen!
No comments:
Post a Comment