Wednesday, 29 September 2021

LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHUNG SỐNG TRỌN ĐỜI?

 

            Đề tài của Tin Mừng hôm nay là một trong những vấn đề thật nhậy cảm và gây ra nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu. Đó là việc ly dị trong đời sống hôn nhân.

Trước tiên chúng ta phải nhìn nhận rằng trong tiến trình chuẩn bị chung sống và xây dựng gia đình không ai trong chúng ta nghĩ đến chuyện ly hôn. Ngày xưa các cụ nhà ta mỗi khi gặp khó khăn trong hôn nhân thì các ngài tìm mọi cách để vượt qua. Chỉ nghĩ đến việc bỏ nhau là họ cảm thấy run sợ, phương chi là hành động. Còn ngày nay, giới trẻ chúng mình học cao hiểu rộng, nhưng lại thiếu hy sinh, thiếu kiên nhẫn, yêu và sống theo sở thích và ý riêng của mình, rồi đến khi gặp khó khăn liền nghĩ đến chuyện ly dị.

Vì thế, con số những người ly dị trong hôn nhân càng ngày càng tăng chứ không giảm, và biết đâu trong cộng đoàn mà chúng ta đang sinh hoạt lại không có người đã trải qua kinh nghiệm đắng cay này. Mỗi người đều có lý của riêng mình khi phải quyết định và không ai hạnh phúc và vui vẻ trong tiến trình ly dị. Họ phải thực hiện một quyết định mà chính bản thân họ không muốn.

Chúng ta tôn trọng sự chọn lựa của những ai đã ly hôn. Họ vẫn có một ví trí trong con tim nhân hậu của Đức Chúa, Người muốn họ sống hạnh phúc. Còn chúng ta, những người môn đệ của Chúa phải có bổn phận nậng đỡ nhau, giúp nhau trưởng thành qua những thất bại và tìm thấy kho tàng ân huệ của Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống và các chọn lựa của chúng ta, dù đôi khi đó là điều mà chúng ta không muốn!

Trở lại trình thuật Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay. Đức Giê-su bị những người thuộc phái Pha-ri-siêu gài bẫy. Họ muốn lôi kéo Người tham dự vào cuộc tranh luận mà chính họ không có giải đáp. Đức Giê-su biết thâm ý của họ cho nên đã nhân cơ hội này nhắc lại cho họ nhớ lại ý định ban đầu của Thiên Chúa khi tạo dựng và thiết lập tương quan sống chung giữa người nam và người nữ.  Câu trả lời của Đức Giê-su rất rõ ràng. Ý định ban đầu của Thiên Chúa về cuộc sống chung trong hôn nhân là: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” Điều này có nghĩa là khi hai người lấy nhau theo đúng ý muốn của Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ các đặc ân để họ chu toàn nghĩa vụ, bổn phận và làm mọi cách để duy trì mối tương quan nên một đó cho đến trọn đời.

Vì thế, khi nói đến hôn nhân, chúng ta phải nhớ đến một yếu tố vô cùng quan trọng. Yếu tố này gắn chặt đời họ bên nhau. Đó chính là tình yêu. Tình yêu trao cho nhau trước hay sau hôn nhân không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là họ đang đuợc kêu mời để làm chứng cho Tình Yêu của Thiên Chúa.

Tình yêu trong tâm hồn mỗi người là một sức mạnh kỳ diệu và phi thường, có khả năng vượt qua mọi trở ngại, mọi ràng buộc. Chẳng có đầu óc nào có thể giải thích được lý lẽ của tình yêu. Nhưng nhờ vào truyền thống của Thánh Kinh, chúng ta tìm ra đuợc câu giải thích thật chính xác về tình yêu và hôn nhân.

Trong trình thuật tạo dựng, đặc biệt là việc Thiên Chúa dựng nên con người, có hai yếu tố đáng cho chúng ta quan tâm: “Ngài dựng nên họ giống hình ảnh Ngài” và “Ngài dựng nên họ có nam có nữ.” Mà Thiên Chúa là đấng thiêng liêng. Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Thế nên ta mới hiểu được tình yêu trong chúng ta chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Chính vì vậy mà chúng ta mới thấy tình yêu như một mầu nhiệm. “Và người đàn ông bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ của minh và cả hai trở nên một thể xác.”

Vì có Thiên Chúa liên quan đến tình yêu và hôn nhân, nên hôn nhân không còn là một kết hợp tự nhiên giữa người nam và người nữ về phương diện thể xác. Hôn nhân là một giao ước, trong đó hai người tuyên thệ sống trọn đời bên nhau và chia sẻ mọi buồn vui, suớng khổ trong trách nhiệm làm vợ chồng với nhau, làm cha mẹ đối với con cái. Nhiệm vụ đó thật cao cả; nhưng cũng thật nặng nề đôi khi vượt quá khả năng của con người. Chính vì thế, phải có sự can thiệp của Thiên Chúa. Ngài tạo một dịp để ban ơn đặc biệt cho đôi bạn qua một bí tích, một dấu chỉ mà Chúa thiết lập để ban ơn cho vợ chồng được chung thủy và trở nên cha mẹ có trách nhiệm.

Trong đời sống gia đình, với tất cả lòng thành, vợ chồng có thể chấp nhận và chung thủy với nhau trong những điều kiện thuận lợi. Nhưng trên thực tế, hòan cảnh mưa thuận gió hòa lại rất hiếm. Và khi có những thử thách, nghi ngờ, bất hòa hay tai họa xẩy đến, vợ chồng dễ bị lung lạc để tìm cách xa nhau. Không cần chờ đến lúc gặp phong ba bão tố họ mới chạy đến với Chúa như nguồn sinh lực mới để nối kết họ lại với nhau. Nhưng tiên vàn mọi sự họ cần sống đức tin vào Chúa qua những thăng trầm của đời sồng gia đình. Chính niềm tín thác vào Chúa là nền tảng giúp họ tin tưởng lẫn nhau hơn. Và chính từ niềm tin tưởng này mà họ có thể sống tách biệt nhau, chấp nhận những sự khác biệt của nhau trong nếp sống hằng ngày.

            Đó là cách tốt nhất để vợ chồng chung thủy với nhau. Thật vậy, trước khi vợ chồng mất niềm tin nơi nhau, phản bội nhau; họ phải mất niềm tin và phản bội Chúa trước. Nếu đời sống vợ chồng của họ đặt niềm tin vào Chúa và thực hiện những huấn lệnh Ngài truyền thì họ chẳng thề nào lỗi lời thề nguyền. Niềm chung thủy trong đời sống vợ chồng là họa ảnh của lòng trung tín của Thiên Chúa đối với nhân lọai. Ơn gọi này thật cao cả.

Anh chị em thân mến,

Ngoài ra, hẳn chúng ta còn nhớ mục tiêu của hôn nhân Công Giáo không chỉ nhấn mạnh đến yếu tố thương yêu của vợ chồng mà còn là việc sinh sản mà họ phải chu toàn nữa. Chúng ta không được coi trọng yếu tố này và xem nhẹ yếu tố kia. Cả hai hỗ trợ cho nhau để xây dựng một gia đình yên vui đằm thắm. Trên thực tế, tôi đã gặp một số gia đình, vợ chồng sống với nhau vì con cái. Đến khi con cái họ lớn khôn họ cảm thấy không còn bị ràng buộc với nhau nữa và từ đó sinh ra nhiều rạn nứt rồi dẫn đến đổ vỡ thật đáng tiếc. Trái lại, tôi cũng đã gặp các cụ ông và cụ bà, sau khi nuôi cho con cái của họ thành người, họ quay trở về sống cho nhau, cùng nhay đi lại hành trình với tất cả sự nồng ấm của những ngày đầu tiên. Tình yêu của họ lúc này trở thành nghĩa thủy chung, gắn bó và cùng nhau đi hết con đuờng tình.

Vì thế, thưa anh chị em, chúng ta không thể quên trách nhiệm sinh sản và giáo dục con cái trong nếp sống hôn nhân đuợc. Đây cũng là yếu tố vô cùng quan trọng, không khác gì tình yêu mà vợ chồng trao ban cho nhau.

Nhiệm vụ giáo dục con cái thật khó khăn, nên đòi hỏi cha mẹ cần tín thác vào Chúa. Vì thế, song song với việc chăm sóc, gìn giữ và giáo dục chúng nên người, cha mẹ cần giáo dục niềm tin, hướng dẫn về đường đạo đức và đời sống tâm linh cho chúng. Đó là trách nhiệm cao quí mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho cha mẹ. 

Với tất cả lòng thành, các bậc làm cha mẹ đã cố gắng chu tòan bổn phận giáo dục niềm tin của con cái minh bằng những phuơng thức hữu hiệu nhất. Nhưng không vì thế cha mẹ có thể cưỡng đọat quyền của Thiên Chúa trên những người con của mình. Mỗi người con là một tác phẩm tuyệt hảo của Thiên Chúa, Ngài trao vào tay cha mẹ để làm cho tác phẩm đó tốt đẹp hơn. Vì thế, cha mẹ cũng phải nhận ra giới hạn của chính mình. Bổn phận của cha mẹ là hướng dẫn và chỉ bào đường ngay lẽ phải để chúng đi theo. Nhưng khi đến tuổi lớn khôn, thì chúng có quyền suy nghĩ để chọn lựa con đường của mình.

Tóm lại, Đức Tin là nền tảng của đời sống vợ chồng. Đức Ái là khí cụ giúp họ xây dựng gia đình biết gắn bó, nương tựa lẫn nhau cũng như Trông Cậy ở nơi Chúa, Đấng giúp họ chung thủy với nhau cho đến trọn đời.

Nói một cách khác, nhờ niềm tin nơi Chúa vợ chồng luôn tin tưởng nhau. Từ đó họ gắn bó và yêu nhau hơn. Vì trong đời sống gia đình, họ tin là có Chúa làm chủ. Vì thế dù thành công hay gặp bất hạnh, vợ chồng không thể thiếu Chúa trong hành trình hôn nhân. Thiếu Chúa, họ đang xây nhà trên cát, một cơn sóng nhỏ cũng làm tiêu tan.

Hãy để Chúa cùng đồng hành với cha mẹ trong việc sinh sản và giáo dục con cái. Bởi vì dù các cháu là con của chúng ta, nhưng đích thật chúng là con của Chúa. Chúng ta lo một, Chúa lo muời. Chỉ có Chúa mới giúp vợ chồng hòan thành sứ mạng.

Sau cùng, những ai trông cậy và tin tưởng vào Chúa có bị Ngài bỏ rơi bao giờ. Cầu chúc mọi người đang sống trong bậc vợ chồng luôn biết xây dựng gia đình mình trên nền tảng yêu thương và phó thác gia đình mình trọn đời cho Chúa. Amen!

 

 

Wednesday, 22 September 2021

GIÚP NHAU SỐNG TỐT


Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã không mấy hài lòng trước lối suy nghĩ ích kỷ, thái độ hẹp hòi và tinh thần phe phái của các môn đệ, mà người lên tiếng hôm nay lại là môn đệ mà Người yêu mến nhất. Gio-an đã phân bua với Chúa rằng: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Đối với Gio-an, chỉ có những ai thuộc về nhóm ‘chúng mình’ thì mới được nhân danh Chúa để làm một việc gì đó như trừ ma bắt quỉ. Gio-an và các môn đệ dường như quá chú trọng đến uy quyền của phe nhóm cho nên đã quên đi nhu cầu của người bịnh hay bị quỷ ám. Các môn đệ phân bì và ghen tỵ với những người không cùng phe mình mà lại có khả năng làm được các việc mà họ đáng lẽ phải làm. Chỉ vì quyền lợi của phe nhóm và ý nghĩ sai lầm khi các ông trói buộc các ân huệ và uy quyền của Chúa vào trong tay của phe nhóm mình, cho nên các môn đệ đã quên rằng không một ai có thể làm được các việc lạ lùng nếu người đó không được Chúa ban ơn. Nhưng đối với Đức Giê-su thì khác. Người đến để chữa lành, để cứu thoát, để tháo cởi cho nên Người quan tâm đến nhu cầu của người bịnh, người nghèo khó, khổ đau. Tình trạng cần được giúp đỡ của họ đã choán hết tâm trí và sức lực của Người. Vì thế, Đức Giê-su hôm nay mới nhắc các môn đệ nhớ lại rằng không ai nhân danh Chúa để phục vụ người khác rồi sau đó quay lại để nói xấu Người, còn các môn đệ đừng ngồi đó mà phân bì rồi ngăn cản người khác làm điều tốt.

Thật vậy, chúng ta nên nhớ rằng còn rất nhiều người sống tốt lành, sống thiện hảo. Họ có nhiều đức tính tốt và làm nhiều việc thiện hơn mình mà không thuộc về phe nhóm hay cùng chung chia một niềm tin với mình. Thiên Chúa không bị ràng buộc hay bị trói bởi suy nghĩ hẹp hòi, ích kỷ và đầy tính độc tôn của phe ta, cho dù đôi lúc trong quá khứ chúng mình tự nhận rằng mình mang tính chính thống. Không một ai có quyền nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ thuộc về họ và phe phái họ mà thôi. Lối suy nghĩ ích kỷ, hẹp hòi và độc tôn này không phải là tinh thần của Tin Mừng.

Chúng ta vui mừng khi được mời gọi ra đi làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình, nhưng chúng ta không thể nắm giữ hay tạo một Đức Chúa và bắt người khác phải thần phục. Thiên Chúa đã hiện diện trong mọi nền văn hoá, trong các lối sống trước khi chúng ta đến với họ. Bổn phận của mình là đến để khơi dậy cho những người không cùng nhóm với mình nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi họ.

Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, chúng ta không khỏi bàng hoàng khi nhớ lại những chuỗi ngày đau thương và buồm thảm đến nổi đã xẩy ra cuộc Thánh Chiến để bảo vệ ngôi vị độc tôn của mình. Thậm chí còn có những hình phạt dành cho những ai nói hay tuyên xưng một đạo lý khác với ý của Giáo Hội. Những sai lầm trong việc nhận thức kéo theo các hành động tiêu diệt nhau đã xẩy ra trong lòng Giáo Hội cũng là việc dễ hiểu.

Nói đâu xa, cứ nhìn lại lối suy nghĩ và cách hành xử của các nhà truyền giáo về việc tôn kính tổ tiên của chúng ta thì thấy! Nếu các nhà truyền giáo tôn trọng và nhìn ra việc tôn kính tổ tiên của chúng ta như là một cách thức mà Thiên Chúa Mạc Khải để mời gọi chúng ta phải hiếu thảo với Cha Mẹ thì việc rao giảng về Thiên Chúa còn hiệu quả biết chừng nào! Tuy nhiên chúng ta cũng không thể quên gương sáng, lòng hy sinh trong việc từ bỏ để dấn thân trong việc mở mang Nuớc Chúa của các Ngài. Thiên Chúa làm việc trong các nỗi bất toàn của chúng ta.

Ngoài ra, nhưng ai theo chủ nghĩa độc tôn dễ dàng bị dẫn đưa và bước vào cuộc chiến theo đuổi quyền lực nhằm bảo vệ quyền kiểm soát của nhóm mình, và hậu quả là có thể dẫn đến ghen tỵ khi nhìn thấy nhóm khác hay người nào đó thành công hơn mình trong khi thi hành sứ vụ. Thật ra, người môn đệ chân chính là người nhận ra lỗi lầm để sửa đổi hầu nhận ra hoạt động của Thánh Linh ở bất cứ nơi nào và qua bất cứ người nào mà Thiên Chúa muốn dùng, không phân biệt phe nào hay nhóm nọ. Và một khi người môn đệ có tâm tình và thái độ rộng mở như vậy là lúc người môn đệ biết quan tâm đến nhu cầu của những người mà họ được sai đến để phục vụ hơn là tìm kiếm vị trí đứng đầu hầu để kiểm soát. Hãy nhớ rằng Chúa mới là vị lãnh đạo duy nhất, là người đứng đầu còn tất cả chúng ta chỉ là những kẻ được sai, thuộc về Chúa mà thôi!

Anh chị em thân mến,

Sau khi nhắc nhở cho các môn đệ nhớ rằng Thiên Chúa thuộc về mọi người. Không một ai hay bất kỳ phe nhóm nào được phép giữ Ngài làm của riêng cho họ hay phe của họ. Trong phần kế tiếp, Đức Giê-su cảnh báo họ rằng mầm móng sinh ra gương xấu, các hành vi dẫn đến sự tội không bị xâm nhập từ bên ngoài, nhưng nó lại xẩy ra từ bên trong cộng đoàn, do các người lãnh đạo. Họ là những người cầm cán cân công lý, tự nhận mình là người trưởng thành. Thế mà thay vì làm gương sáng, họ lại có những hành vi xấu ảnh hưởng trên cuộc sống của những kẻ bé mọn, những người yêú đuối thì quả thật giống như tội ác giết những người này vậy. Những kẻ bé mọn ở đây có thể hiểu là trẻ con, ngây thơ, yếu đuối, những ai yếu đức tin, những người cô thân tất bạt, không có ai bảo vệ. Và, nếu những người lãnh đạo mà làm cớ cho họ vấp phạm thì “thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà ném xuống biển còn hơn”

Điều mà Đức Giê-su nói với các Tông đồ “nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn” không có ý ám chỉ hay thúc dục chúng ta vi phạm tội ác giết người, cho bằng đó là kiểu nói nhấn mạnh. Hình thức nói như thế có thể hiểu là một khi chúng ta làm gương mù gương xấu, dẫn đưa người khác đến sự tội thì chẳng thà giết chết họ cho xong.

Trên thực tế, không một cộng đoàn nào mà không có người xấu. Không một tập thể hay cá nhân nào hoàn toàn thánh thiện. Hãy nhìn chung vào hoàn cảnh của thế giới. Nếu trên thế giới này chỉ bao gồm những người đạo đức, những người công chính; và nếu sự tội đã hoàn toàn bị bẻ gẫy thì Mầu nhiệm nhập thể và ơn cứu độ của Đức Giê-su còn có ý nghĩa gì. Lịch sử nhân loại vẫn còn bị dầy vò và đầy dẫy những hiện tượng khiến con người bị giằng co bởi hai mặt thiện và ác.

Tất cả những gì mà chúng ta biết được, ngay cả niềm tin của mình không khiến cho chúng ta sống biệt lập, sống tách biệt với thế giới này. Trái lại, đó là những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban để chúng ta ra đi, bước vào thế giới. Chúng ta lĩnh nhận và biết rằng phải làm giầu có gia tài hồng ân của Chúa. Đó là bổn phận và trách nhiệm của những kẻ tin đối với xã hội mà chúng ta là thành viên.

Vì thế, mang trong mình sức sống của Đức Kitô, chúng ta hãy lắng tai để nghe tiếng nói của Chúa nơi những người chung quanh, mở mắt ra để nhìn các việc lạ lùng của Chúa trong cuộc sống của họ. Cho dù họ không thuộc về nhóm mình, nhưng điều quan trọng là chúng ta nhận ra Chúa đang hiện diện trong lối sống của họ. Trên hết mọi sự, chúng ta không được phép thất vọng. Nhân loại vẫn đang chờ đợi lối sống quảng đại, cái nhìn bao dung, cuộc sống đầy gương sáng, con tim chan chứa tình yêu thương và lòng thương xót của chúng ta. Hãy dùng cuộc sống của mình như lời rao giảng minh chứng sự hiện diện của Thiên Chúa. Hãy giúp nhau sống tốt và đừng cản trở sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động nơi người khác. Hãy mở lòng mở trí ra để đón nhận và nhìn ra quyền năng của Chúa đang hoạt động trong và cho mọi người. Bởi vì những hành vi tốt lành và các gương sáng không chỉ xuất hiện trong cộng đoàn của những kẻ tin mà còn được thể hiện trong cuộc sống của nhiều người khác nữa. Amen!

Wednesday, 15 September 2021

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI: PHỤC VỤ

 

Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Tương quan là một trong những điều cần thiết trong cuộc sống của con người. Nhà thần (bí) học chuyên về tu đức và đời sống thiêng liêng rất nổi tiếng bên Mỹ, tên là Thomas Merton đã nói một câu thật chí lý như sau: “Không ai là một hòn đảo.” Có nghĩa là chúng ta chỉ thật sự sống như một con người khi biết sống nối kết với người khác. Người khác đó không ai khác hơn là người sống chung quanh ta, những người ta gặp hàng ngày, thậm chí có thể là những người không cùng ‘phe’ mình. Nói chung, người khác mà chúng ta đề cập ở đây là tất cả mọi người trong cộng đòan.

Còn gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được sống trong một cộng đòan, nhỏ bé như gia đình hoặc rộng lớn như Giáo hội, mà trong đó mọi thành viên đều biết sống cho nhau. Và điều đó không tự nhiên hoàn thành. Tất cả mọi thành viên trong cộng đòan đều có trách nhiệm và bổn phận xây dựng và hoàn thành mục tiêu sống và nghĩ đến nhu cầu của nhau. Trái lại, nếu các thành viên trong cộng đoàn chỉ nghĩ và sống cho quyền lợi riêng, thì không cần đi tìm ‘hỏa ngục’ đâu xa nữa; nó hiện diện ngay trong môi trường và lối sống ích kỷ mà chúng ta đang dành cho nhau đó. Và chúng ta cũng chẳng ngạc nhiên khi nhìn thấy những va chạm, bất hòa hay đổ vỡ tại các cộng đòan có lối sống như thế. Một thực tế đáng buồn là chúng ta quá dễ dàng hòa hợp với lối sống đó. Và như cơn bịnh ung thư, nó cứ thế lan rộng và ăn dần vào từng bộ phận và giết dần giết mòn các chức năng khác của thân thể.

Những nguyên nhân gây ra tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn thì nhiều. Thật đáng buồn nhiều lúc mầm mống của sự chia rẽ lại xẩy ra trong giới lãnh đạo. Điều này cũng đã xẩy ra trong hàng ngũ của các Tông đồ. Trong thân phận con người, các ngài cũng bị cám dỗ về quyền lực, và điều này đã được thể hiện qua lời cầu xin với Chúa của Gio-an và Gia-cô-bê: “Xin cho hai anh em chúng con, một người đuợc ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả của thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mk 10:37) Có nghĩa là nếu Chúa là chủ tể (Tổng Thống) thì một ông là Thủ Tướng và ông kia là Tổng trưởng quốc phòng. Còn vị trí nào cao hơn điều mà các ông xin. Các tông đồ kia cũng có tham vọng như thế, nhưng không ‘nhanh miệng’ bằng hai anh em ông Gio-an, vì thế đâm ra tức tối (Mk: 10:41). Nói tóm lại, dựa vào các chứng cứ và các hiện tượng đã xẩy ra trong quá khứ, chúng ta nhận ra rằng quyền bính hay quyền lực thường là những nguyên nhân khiến cộng đòan - dù nhỏ bé như gia đình, hay rộng như Giáo hội - bị chia rẽ và phân tán.

Anh chị em đều có kinh nghiệm này: Gia đình ít khi bị đổ vỡ vì con cái, chúng có thể là nguyên nhân gây ra sự bất đồng trong việc giáo dục. Nhưng nguyên nhân chính yếu thường xẩy ra bởi cha mẹ. Thay vì dùng khả năng, ân phúc để xây dựng và phục vụ lẫn nhau, nương tựa và cùng giúp nhau chu toàn nghĩa vụ được trao ban; trái lại chúng ta lạm dụng uy quyền để áp bức và thống trị nhau. Thậm chí có những tình huống bạo lực xẩy ra trong gia đình. Chỉ vì không ai chịu thua ai. Ai cũng dành phần thắng, phần nhất về cho mình. Trong khi dùng quyền bính để sai bảo người khác, chúng ta đã quên đi một điều là ai nói lại không đuợc, ai cũng bảo vệ lập trường và lý luận của mình. Lắng nghe nhau mới là điều khó mà chúng ta cần học.

Nói tới đây, tôi nhớ lại những lời khuyên của các bậc trưởng thượng, trải qua bao thử thách trong cuộc sống chung. Các ngài đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm trong việc xây dựng gia đình của họ như sau. Họ nói rằng, thua là nghệ thuật sống chung trong gia đình. Khi bạn thua là lúc bạn thắng. Thắng chính mình để sống cho nguời khác hầu đem lại bầu khí an vui và hạnh phúc cho gia đình.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể nào loại bỏ các khuynh hướng xấu đang lan tràn và ảnh hưởng cuộc sống của chúng ta, đó là lối sống thống trị, ăn trên ngồi trốc. Trước hoàn cảnh đó, đặc biệt để giải quyết các tranh cãi của các Tông đồ hôm nay, Đức Giê-su đã đưa ra một giải pháp luôn luôn mới lạ và vô cùng hiệu quả nếu chúng ta biết áp dụng, và đây cũng là một thách đố cho Giáo Hội trong mọi thời đại.

Trong quá khứ quyền bính của các vị lãnh đạo Giáo Hội được công nhận về mặt thế quyền nữa. Thần quyền và thế quyền hòa trộn với nhau. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội quá nhiều quyền bính và được tôn vinh quá mức. Vinh quang mà họ thụ hưởng phản ảnh quyền lực của thế gian hơn là cách thức mà Chúa Giê-su dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người.” Không chỉ có thế, sau đó Người đem một em nhỏ đến và đặt cháu đứng giữa các môn đệ, rồi ôm lấy cháu rồi nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy.”

Như anh chị em đã biết, vào thời Đức Giê-su, thân phận của người phụ nữ và trẻ con không được tôn trọng và quí mến. Đối với họ thì hai hạng người này bị coi là không đáng kể, là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Theo luật thì các cháu phải chờ đến lúc lên mười hai tuổi mới đuợc tham dự các nghi thức phụng vụ tại Đền Thờ.

Đối với Đức Giê-su thì khác, khi đem em nhỏ đến và đặt giữa các ông là lúc Người muốn căn dặn các ông và chúng ta rằng: em nhỏ này là hình ảnh tượng trưng cho những người thấp cổ bé miệng, nghèo hèn, bị coi thường và không có tiếng nói về mặt đạo cũng như mặt đời. Như vậy, qua cử chỉ đón tiếp thật ân cần mà Đức Giê-su dành cho em bé hôm nay, Người muốn dậy các ông bài học quan tâm và đón tiếp nhau.

Không ai trong chúng ta là người giầu có hết. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là người nghèo. Chúng ta chẳng có gì trao cho nhau cả. Tất cả đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng trao vào tay chúng ta những món quà cho người khác. Vì thế, khi chúng ta đón tiếp người nghèo, người tất bạt, người đói khát, trần truồng, bịnh hoạn, những người không có địa vị như trẻ em thì đó không phải là một hành vi bố thí, thương xót về thân phận của họ bị coi thường, cho bằng nhận ra sự hiện diện của Đức Chúa nơi những người đó. Chúa hiện diện trong con người và cuộc sống của họ, cho nên khi chúng ta đón tiếp, yêu thương và giúp đỡ những người như thế là giúp đỡ và yêu thương chính Chúa.

Lời khuyên của Chúa được kèm với việc làm của Người. Cử chỉ của Đức Giêsu khi ôm em nhỏ vào lòng là lúc Người biểu lộ lòng quí mến, yêu thương và tiếp nhận. Tiếp nhận một em nhỏ như thế chắc chắn không phải để em nhỏ phục dịch mình, nhưng là cơ hội mà Người muốn dậy cho các môn đệ bài học phục vụ. Hãy nhớ lại Lời Người đã nói “ai phục vụ ta thì hãy theo Ta”. Chúng ta đã là môn đệ của Người, vì thế chúng ta không còn chọn lựa nào khác hơn là chọn lối sống phục vụ. Đó chính là lẽ sống và niềm vui cho cuộc sống dấn thân.

Như vậy, điều Chúa khuyên: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải là người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” quá rõ ràng. Có nghĩa là ai muốn làm lớn, theo tinh thần của Đức Ki-tô, phải là người phục vụ trước. Phục vụ là chìa khóa, là nguyên tắc của quyền lãnh đạo. Uy quyền có được trao ban cũng là do Thiên Chúa. Địa vị, quyền cao chức trọng cốt để phục vụ mọi người, chứ không phải để thống trị, như Chúa phán: "Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ." Chính Chúa mới là ông chủ, còn tất cả chúng ta chỉ là những người thừa hành. Nói cách khác, cuộc sống của những kẻ có niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh là cuộc sống phục vụ, sẵn sàng hiến mạng mình vì ích lợi của người khác. Amen!

Wednesday, 8 September 2021

THẦY LÀ AI?

 

Trong bài Tin Mừng, Chúa hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” cũng là câu hỏi mà Chúa đặt ra cho tôi hôm nay. Tôi xin thú nhận rằng tôi vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Chúa là ai trong cuộc sống? Lắm lúc tôi thấy Chúa thật gần gũi, thật dễ thương và dường như mình đã đầu phục Chúa làm chủ đời tôi rồi. Nhưng, lúc khác tôi lại cảm thấy dường như Người rất xa vắng, chẳng thấy Người đâu cả. Người hiện diện mà tôi chưa được thấy nên Người vẫn xa vắng. Tuy nhiên chỉ có một điều là tôi không dám bỏ cuộc, vẫn kiên trì tìm kiếm với niềm hy vọng một ngày nào đó tôi sẽ biết Người như Người biết tôi. Và sau khi đã trải qua gần hai phần ba hành trình của đời người, với mọi nỗ lực và cố gắng, đối diện và nhiều lần ngã gục trước các thử thách… tôi nhận ra rằng mình chưa làm được gì để chứng minh Chúa là chủ tôi… Vẫn như ngày đầu tiên… Tâm nguyện vẫn còn… Nhưng sức lực yếu dần, đèn trong nguời cũng sắp cạn hết dầu … Tôi vẫn loay hoay đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ‘Thầy là ai?’

Ở đây cũng vậy! Số là sau phần tuyên tín của Phê-rô là lúc Đức Giêsu bộc lộ con đuờng mà Con Thiên Chúa phải đi thì ông lại ngăn cản Người. Lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Không chỉ có thế, trên đường thương khó Phêrô đã chối Thầy đến ba lần…

Tuy nhiên, Phêrô cũng là người đã bộc lộ tình yêu và lòng mến dành cho Thầy… Thánh nhân cũng có nhiều tài năng để trở thành một môn đồ tốt. Ngài thẳng thắn, tự tin, chăm chỉ, không che đậy, không tính tóan hơn thiệt giống như các bạn của ông tìm cách để tìm kiếm địa vị cao hơn…  và nhất là lúc nào cũng muốn và trở thành một người bạn thiết nghĩa với Thầy mình. Chính vì thế mà Chúa tín nhiệm ông. Nói khác đi, vì nhận ra mình là người còn đầy khiếm khuyết và tội lỗi nên Phê-rô quyết tâm lệ thuộc vào Chúa. Đối với Phê-rô, Chúa làm chủ đời ông.

Thưa anh chị em, còn anh chị em nói Thầy là ai?

Chúng ta có thể tìm thấy muôn vàn câu trả lời dựa trên sách vở và kiến thức về Đức Giêsu; nhưng tất cả những câu trả lời đó sẽ đem lại gì cho chúng ta! Hãy tìm câu trả lời bằng chính lối sống mình.

Có thật chúng ta tin nhận Người là Đức Ki-tô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và mở lối chỉ đuờng cho chúng ta về với Cha hay không? Và, nếu chúng ta đã hãnh diện tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa thì trong cuộc sống chúng ta đã đầu phục vị Chúa đó hay là vẫn dùng Người như là khí cụ để phục vụ tham vọng của mình?  Niềm tin và cuộc sống của những ai tin vào Chúa phải đồng nhất nên một. Không thể nào miệng tuyên xưng một đường, rồi chọn lối sống theo ngã khác. Chúng ta cứ làm như đời và đạo vẫn là hai mặt tách biệt của cuộc sống, không gắn bó và ăn nhập gì với nhau.

Vậy, Đức Giêsu là ai?

Tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này không phải là việc dễ dàng. Có thể, trong suốt cuộc sống chúng ta cũng chỉ thấy mờ mờ mà thôi. Câu chuyện sau, xẩy ra mọi nơi, có thể giúp chúng ta phần nào. Truyện kể như sau:

Trong một lớp giáo lý, dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, ma-sơ hỏi các em: Còn các con nói Đức Giêsu là ai? Cả lớp nhao nhao, có cháu nói Nguời là Thiên Chúa, cháu khác lại nói là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa… v.v. Gom chung lại thì các cháu nói đúng như văn bản trong Kinh Tin Kính mà chúng ta tuyên xưng với nhau trong các Thánh Lễ Chúa Nhật.

Trong khi đó, ma-sơ để ý thấy một bé trai ngồi ở góc lớp, im lặng, mắt nhìn ra cửa sổ, đăm đăm như có chuyện gì khó giải quyết. Sơ đến gần, chăm chú nhìn cháu rồi một lần nữa rồi nhắc lại câu hỏi. Cháu thẫn thờ trả lời: Thưa sơ, con không biết! Con chỉ biết là hiện nay em con đang bị ốm, trong nhà không có tiền mua thuốc. Ba con là một quân nhân, hiện đóng quân ở một vùng rất xa. Mẹ đang chạy ngược chạy xuôi ngoài chợ… Nếu Đức Giêsu là Chúa thì sao Người không săn sóc cho em con! Mọi người đều ngạc nhiên trước câu trả lời của bạn mình. Chẳng ai biết làm gì! Sau cùng, bà sơ lấy ra một túi nhỏ, tự mình bỏ vào đó vài đồng cắc và chuyền túi đó cho cả lớp, rồi trao cho em.

Qua hành động và chứng từ như thế, chúng ta sẽ làm chứng Đức Giêsu là ai, không chỉ bằng lời nói, cho dù đó là bản kinh Tin Kính, lời tuyên xưng của Hội Thánh; nhưng đó chính là những trải nghiệm của cuộc sống. Người đến để mời gọi chúng ta hy sinh, quan tâm, yêu thuơng và thỏa mãn các nhu cầu của nhau.

Nói đến hy sinh là phải nhớ đến từ bỏ. Đây không phải là việc làm dễ dàng. Từ bỏ một nết xấu, thói quen đã khó. Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su mời gọi chúng ta từ bỏ mình, vác Thánh giá rồi đi theo Người, có nghĩa là khi chọn đi trên con đường của Chúa là lúc chúng ta bị thế gian loại bỏ.

Ai trong chúng ta có thể làm đuợc điều đó! Chúa mới là cội nguồn của sự việc. Chúa làm trong chúng ta. Chúa không làm thay vì Người đã ban và muốn dùng chúng ta như những khí cụ để thể hiện uy quyền của Người. Đúng thế, người tín hữu, dù được gọi sống trong bậc nào, âm thầm nhỏ bé như hạt cải văng vãi ở một góc nào trong xứ đạo hay đứng đầu một địa phận hoặc ở một vị thế cao hơn thế nữa, v.v… Cuộc sống của người môn đệ phải là mục tiêu cho những người chung quanh đặt vấn đề và họ phải tìm kiếm câu trả lời. Có nghĩa là, cuộc sống của chúng ta, bao gồm từ lời nói đến việc làm, sẽ là một câu hỏi cho những người chung quanh. Họ phải tìm hiểu xem chân tướng của chúng ta là ai? Thế gian sẽ không biết Chúa, nhưng qua cuộc sống của chúng ta thế gian sẽ có câu trả lời Chúa là ai?

Chúa là Đấng cứu chuộc. Người đã ban ơn cứu độ cho chúng ta. Người đã hoàn tất ý định và chương trình của Cha, phần còn lại là của chúng ta. Hãy đón nhận Chúa và ơn cứu độ của Người vào trong cuộc sống để ơn cứu độ trở thành hiện thực. Và đây là chứng từ. Hy vọng bạn và tôi sẽ là những nhân vật trong câu chuyện sau:

 Truyện kể về một người thanh niên có cuộc sống phóng đãng, đã phung phí tài sản của gia đình vào rượu chè, ma túy, phụ nữ, cờ bạc và lãng phí cuộc đời của mình. Các nhân viên cảnh sát trong vùng đều biết mặt anh ta. Mọi người trong xóm đều nghe và biết về những hành vi đồi trụy của anh. Thậm chí, cha anh cũng không muốn nhìn nhận anh. Chán nản vì bị xua đuổi nên anh chọn cuộc sống ly hương và hứa sẽ không bao giờ quay trở lại chốn cũ.

Ngày này qua tháng nọ. Thời gian cứ trôi và không ngừng để chờ đợi anh. Mọi người trong xóm ngõ, ngay cả cha anh cũng quên sự hiện diện của anh trên cõi đời này. Duy nhất chỉ còn một người không bao giờ quên anh, đó là mẹ anh. Tính từ ngày anh ra đi đến nay đã tròn hai năm, mẹ anh sống trong buồn chán và nhớ thương cho nên đã ảnh hưởng đến sức khỏe của bà. Bà vốn là một phụ nữ yếu đuối, lại thêm buồn chán cho nên càng ngày càng tiều tụy cho đến một ngày kia khi thấy sức khỏe yếu dần bà mới ngỏ ý với chồng là muốn gặp cậu con đang trôi dạt ngoài chợ đời lần sau cùng trước khi bà chết. Chồng bà miễn cưỡng nhận lời. Tuy không biết anh đang ở nơi nào, nhưng họ cố gắng nhờ các phương tiện truyền thông đại chúng kêu gào và nói lên ý nguyện của người mẹ. Bằng cách này và cách khác, người cha cuối cùng cũng nhắn được mẫu tin báo cho anh biết về tình trạng và ước mơ của mẹ anh.

Nhận được tin, cậu vội vàng về nhà và ngay lập tức chạy vội vào phòng ngủ của mẹ và bàng hoàng khi thấy hình ảnh và dáng vóc tiều tụy của mẹ. Anh không cầm được nước mắt, nhào vào ôm choàng lấy mẹ, nức nở nghẹn ngào, vừa khóc vừa nói: “Thưa mẹ, con thật đáng chết, vì con mà mẹ phải đau khổ đến dường này, chẳng còn dáng người nữa, thà mẹ đừng sinh ra con thì hơn.” Chờ cho anh nói xong, bà mới nhấc đầu anh dậy, ôn tồn và nói: “Mẹ không hề giận hờn con, mẹ cũng có lỗi vì để con sống đầu đường xó chợ. Mẹ chưa bao giờ trách con. Mẹ luôn tha thứ cho con. Mẹ yêu thương con vô ngần và mẹ biết rằng Chúa còn yêu thương, săn sóc và giữ gìn con giúp mẹ nữa.” Nghe đến đó, mắt anh bừng sáng lên nhìn mẹ không chớp mắt. Nhìn vào cặp mắt sáng long lanh đang chăm chú nhìn bà, người mẹ nhớ câu Chúa nói “Ta là sự sáng thế gian!” Sự sáng của Chúa chiếu soi từ đôi mắt anh và bà nhận ra có một sự thay đổi trong con người anh. Bà tin rằng, những gì bà cầu xin hay khấn nguyện cho anh, nay đã được Chúa nhận lời.

Ngay lúc đó, ba của anh bước vào phòng. Bà nhìn ông và nói: “Xin ông hay đón nhận và giúp con thay đổi. Em không còn sống được bao lâu nữa. Hãy giúp em làm cho con sống tốt hơn.” Ông bất đắc dĩ nhận lời vợ để bà yên tâm ra đi, nhưng trong thâm tâm ông biết rằng cậu con trời đánh của ông sẽ chẳng bao giờ giữ lời hứa, vì cậu đã hứa bao nhiêu lần trước đây mà nó có thay đổi đâu. Nhìn thấy thái độ của ông, bà đoán biết ý nghĩ của ông, nên âm thầm nói tiếp: “Trước đây con của chúng ta đã từng hứa, và nó đã từng thất hứa. Nhưng hôm nay, con đã gặp Chúa cho nên con chúng ta sẽ thay đổi. Anh hãy giúp em nhé.”

Nói xong bà cầm tay cậu con trai đặt vào lòng bàn tay của chồng bà và nhắm mắt lìa đời. Hai người đàn ông nắm chặt tay nhau và được gắn bó bởi tình yêu của họ dành cho người phụ nữ, người vợ và người mẹ này, và trong cái chết của bà, họ đã được Thiên Chúa hòa giải từ ngày đó.

Đó là truyện kể minh họa về sự tác động của Chúa nơi những kẻ tin.

Thật ra, Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta đã giao hòa thế gian với Người và mọi người với nhau. Thánh sử Gio-an đã loan báo rằng không ai có thể gặp gỡ Con của Ngài nếu Thiên Chúa không lôi kéo họ. Thật vậy, chúng ta được qui tụ lại với nhau trong Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Độ trần gian để trở thành anh chị em, cùng một chi thể với Đức Ki-tô là đầu của chúng ta.

Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, là đầu của thân thể, là Đức Ki-tô là lúc chúng ta đầu phục vị Chúa Tể, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ, được giao hòa với Chúa và trở thành anh chị em với nhau. Cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết dùng cả cuộc sống để đáp trả lời chất vấn của Đức Giê-su: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Amen!

Wednesday, 1 September 2021

‘ÉP-PHA-THA’ HÃY MỞ RA!


Khoa học ngày nay đã sáng chế ra một loại ngôn ngữ bằng dấu chỉ (sign language) để giúp những người bị tật nguyền như câm và điếc có thể giao tiếp với người khác. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay vẫn còn những dạng ‘câm và điếc tân thời’ khác như tiếng nói của những người bị áp bức, nghèo khổ không được đón nhận. Họ có miệng nhưng cũng như không, vì tiếng nói của họ có ai nghe thấu chăng! Và những người có uy quyền và thế lực lại chọn bị điếc để khỏi bị áy náy.

Những người sống cùng thời với Đức Giê-su thì không được như vậy. Vì điếc nên họ không thể nghe và mức độ cảm thông với người khác cũng bị suy giảm. Vì bị câm nên họ không thể nói, vì thế việc làm cho người khác hiểu đuợc tâm tư và nguyện vọng của họ cũng gặp nhiều khó khăn. Tình trạng này kéo dài từ ngày nay sang ngày khác, nên sinh ra khó khăn trong việc giao tiếp. Cuối cùng, cả hai phía đều không vượt qua được các khó khăn này, và cuộc sống của những người bị câm và điếc càng ngày càng bị cô lập và xa cách với cộng đoàn.

Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Mác-cô kể lại việc Đức Giê-su đã chữa cho một người vừa bị câm lại bị điếc được khỏi bịnh. Đức Giêsu không chỉ phục hồi tình trạng tật nguyền cho ông mà còn ra tay phá bỏ bức tường ngăn cách giữa ông và cộng đoàn. Từ đó, ông ta nghe được, nói được và cảm thông được với người khác, và ngược lại, người khác cũng dễ dàng nghe, hiểu và thông cảm với ông ta hơn.

Kính thưa anh chị em,

Như vậy, việc chữa lành hôm nay không chỉ dừng lại việc chữa bịnh về mặt thể lý, nhưng còn nói lên việc Thiên Chúa tín trung, giữ lời hứa và tái tạo thế giới mới, một thế giới mà trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ một nỗi lầm than nào; sẽ không còn tật nguyền nhưng đầy sự sống; sẽ không còn đói khát, âu lo và chiến tranh nhưng là hòa bình. Thế giới sẽ tràn đầy niềm vui và hoan lạc. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa đã khai mạc trong Đức Giê-su. Trong ngày đó, những ai tưởng như mình đã chết, đã đui mù, đã câm điếc, què quặt và những tật nguyền giống như thế… sẽ được chữa lành. Tất cả sẽ vùng lên, hân hoan, vui mừng reo hò vì Đấng cứu độ đã đến và giải thoát họ khỏi tất cả những tật nguyền và hoạn nạn nói trên.

Khi Tin Mừng Mác-cô ghi lại cho chúng ta những điều kỳ diệu của Đức Giê-su như việc làm cho người câm nói đuợc, người mù trông thấy và người điếc nghe được thì có nghĩa là lúc mà những gì đã được loan báo về Nước Thiên Chúa bởi các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ I-sa-ia nay đã được thực hiện. Đức Giê-su, một con người bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước mặt ta. Người không chỉ đứng đó mà nhìn ngắm rồi phán dậy. Người hiện diện một cách thật tích cực. Người hiện diện bằng hành động. Những tật nguyền đã làm cho con người sống trong đau khổ nay được tháo bỏ. Những hàng rào quan niệm khiến cho con người bị cô lập và mất đi mối hiệp thông như nói không ra tiếng, nghe không thấy âm sắc… tất cả đuợc cởi bỏ.

Hôm nay, Đức Giê-su đến để khai mạc thời đại mới. Tuy, bổn phận của chúng ta là Tin vào những gì mà Đức Giêsu đã làm. Nhưng, vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những quyền phép lạ lùng nhưng phải tin rằng những gì mà Đức Giê-su đã thực hành vẫn được thể hiện qua cuộc sống của chúng mình.

Đó là hồng ân. Chúng ta không chỉ là những người thừa hưởng gia nghiệp mà còn có bổn phận làm cho gia nghiệp mà chúng ta đã lĩnh nhận càng ngày càng phát triển rộng lớn hơn. Có nghĩa là, chúng ta cũng đuợc mời gọi, trong cuộc sống, trở thành những người biết san sẻ hồng ân và niềm vui khi được cứu độ cho người khác nữa.

Đó là ân phúc thật trọng đại, vì biết rằng mình đã thuộc về Thiên Chúa. Nhưng làm thế nào, chúng ta làm cho người khác biết được mối tương quan ‘thuộc về’ Chúa của chúng ta cho người khác nhận biết. Có nghĩa là chúng ta cần có chứng từ khiến người khác nhận ra mối tương giao thật mật thiết giữa Chúa và ta. Đây không chỉ là một sự thuộc về dựa trên niềm tin, còn hơn thế nữa, nó cần có các chứng từ kèm theo. Và các chứng từ cần được minh chứng bằng chính cuộc sống mình.

Nói khác đi, những ai đã thuộc về Thiên Chúa thì đều cảm nhận được niềm vui của Thiên Chúa, Đấng giải thoát, nâng đỡ và tháo gỡ những gông cuồng, đau khổ đang đầy đọa cuộc sống ta. Cho nên, trong niềm vui mừng và hân hoan đó, chúng ta không được phép khư khư giữ cho riêng mình mà còn phải biết nghĩ đến người khác, quan tâm cho những ai đang sống với các nỗi khổ đau, đang chịu thiệt thòi mà họ phải gánh chịu; rồi như Đức Giê-su, chúng ta sẵn sàng sống và chia sẻ cho họ nguồn ơn cứu độ mà chính bản thân mình đã đươc lĩnh nhận.

Chúa đã làm xong phần của Người, còn chúng ta, phải làm gì để xứng đáng với vinh dự là môn đệ của Đức Giê-su, Đấng đã mở tai cho người điếc, mở luỡi cho người câm, giải oan cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa cho muôn dân? Vấn nạn này chất vấn và theo chúng ta cả đời và với tư cách của tín hữu, chúng ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước các đau khổ của những con người mà Chúa đã đến để làm bạn với họ.

Tóm lại, Đức Giêsu đã đến để đưa quyền năng của Thiên Chúa vào thế giới này hầu tái tạo trời mới đất mới và trao ban sự sống mới cho muôn dân thế nào thì chúng ta cũng cần thể hiện như thế. Có nghĩa là cuộc sống của chúng ta cần được mở rộng và mở lớn hơn.

‘Mở’ ra cho bản thân và người khác nhìn thấy Chúa nơi phần sâu thẳm nhất của đời mình.

‘Mở’ cho ánh sáng lời Chúa chiếu thấu tâm can của mình, vì đó là nơi kín ẩn mà Thiên Chúa muốn ngự trị.

‘Mở’ tung những ‘mặt nạ’ khiến dung mạo của Chúa bị bóp méo trong cuộc sống.

 ‘Mở’ để nhìn, để nghe, để cảm thông, để buớc đến, để an ủi, để vỗ về và để san sẻ tình thương cho bao nhiêu người đang chờ đợi bàn tay và con tim của chúng ta….

Cuối cùng là ‘Ép-pha-tha – hãy mở ra’ để Chúa làm chủ mọi sự trong và ngoài của chúng ta. Amen.