Trong bài Tin Mừng,
Chúa hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” cũng là câu hỏi mà
Chúa đặt ra cho tôi hôm nay. Tôi xin thú nhận rằng tôi vẫn chưa có câu trả lời
thỏa đáng. Chúa là ai trong cuộc sống? Lắm lúc tôi thấy Chúa thật gần gũi, thật
dễ thương và dường như mình đã đầu phục Chúa làm chủ đời tôi rồi. Nhưng, lúc khác
tôi lại cảm thấy dường như Người rất xa vắng, chẳng thấy Người đâu cả. Người hiện
diện mà tôi chưa được thấy nên Người vẫn xa vắng. Tuy nhiên chỉ có một điều là
tôi không dám bỏ cuộc, vẫn kiên trì tìm kiếm với niềm hy vọng một ngày nào đó
tôi sẽ biết Người như Người biết tôi. Và sau khi đã trải qua gần hai phần ba hành
trình của đời người, với mọi nỗ lực và cố gắng, đối diện và nhiều lần ngã gục
trước các thử thách… tôi nhận ra rằng mình chưa làm được gì để chứng minh Chúa
là chủ tôi… Vẫn như ngày đầu tiên… Tâm nguyện vẫn còn… Nhưng sức lực yếu dần, đèn
trong nguời cũng sắp cạn hết dầu … Tôi vẫn loay hoay đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi ‘Thầy là ai?’
Ở đây cũng vậy!
Số là sau phần tuyên tín của Phê-rô là lúc Đức Giêsu bộc lộ con đuờng mà Con
Thiên Chúa phải đi thì ông lại ngăn cản Người. Lòng của Phêrô thật tốt, ông lo
lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ
của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách
"Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng
của Thiên Chúa, mà là của loài người." Không chỉ có thế, trên đường thương
khó Phêrô đã chối Thầy đến ba lần…
Tuy nhiên, Phêrô
cũng là người đã bộc lộ tình yêu và lòng mến dành cho Thầy… Thánh nhân cũng có
nhiều tài năng để trở thành một môn đồ tốt. Ngài thẳng thắn, tự tin, chăm chỉ,
không che đậy, không tính tóan hơn thiệt giống như các bạn của ông tìm cách để
tìm kiếm địa vị cao hơn… và nhất là lúc
nào cũng muốn và trở thành một người bạn thiết nghĩa với Thầy mình. Chính vì thế
mà Chúa tín nhiệm ông. Nói khác đi, vì nhận ra mình là người còn đầy khiếm khuyết
và tội lỗi nên Phê-rô quyết tâm lệ thuộc vào Chúa. Đối với Phê-rô, Chúa làm chủ
đời ông.
Thưa anh chị em,
còn anh chị em nói Thầy là ai?
Chúng ta có thể
tìm thấy muôn vàn câu trả lời dựa trên sách vở và kiến thức về Đức Giêsu; nhưng
tất cả những câu trả lời đó sẽ đem lại gì cho chúng ta! Hãy tìm câu trả lời bằng
chính lối sống mình.
Có thật chúng ta
tin nhận Người là Đức Ki-tô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đấng được
Thiên Chúa sai đến để cứu độ và mở lối chỉ đuờng cho chúng ta về với Cha hay
không? Và, nếu chúng ta đã hãnh diện tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa thì trong cuộc
sống chúng ta đã đầu phục vị Chúa đó hay là vẫn dùng Người như là khí cụ để phục
vụ tham vọng của mình? Niềm tin và cuộc
sống của những ai tin vào Chúa phải đồng nhất nên một. Không thể nào miệng
tuyên xưng một đường, rồi chọn lối sống theo ngã khác. Chúng ta cứ làm như đời
và đạo vẫn là hai mặt tách biệt của cuộc sống, không gắn bó và ăn nhập gì với
nhau.
Vậy, Đức Giêsu
là ai?
Tìm ra câu trả lời
cho câu hỏi này không phải là việc dễ dàng. Có thể, trong suốt cuộc sống chúng
ta cũng chỉ thấy mờ mờ mà thôi. Câu chuyện sau, xẩy ra mọi nơi, có thể giúp
chúng ta phần nào. Truyện kể như sau:
Trong một lớp
giáo lý, dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, ma-sơ hỏi các em: Còn các con nói Đức
Giêsu là ai? Cả lớp nhao nhao, có cháu nói Nguời là Thiên Chúa, cháu khác lại
nói là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa… v.v. Gom chung lại thì
các cháu nói đúng như văn bản trong Kinh Tin Kính mà chúng ta tuyên xưng với
nhau trong các Thánh Lễ Chúa Nhật.
Trong khi đó, ma-sơ
để ý thấy một bé trai ngồi ở góc lớp, im lặng, mắt nhìn ra cửa sổ, đăm đăm như
có chuyện gì khó giải quyết. Sơ đến gần, chăm chú nhìn cháu rồi một lần nữa rồi
nhắc lại câu hỏi. Cháu thẫn thờ trả lời: Thưa sơ, con không biết! Con chỉ biết
là hiện nay em con đang bị ốm, trong nhà không có tiền mua thuốc. Ba con là một
quân nhân, hiện đóng quân ở một vùng rất xa. Mẹ đang chạy ngược chạy xuôi ngoài
chợ… Nếu Đức Giêsu là Chúa thì sao Người không săn sóc cho em con! Mọi người đều
ngạc nhiên trước câu trả lời của bạn mình. Chẳng ai biết làm gì! Sau cùng, bà
sơ lấy ra một túi nhỏ, tự mình bỏ vào đó vài đồng cắc và chuyền túi đó cho cả lớp,
rồi trao cho em.
Qua hành động và
chứng từ như thế, chúng ta sẽ làm chứng Đức Giêsu là ai, không chỉ bằng lời nói,
cho dù đó là bản kinh Tin Kính, lời tuyên xưng của Hội Thánh; nhưng đó chính là
những trải nghiệm của cuộc sống. Người đến để mời gọi chúng ta hy sinh, quan
tâm, yêu thuơng và thỏa mãn các nhu cầu của nhau.
Nói đến hy sinh
là phải nhớ đến từ bỏ. Đây không phải là việc làm dễ dàng. Từ bỏ một nết xấu,
thói quen đã khó. Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su mời gọi chúng
ta từ bỏ mình, vác Thánh giá rồi đi theo Người, có nghĩa là khi chọn đi trên
con đường của Chúa là lúc chúng ta bị thế gian loại bỏ.
Ai trong chúng
ta có thể làm đuợc điều đó! Chúa mới là cội nguồn của sự việc. Chúa làm trong
chúng ta. Chúa không làm thay vì Người đã ban và muốn dùng chúng ta như những khí
cụ để thể hiện uy quyền của Người. Đúng thế, người tín hữu, dù được gọi sống
trong bậc nào, âm thầm nhỏ bé như hạt cải văng vãi ở một góc nào trong xứ đạo
hay đứng đầu một địa phận hoặc ở một vị thế cao hơn thế nữa, v.v… Cuộc sống của
người môn đệ phải là mục tiêu cho những người chung quanh đặt vấn đề và họ phải
tìm kiếm câu trả lời. Có nghĩa là, cuộc sống của chúng ta, bao gồm từ lời nói đến
việc làm, sẽ là một câu hỏi cho những người chung quanh. Họ phải tìm hiểu xem
chân tướng của chúng ta là ai? Thế gian sẽ không biết Chúa, nhưng qua cuộc sống
của chúng ta thế gian sẽ có câu trả lời Chúa là ai?
Chúa là Đấng cứu
chuộc. Người đã ban ơn cứu độ cho chúng ta. Người đã hoàn tất ý định và chương
trình của Cha, phần còn lại là của chúng ta. Hãy đón nhận Chúa và ơn cứu độ của
Người vào trong cuộc sống để ơn cứu độ trở thành hiện thực. Và đây là chứng từ.
Hy vọng bạn và tôi sẽ là những nhân vật trong câu chuyện sau:
Truyện kể về một người thanh niên có cuộc sống
phóng đãng, đã phung phí tài sản của gia đình vào rượu chè, ma túy, phụ nữ, cờ
bạc và lãng phí cuộc đời của mình. Các nhân viên cảnh sát trong vùng đều biết mặt
anh ta. Mọi người trong xóm đều nghe và biết về những hành vi đồi trụy của anh.
Thậm chí, cha anh cũng không muốn nhìn nhận anh. Chán nản vì bị xua đuổi nên
anh chọn cuộc sống ly hương và hứa sẽ không bao giờ quay trở lại chốn cũ.
Ngày này qua tháng
nọ. Thời gian cứ trôi và không ngừng để chờ đợi anh. Mọi người trong xóm ngõ,
ngay cả cha anh cũng quên sự hiện diện của anh trên cõi đời này. Duy nhất chỉ còn
một người không bao giờ quên anh, đó là mẹ anh. Tính từ ngày anh ra đi đến nay
đã tròn hai năm, mẹ anh sống trong buồn chán và nhớ thương cho nên đã ảnh hưởng
đến sức khỏe của bà. Bà vốn là một phụ nữ yếu đuối, lại thêm buồn chán cho nên
càng ngày càng tiều tụy cho đến một ngày kia khi thấy sức khỏe yếu dần bà mới
ngỏ ý với chồng là muốn gặp cậu con đang trôi dạt ngoài chợ đời lần sau cùng
trước khi bà chết. Chồng bà miễn cưỡng nhận lời. Tuy không biết anh đang ở nơi
nào, nhưng họ cố gắng nhờ các phương tiện truyền thông đại chúng kêu gào và nói
lên ý nguyện của người mẹ. Bằng cách này và cách khác, người cha cuối cùng cũng
nhắn được mẫu tin báo cho anh biết về tình trạng và ước mơ của mẹ anh.
Nhận được tin, cậu
vội vàng về nhà và ngay lập tức chạy vội vào phòng ngủ của mẹ và bàng hoàng khi
thấy hình ảnh và dáng vóc tiều tụy của mẹ. Anh không cầm được nước mắt, nhào
vào ôm choàng lấy mẹ, nức nở nghẹn ngào, vừa khóc vừa nói: “Thưa mẹ, con thật
đáng chết, vì con mà mẹ phải đau khổ đến dường này, chẳng còn dáng người nữa,
thà mẹ đừng sinh ra con thì hơn.” Chờ cho anh nói xong, bà mới nhấc đầu anh dậy,
ôn tồn và nói: “Mẹ không hề giận hờn con, mẹ cũng có lỗi vì để con sống đầu đường
xó chợ. Mẹ chưa bao giờ trách con. Mẹ luôn tha thứ cho con. Mẹ yêu thương con vô
ngần và mẹ biết rằng Chúa còn yêu thương, săn sóc và giữ gìn con giúp mẹ nữa.” Nghe
đến đó, mắt anh bừng sáng lên nhìn mẹ không chớp mắt. Nhìn vào cặp mắt sáng
long lanh đang chăm chú nhìn bà, người mẹ nhớ câu Chúa nói “Ta là sự sáng thế
gian!” Sự sáng của Chúa chiếu soi từ đôi mắt anh và bà nhận ra có một sự thay đổi
trong con người anh. Bà tin rằng, những gì bà cầu xin hay khấn nguyện cho anh,
nay đã được Chúa nhận lời.
Ngay lúc đó, ba
của anh bước vào phòng. Bà nhìn ông và nói: “Xin ông hay đón nhận và giúp con
thay đổi. Em không còn sống được bao lâu nữa. Hãy giúp em làm cho con sống tốt
hơn.” Ông bất đắc dĩ nhận lời vợ để bà yên tâm ra đi, nhưng trong thâm tâm ông
biết rằng cậu con trời đánh của ông sẽ chẳng bao giờ giữ lời hứa, vì cậu đã hứa
bao nhiêu lần trước đây mà nó có thay đổi đâu. Nhìn thấy thái độ của ông, bà
đoán biết ý nghĩ của ông, nên âm thầm nói tiếp: “Trước đây con của chúng ta đã
từng hứa, và nó đã từng thất hứa. Nhưng hôm nay, con đã gặp Chúa cho nên con chúng
ta sẽ thay đổi. Anh hãy giúp em nhé.”
Nói xong bà cầm
tay cậu con trai đặt vào lòng bàn tay của chồng bà và nhắm mắt lìa đời. Hai người
đàn ông nắm chặt tay nhau và được gắn bó bởi tình yêu của họ dành cho người phụ
nữ, người vợ và người mẹ này, và trong cái chết của bà, họ đã được Thiên Chúa hòa
giải từ ngày đó.
Đó là truyện kể
minh họa về sự tác động của Chúa nơi những kẻ tin.
Thật ra, Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta đã giao hòa thế gian với Người và mọi người với
nhau. Thánh sử Gio-an đã loan báo rằng không ai có thể gặp gỡ Con của Ngài nếu
Thiên Chúa không lôi kéo họ. Thật vậy, chúng ta được qui tụ lại với nhau trong
Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Độ trần gian để trở thành anh chị em, cùng một chi thể với
Đức Ki-tô là đầu của chúng ta.
Bởi thế, khi
tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, là đầu của thân thể, là Đức Ki-tô là lúc chúng
ta đầu phục vị Chúa Tể, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ, được giao hòa với
Chúa và trở thành anh chị em với nhau. Cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết dùng cả
cuộc sống để đáp trả lời chất vấn của Đức Giê-su: “Còn các con, các con bảo Thầy
là ai?” Amen!
No comments:
Post a Comment