Wednesday, 25 October 2023

YÊU LÀ LẼ SỐNG!


Ngày xưa, qua tổ phụ Mai-sen, Chúa đã ban cho dân Do Thái các giới răn của Người. Từ những giới răn này, người Do Thái thường bàn bạc để tìm hiểu xem điều luật nào lớn và quan trọng nhất. Hôm nay, họ đến chất vấn Đức Giêsu về hai khoản luật Mến Chúa và yêu người, khoản nào quan trọng và cao cả nhất. Đức Giê-su đã nối kết hai điều luật lại với nhau như là một. Người dạy họ và chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người là trọng tâm của cuộc sống và luôn gắn bó mật thiết với nhau.

Để minh họa điều này, chúng ta cùng nhau nghe một câu chuyện. Truyện kể như sau: Vào các thế kỷ đầu, ai muốn đi tu thì phải vào rừng vắng, sống hãm mình và chịu nhiều gian khổ để tôi luyện bản thân cho thành toàn. Truyện xẩy ra như thế này: vào một dịp tĩnh tâm hàng năm, cha Bề trên dẫn các thầy dòng của mình đi vào hoang địa để ăn chay, hãm mình, và mỗi người được chỉ định ở một lều riêng biệt cho dễ cầu nguyện. Đến giữa tuần, có một số thầy từ các tu viện khác đến thăm cha Bề trên. Để diễn tả tấm lòng hiếu khách, cha đã nấu cho các vị một chút gì ăn cho bớt đói; và, cũng vì lịch sự, Cha đã cùng dùng bữa với ho.

Trong khi đó, các thầy cùng dòng với cha bề trên, tuy có thể đang giữ chay, nhưng lòng lại không giữ. Vì thế, khi nhìn thấy khói bốc lên từ lều của cha Bề trên, các thầy có ý nghĩ là Bề trên của mình đã phá chay, nên ùn ùn kéo nhau đến để chất vấn! Thấy thái độ và sắc mặt của họ, cha Bề trên nhìn thấu tâm trạng của họ, bèn ôn tồn hỏi: “Anh em đến đây thăm tôi hay là bắt lỗi tôi, tại sao các thầy cứ nhìn tôi trừng trừng như thế?” Họ trả lời: “Thưa cha, cha đã phạm luật giữ chay mà chúng ta tình nguyện tuân giữ.” Cha từ tốn nhìn các thầy rồi đáp: “Đúng là tôi đã vi phạm luật giữ chay. Tôi không giữ lề luật của chúng ta đã đặt ra, nhưng khi chia sẻ thức ăn với các thầy bạn thuộc tu viện khác, tôi đã sống luật của Thiên Chúa. Các thầy không nghĩ là Đức Yêsu cũng đã làm như vậy sao? Hỡi các thầy, đừng vịn vào lề luật để bắt bẻ hay làm khó nhau. Các thầy còn nhớ đến lời Chúa dậy: có hai giới răn quan trọng, chứ không phải chỉ có một mà thôi đâu. Chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn và yêu nhau như chính mình. Chúng ta không vào đây để trốn thế gian và sống một mình với Chúa. Nhưng chúng ta đến đây tìm Chúa và yêu thương nhau trong Chúa.”

Giống như các thầy dòng nọ, chúng ta chỉ biết yêu mến Chúa qua việc chu toàn lề luật, siêng năng tham dự thánh lễ, ăn chay, kiêng thịt, đọc kinh cầu nguyện, hành hương để huởng ơn “toàn xá” và các công việc đạo đức khác mà quên mất đi việc yêu thương người. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà quên đi việc yêu thương, quan tâm, lo lắng và giúp đỡ cho nhau.

Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa và tha nhân. Yêu Chúa như Chúa yêu đã là một việc khó làm, nhưng yêu người còn khó hơn bội phần. Vì, làm sao chúng ta có thể yêu người với đủ mọi khuyết điểm; và thường xuyên trái ý và không cùng phe với chúng ta. Nhưng chúng ta phải yêu vì đó là lịnh truyền của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.

Đó là tôn chỉ và mục tiêu của Đạo Công Giáo. Thật vậy, đạo Công giáo không chỉ gồm tóm những điều khoản phải giữ; nhưng đó là đạo Yêu Thương, đó là con đường yêu thương. Con đuờng Chúa đã đi qua. Vì thế, cách sống đạo của chúng ta là yêu Chúa và yêu nhau. Thế nhưng, tình yêu không phải là việc để nói hay để bàn. Yêu để sống và sống để yêu.

Thưa anh chị em, yêu như thế nào?

Sau đây là kinh nghiệm của những người đã từng yêu, trong lúc họ đang là người tình của nhau. Các bạn tìm đến nhau. Ngày nào không gặp mặt thì lòng cảm thấy bâng khuâng, nhung nhớ. Bức xúc vì nhớ nhung. Bạn không thể ngồi đó mà chờ cơ hội. Nhưng, phải ra đi để tìm đến nhau, chiều chuộng và trao ban cho nhau những gì trân quý nhất. Họ đến với nhau, hiện diện bằng con người thật của nhau, không tính toán, không vụ lợi. Họ cho nhau và đón nhận tất cả. Các việc làm đó nói lên điều gì? Phải chăng, đó là hành động nói lên sự hiện diện với nhau và cho nhau nguồn cảm hứng của tình yêu.

Nói cho cùng, không thể bảo rằng mình đang yêu nếu đối tượng mình yêu không thật sự hiện hữu. Tuy nhiên, sự hiện diện của đối tượng mang nhiều mức độ khác nhau. Có nhiều người chúng ta gặp mà không dám hay không muốn nhìn vào mặt, như các chủ nợ hay những người mà chúng ta coi họ như kẻ thù; lại có một số người khác, khi gặp chúng ta chỉ chào hỏi qua loa cho xong bổn phận; lại có những người, khi gặp họ thì lòng chúng ta hân hoan, miệng hỏi đủ thứ chuyện, tay bắt, mặt mừng và không muốn rời xa nhau…

Như vậy, đâu là sự hiện diện đích thực của tha nhân mà chúng ta cần tìm kiếm? Và người là ai?

Đây không chỉ là những câu hỏi vô cùng khó khăn mà chúng ta cần trả lời, nhưng còn là một thách đố trong cuộc sống. Chúng ta cần có những hành động cụ thể để diễn tả tình yêu. Muốn làm được việc này, chúng ta phải trở về nguồn động lực căn bản thúc đẩy chúng ta yêu nhau. Chính Tình yêu của Thiên Chúa là nguồn động lực duy nhất thúc đẩy tôi ra đi. Không ‘yêu Chúa’ thì cho dù có yêu nhau đến mức độ nào thì thứ tình yêu đó cũng khó bền vững. Chỉ ở trong Chúa và với Chúa thì tình yêu của chúng ta mới đi đến chỗ thành toàn và viên mãn.

Vì thế, thay vì đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đâu là giới răn quan trọng nhất thì chúng ta hãy chìm đắm trong Tình Yêu của Chúa, rồi tự khắc chính Tình Yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta buớc ra khỏi tháp ngà và các tiện nghi của cuộc sống để ra đi mà chia sẻ cho tha nhân, đặc biệt cho những ai không đuợc bảo vệ, như đã đuợc đề cập trong bài đọc một, họ là ‘các người di dân, góa bụa và trẻ mồ côi’.

Tại sao họ lại đuợc Chúa nhắc nhở một cách đặc biệt như thế? Bởi vì, trong một bối cảnh mà các mối liên hệ gia đình, dòng tộc và giống nòi đuợc coi là nền tảng để bảo vệ con người, mà những người trong các nhóm này lại mất đi yếu tố an toàn bảo vệ họ; như vậy nguy cơ bị đối xử tàn bạo và bóc lột dễ xẩy ra. Vì thế, Chúa mới yêu cầu chúng ta quan tâm đến họ nhiều hơn. Tuy vậy, họ vẫn chỉ là những hình ảnh tiêu biểu đuợc nhắc nhở trong bối cảnh của thời đó. Thật ra, Thiên Chúa và con người không còn ở xa tầm tay của chúng ta. Người đã nhập thể mang thân phận con người. Người là anh, là chị, là tôi; những người thân quen trong gia đình, xóm giáo, các nhóm cầu nguyện và đặc biệt hơn nữa, Người còn hiện diện nơi những người bị bỏ rơi ở ngoài đường hay gầm cầu và phố chợ.

Yêu mến “hết” lòng và “hết” trí khôn là cho đi tất cả, dâng hiến mọi sự. Trong ngôn ngữ của người Do Thái, các chữ “lòng”, “linh hồn” và “trí khôn” có nghĩa toàn bộ con người. Do đó, giới răn hôm nay có nghĩa là: “Hãy yêu mến Thiên Chúa và thương yêu nhau bằng tất cả con người mình, cho đi tất cả con người mình, dâng hiến toàn bộ con người mình.” Nghĩa là, trong Tình yêu thì không còn sự chia cách, không còn phân biệt giữa người này với người khác. Tất cả đều được hoà hợp trong Tình Yêu, nơi đó không còn biên giới, không còn hận thù, không còn tỵ hiềm hay chia rẽ; mà chỉ có hiệp thông, tha thứ và bình an.

Cầu xin cho nhau đạt đuợc uớc nguyện đó. Amen

Wednesday, 18 October 2023

THUỘC VỀ THIÊN CHÚA.


Anh chị em thân mến,

Có một thực tế làm cho các vị lãnh đạo quan tâm, đó là việc tham gia vào công tác kiến tạo và đổi mới ‘môi trường’ theo tinh thần của Phúc Âm vẫn còn xa lạ với lối sống đạo của nhiều tín hữu. Họ vẫn thờ ơ và tỏ ra thiếu quan tâm với những gì đang xẩy ra trong xã hội. Một số người có khuynh hướng tách rời tôn giáo ra khỏi cuộc sống của người công dân. Nói cách khác, cuộc sống của chúng ta có thể chia thành nhiều mảng. Việc thờ phượng và yêu mến Chúa dừng lại trong các nghi lễ và bị cầm tù tại các khuôn viên nhà thờ. Khi tham dự nghi lễ xong, vừa bước chân ra khỏi nhà thờ thì chúng ta đã trở về với cuộc sống khác, một con người thuộc về trần thế. Với lối sống như thế, chúng ta dần dần sẽ thiếu nhậy cảm với những điều tạo ra các bất công, không nhìn thấy các nguyên nhân tạo ra cuộc sống giai cấp và thiếu công bình trong đời sống.

Công cuộc xây dựng và mở mang Nuớc Chúa là bổn phận và trách nhiệm của mọi tín hữu. Vì thế, chúng ta phải nỗ lực dùng cả cuộc sống để chu toàn nhiệm vụ của Chúa trao ban. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại thường chia đời sống thành nhiều mảnh: như theo đạo rồi quên đời, theo Chúa rồi bỏ thế gian. Hẳn anh chị em vẫn còn nhớ rằng vì yêu thuơng thế gian mà Thiên Chúa đã sai người Con duy nhất của Người đến thế gian đó sao! Và nhờ vậy, mà thế gian đã được cứu độ. Vì thế, cả hai mặt ‘đạo và đời’ cần đuợc gắn bó với nhau. Đó là điểm mà chúng ta cần lưu tâm trong lúc suy niệm bài Tin Mừng hôm nay. Để làm được việc này, chúng ta hãy tìm hiểu cách hành xử rất mực khôn Ngoan của Chúa khi trả lời vấn nạn mà các thủ lãnh đặt ra để gài bẫy Chúa.

Trong các tuần vừa qua, Đức Giê-su đã đối diện với sự đối kháng của những nhà lãnh đạo tôn giáo thời của Người. Hôm nay, trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su gặp phải tình huống căng thẳng hơn. Đối thủ của Người bao gồm đời và đạo. Họ là những người thuộc nhóm Hê-rô-đê, là những người có địa vị trong guồng máy của đế quốc La-Mã và nhóm Pha-ri-siêu, họ nghiêm chỉnh trong việc tuân giữ luật lệ Do Thái. Tuy hai nhóm người này là đối thủ của nhau, nhưng hôm nay họ liên kết với nhau để cố gắng làm mất uy tín của Đức Giê-su hầu tiêu diệt Người.

Trước khi đặt câu hỏi, họ tán dương và ca tụng Đức Giê-su là Người tôn trọng sự thật, là Đấng chỉ bảo đường lành, là Thầy dậy đường công chính. Những lời ca tụng của họ không phát sinh từ ý ngay lành cho bằng bộc lộ ác ý để gài bẫy Người. Họ dương dương tự đắc và nghĩ rằng Đức Giê-su sẽ bị bí với câu hỏi mà họ nghĩ rằng rất phức tạp, đó là “có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Nếu câu trả lời của Đức Giê-su là “không” thì nhóm người thuộc nhóm Hê-rô-đê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn qua việc không nộp thuế cho đế quốc La-Mã. Còn nếu Đức Giê-su trả lời "có" thì những người phe Pha-ri-siêu sẽ thừa dịp này mà tố cáo Chúa là người thân với chính quyền bảo hộ, hà hiếp và bóc lột dân chúng. Người không xứng đáng là người lãnh đạo tôn giáo (vì không làm theo ý của họ!)

Theo như cách suy nghĩ và lối suy luận của họ thì Đức Giê-su chắc chắn bị rơi vào bẫy. Người sẽ không còn đường thoát. Đức Giê-su không còn con đường nào khác ngoại trừ có hay không. Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Đường nào cũng dẫn Đức Giê-su vào ngõ cụt. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu làm cho cả hai nhóm không bắt bẻ được Người, đồng thời Đức Giêsu còn nhắc cho họ biết sự thật đã được mạc khải từ khi tạo dựng đó là con người thuộc về Thiên Chúa thì hãy trả lại cho Người những gì mà Thiên Chúa đã dựng nên. Còn những gì mà họ đang nhìn thấy trước mắt thì hãy trả cho Xê-da.

Thật vậy,

Có vật gì hay một thứ gì hiện diện trong trời đất này mà không thuộc về Thiên Chúa hay Thượng Đế hay chăng? Thiên Chúa đã tạo dựng nên mọi sự từ hư không, và đỉnh cao của chương trình tạo dựng của Thiên Chúa là con người, con người là “hình ảnh Người.” Sự sống đang luân chuyển trong ta đã được diễn tả qua việc thổi hơi, ban sự sống, trao sinh khí cho con người. Vì thế không có gì chúng ta có được mà không phát sinh và ban tặng từ Người.

Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người, không hướng về Thiên Chúa những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ bất trung. Một khi, chúng ta chiếm mất vị trí của Thiên Chúa, tự mình làm chủ, lấy mình làm tiêu chuẩn cho mọi phán đoán, bộc lộ tính kiêu ngạo và hất Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình và tha nhân thì chúng ta sẽ chuốc lấy tranh chấp, hận thù, bạo lực và hủy diệt mà thôi

Vì thế, bao lâu con người không nhìn nhận Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Chủ tể của mình, không qui hướng tất cả những gì con người có được về Người, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, không cảm nhận lòng thương xót và tính quảng đại của Thiên Chúa đang hoạt động trong ta thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản, không thể nào xây dựng một xã hội hiệp nhất và an bình, trong đó mọi người yêu thương, kính trọng và mến mộ nhau như anh chị em trong gia đình có Thiên Chúa là Cha, đó là ý của câu trả lời của Đức Giê-su: trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hơn thế nữa, khi nói điều này, Đức Giê-su không có ý đưa ra nguyện tắc chia quyền ‘Chúa một nửa, vua một nửa’, hay là phần thiêng liêng thì thuộc về Chúa, còn phần đời thuộc về vua. Người cũng không tranh dành uy quyền với các vị vua trần gian; bởi vì uy quyền tối thuợng và vững bền qua muôn thế hệ thuộc về Thiên Chúa; còn các vị vua, ông chúa, bà hoàng hay các vị thủ lĩnh trên thế gian đều là những người thừa hành; họ nối tiếp nhau cai trị thiên hạ; nhưng có ông vua hay bà chúa nào trường tồn quá một trăm năm đâu! Chỉ có uy quyền của Thiên Chúa mới tồn tại qua muôn thế hệ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể bán cái và trả lại trách nhiệm trông coi và xây dựng vũ trụ này cho Thiên Chúa. Trách nhiệm đó đã được trao ban cho chúng ta. Chúng ta cần thi hành bổn phận cao quý và đầy thử thách này. Muốn được như thế, hãy noi gương Chúa.

Trong khi thi hành sứ vụ mà chúng ta gọi là truyền giáo, giới thiệu và mở mang Nước Chúa, Đức Giêsu đã tỏ bầy cho chúng ta nhận biết về một Thiên Chúa không chỉ ở trên cao, nhưng Người đang đồng hành với cảnh ngộ và cuộc sống của từng người. Người nhập thể và chia sẻ mọi tình huống của con người: ai đau ốm Người chữa cho lành; ai gặp hoạn nạn, Người thuơng cứu giúp; ai đói khát, Người nuôi ăn; ai tội lỗi, Người ban ơn tha thứ; thậm chí Người hồi sinh cả kẻ đã chết… Người chu toàn mọi sự trong mọi người. Nhưng, có một điều thật rõ ràng là Đức Giêsu không làm thay chúng ta. Người trao và mời gọi chúng ta tiếp tay. Người không thể cứu giúp và làm cho mọi bịnh nhân thuộc mọi thời đại khác nhau được chữa khỏi; Người cũng chẳng làm cho mọi người đói, thuộc về các thời đại khác nhau được no nê. Đó là phần vụ của con người ở các thời đại khác nhau.

Do đó, khi chúng ta tiếp cận người nghèo, đến với những người bị bỏ rơi, tiếp đón những người bị khước từ là lúc chúng ta đang cố gắng hết sức để cho Thiên Chúa họat động trong toàn bộ, cũng như trong mọi lãnh vực của cuộc sống chúng ta.

Vì thế, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, không chỉ được thu gọn trong việc đóng thuế xây dựng quốc gia nơi chúng ta đang sống hay là việc mở mang Nuớc Chúa. Nhưng, qua cuộc sống, chúng ta thực hiện để cho Thiên Chúa trở nên mọi sự trong chúng ta. Và, chúng ta, cũng như mọi sự của chúng ta, đều thuộc về Người. Hơn thế nữa, chúng ta hãy sống mà trả lại cho Người, không chỉ quan tiền của Xê-da, mà còn là mọi sự của chúng ta nữa. Amen!

 

 

Wednesday, 11 October 2023

NIỀM VUI CỦA HIỆN DIỆN


Thưa anh chị em,

Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su có lối kể truyện thật đặc biệt. Các câu chuyện Người kể làm chúng ta phải suy nghĩ, chấp nhận thách đố và thay đổi. Như trong câu chuyện ‘hai người con’. Sau khi nghe xong, chúng ta khám phá ý định của Chúa là muốn chúng ta thưa xin vâng và sống điều xin vâng đó trong suốt cuộc đời. Với dụ ngôn ‘những người làm công sát nhân’, Đức Giê-su nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại bổn phận của mình, luôn là những người làm công trong vườn nho, còn Thiên Chúa mới là chủ nhân, chúng ta không được phép tiếm quyền. Hôm nay, trong dụ ngôn tiệc cưới, Đức Giê-su mời gọi chúng ta thay đổi lối sống.

Vì thế, chúng ta đừng tìm hiểu và đọc các câu chuyện trong các dụ ngôn theo nghĩa đen mà phải tìm ra chân lý mà dụ ngôn ẩn chứa để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với sự mới mẻ mà Đức Giê-su muốn dậy bảo.

Trước tiên chúng ta hãy tưởng tượng.

Anh hay chị đã bao giờ nhận được lời mời đến tham dự một bữa tiệc mà bạn thực sự không muốn tham dự? Bạn đã làm gì về điều đó? Tôi cá là bạn đã không ngược đãi, lạm dụng và giết người báo tin hay nhân viên đưa thư. Thế mà, đó là những gì đã xảy ra trong câu chuyện hôm nay.

Anh hay chị đã bao giờ hết lòng hết dạ khoản đãi những khách mời, cuối cùng họ lại không đến chưa? Các việc chuẩn bị như dọp dẹp nhà cửa, nấu ăn, trang trí phòng ăn thật ấm cúng. Mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng, gia nhân đã được chỉ bảo trong việc tiếp đón khách. Nhưng đến giờ khai tiệc vẫn còn một số khách không đến tham dự. Trong hoàn cảnh đó anh hay chị sẽ làm gì? Tức giận rồi cho gia nhân đi đốt nhà họ hay sao? Có lẽ bạn sẽ không làm điều đó. Thế mà, đó là những gì đã xẩy ra trong câu chuyện hôm nay.

Câu chuyện mà Đức Giê-su kể hôm nay tạo một cú sốc cho người nghe. Tuy nhiên chúng ta không nên hình dung và đi đến một kết luận cho rằng Thiên Chúa là một vị vua giận dữ, đã đối xử với những người không theo ý Ngài bằng cách sai quân binh đến hủy diệt dân tộc mình và đốt cháy thành phố của họ như đã được trình bầy trong dụ ngôn. Tất cả không phải sự thật mà Tin Mừng loan báo.

Dụ ngôn ‘tiệc cuới’ hôm nay ám chỉ đến bữa tiệc ‘cánh chung’, bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó chúng ta thấy dung mạo của một vị Thiên Chúa rất nhân từ, kiên tâm trong công việc. Bữa Tiệc do Ngài làm chủ. Ngài tự ý mở tiệc và cho gia nhân đi mời mọi người. Cho dù, khi gặp phản ứng khước từ của nhóm khách đầu tiên, nhà vua đã có nhận định là họ không xứng đáng. Lối nói này dẫn chúng ta thấy hành động sau đó của nhà vua cho gia nhân đi mời mọi người. Qua đó, chúng ta mới thấy tư cách được mời không phải vì họ xứng đáng, nhưng đây chính là tâm huyết và niềm vui của Ngài. Điều đặc biệt ở đây là Thiên Chúa không giữ ‘niềm vui’ cho riêng mình, nhưng Ngài đã tự ý chia sẻ niềm vui đó qua việc sai các sứ giả, hết nhóm này đến nhóm khác, mời tất cả mọi người, ở tất cả mọi nơi - từ các nẻo đuờng và trong các hang cùng ngõ hẻm - đến tham dự tiệc cuới.

Nhưng giữa hai nhóm được mời tham dự tiệc cưới có điểm khác biệt.

Sự khác biệt không phải là những người thuộc nhóm thứ nhất xứng đáng hơn những người thuộc nhóm sau. Những vị khách được mời đầu tiên là những người nhận được lời mời và sự ưu ái của nhà vua. Nhưng những vị khách được mời thứ hai cũng vậy. Và người đàn ông xuất hiện không mặc áo cưới cũng vậy. Họ đều được mời. Họ đều được ưu ái. Không ai trong số họ đã làm bất cứ điều gì để có thể cho rằng mình xứng đáng được mời. Chúng ta cũng thế.

Sự khác biệt không phải là nhà vua thích nhóm này hơn nhóm khác. Động lực duy nhất của nhà vua là muốn chia sẻ niềm vui, san sẻ trong bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Điều này nói lên lòng đại lượng và tâm tình san sẻ của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa muốn mọi người tham gia vào niềm vui và những sinh hoạt trong gia đình của Ngài. Những người được mời đều có cơ hội như nhau. Chúng ta cũng thế. Cơ hội luôn chờ đợi sự cộng tác và đón nhận của chúng ta.

Sự khác biệt không phải là một số khách tốt và những người khác xấu. Không có sự phân biệt hoặc đánh giá nào được thực hiện dựa trên hành vi, niềm tin, thái độ sống hay lối hành xử đạo đức. Ngược lại, với lần mời thứ hai, nhà vua cử người hầu của mình ra các đường phố chính với chỉ thị “gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Và gia nhân đã làm như chỉ thị: đi ra các nẻo đường, gặp ai, không phân biệt tốt xấu, sang hèn, giầu nghèo, có địa vị hay không, mời hết khiến cho phòng tiệc cưới đã đầy khách dự tiệc. Chúng ta cũng thế, không phân biệt tốt xấu, ai ai cũng được mời.

Có sự khác biệt giữa hai nhóm. Đó là cách thức hiện diện. Những vị khách được mời lần thứ hai đã hiện diện. Họ vào chật kín phòng tiệc. Trái lại, những người được mời đầu tiên lại không có mặt. Họ có lý do chính đáng, như đến các trang trại, tham quan các cơ sở kinh doanh hay đi buôn. Điều mà họ thiếu sót là sự sống đích thực chỉ có thể tìm thấy được trong Nước Thiên Chúa, trong các bữa tiệc do Thiên Chúa khoản đãi mà thôi. Chúng ta được mời và chấp nhận lời mời bằng sự có mặt mật thiết bên nhau trong Nước của Ngài. Từ đó, chúng ta nhận ra mình thật xứng đáng. Xứng đáng không phải vì mình nhưng vì Chúa nhận ra mình thật xứng đáng được yêu thương, xứng đáng được đồng bàn. Đó là lúc Chúa thay đổi chúng ta.

Còn về người khách không mặc y phục lễ cưới trong nhóm thứ hai, chúng ta sẽ nói thế nào đây? Người ta có thể xếp anh vào loại người có niềm tin mà không có việc làm như được mô tả ở đoạn 2 trong thư của Thánh Gia-cô bê, Ngài nói “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”, giống như đi vào phòng tham dự tiệc cưới mà không có y phục lễ cưới thì đáng bị ném ra ngoài.

Nhưng hôm nay, tôi nhận ra một điều khác ở người khách này. Khi bị hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có ý phục lễ cưới?” thì anh ta ngậm tăm, miệng câm và không nói được gì. Có một cái gì thiếu nơi anh. Anh không nói được điều nào hết! Anh tuy có mặt nhưng thật ra đã không hiện diện. Thân xác anh bất động ở đó, nhưng tâm hồn và các sự khác của anh đã thoát khỏi phòng tiệc. Anh có mặt như không có mặt. Cứ như thể anh không thực sự hiện diện nơi đó.

Sự thật này đã xẩy ra trong kinh nghiệm sống của chúng ta. Đã bao lần thân xác ta ở đó, nhưng lòng của mình đã bay tận chốn nào rồi! Tình trạng ‘đồng sàng dị mộng’ hay ‘lãnh cảm’ là thế đó. Sự thật này cũng đã xẩy ra trong cuộc sống của chúng ta với Chúa. Đã bao nhiêu lần, thân xác chúng ta trong nhà thờ mà lòng trí lại ở tận nơi đâu. Giống như thế, trong các mối tương quan, đã bao nhiêu lần chúng ta có mặt như không có mặt. Sống chung một nhà mà không muốn nhìn mặt nhau thì coi như người đó đâu còn hiện diện nữa.

Sau cùng, chúng ta hãy nhớ rằng: tiêu chuẩn mà chúng ta được mời tham dự tiệc cưới hoàn toàn không dưạ trên lòng đạo đức, thánh thiện hay là phẩm chất tốt lành của chúng ta. Lời mời được phát sinh bởi Thiên Chúa, từ lòng quảng đại của Người, Đấng tha thiết mời gọi chúng ta trước là hiện diện rồi mới chia sẻ niềm vui với Người. Nhưng lòng quảng đại, nhân từ và kiên tâm chờ đợi của Thiên Chúa không bao giờ là một cái cớ khiến chúng ta tự mãn và coi thuờng rồi không hợp tác với Ngài. Chính việc chọn lựa không hợp tác của chúng ta giống như người không có y phục lễ cưới đã được mô tả trong dụ ngôn. Đó có thể là nguyên nhân khiến chúng ta tuy có mặt nhưng không hiện diện. Tự mình loại mình ra khỏi bữa tiệc của niềm vui.

Vậy, mỗi khi gặp nhau trong các lần gặp mặt, các bữa ăn, nhất là qua các bữa tiệc lòng mến hay còn gọi là Thánh Lễ, chúng ta sẽ mang đến bữa tiệc một sự hiện diện đích thật, không giả dối; đong đầy yêu thương và tha thứ cho nhau; chấp nhận con người với những yếu đuối của nhau; luôn mở ra để đón tiếp và chấp nhận nhau; tay bắt, mặt mừng và với niềm hân hoan để cùng có mặt, cùng nhau chia sẻ niềm vui mọi ngày cho đến tận thế. Amen!

Wednesday, 4 October 2023

VƯỜN NHO CỦA CHÚA.


Anh chị em thân mến,

Trong phần kết luận của bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giê-su đã nói rõ cho mấy ông lãnh đạo của dân Do Thái biết rằng những người thu thuế và các cô gái điếm là những người con ngoan ngoãn, vâng lời Thiên Chúa. Họ đã được mô tả như người con bướng bỉnh ngoài miệng nhưng sau đó lại ngoan ngoãn đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu và vâng theo ý muốn của Thiên Chúa. Trong khi đó, người con thứ hai là hình ảnh của các thủ lãnh, ngoài miệng thơn thớt ‘dạ thưa, con vâng’ nhưng cuộc sống lại bộc lộ sự chống đối, và đôi khi biến thành các hành vi tàn ác như được mô tả qua câu chuyện tá điền sát nhân trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu chuyện như sau:

Có một ông chủ kia trồng được vườn nho. Ông rào giậu chung quanh. Trong vườn ông khoét bồn đạp nho và một tháp canh. Các chi tiết này ám chỉ cho chúng ta biết vườn nho thuộc về ông. Nhưng ông không tự mình trồng nho mà lại cho các tá điền thuê để canh tác. Sau đó, ông trẩy đi phương xa cho đến mùa thu hoạch mới sai sứ giả của ông đến để thu hoa lợi. Đến lúc này thì công việc kinh doanh vẫn hoạt động bình thường, cho đến khi sự cố xẩy ra.

Trước khi tìm hiểu xem điều gì đã xẩy ra, xin mời anh chị em thử tưởng tượng xem có người làm thuê nào dám hành hạ và đánh đập những sứ giả mà ông chủ phái tới để thu hoa lợi hay không? Giả như những người đại diện của chủ bị hành hạ thì ông chủ sẽ có thái độ như thế nào? Hơn thế nữa, với tình hình của một quốc gia đang bị đô hộ thì người dân có quyền thế gì. Mọi thứ quyền lực thường nằm trong tay đế quốc, qua trung gian của mấy ông chủ, những người có mối quan hệ với đế quốc đang thống trị họ. Trong tình hình đó, ông chủ vườn nho (như mấy ông chủ đồn điền) sẽ sai quân binh đến để dẹp bọn tá điền phản loạn, làm gì có việc sai thêm nhóm khác và sau cùng lại gửi con ông đến để chịu chết như dụ ngôn kể lại. Và, thật nực cười khi chúng ta nghe lý do mà họ giết cậu con trai, đó là để đoạt gia tài mà cậu được thừa kế. Dù cậu có bị giết thì gia tài vẫn thuộc quyền ông chủ, cho đến khi nào mới về tay những kẻ làm thuê.

Trong câu chuyện, chúng ta biết rằng: vườn nho thuộc về Thiên Chúa. Người vẫn kiên tâm chờ đợi, không thu động nhưng rất tích cực, bằng cách tiếp tục sai hết lớp thợ này đến lớp thợ khác đến để canh tác trong vườn nho của Người. Sau cùng Người sai người con thừa tự, hy vọng rằng họ sẽ nể Người mà cộng tác với người con đó. Nhưng than ôi! Họ đã nhẫn tâm giết luôn người con. Tuy nhiên, việc con người nhẫn tâm và tàn ác cũng không thắng nổi sức mạnh và công trình của Thiên Chúa. Thật vậy, Đức Giê-su đã nói: “…Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” Tảng đá mà Đức Giêsu nói ở đây là chính bản thân Người, là thân thể của Đức Ki-tô.

Sau khi kể xong câu chuyện, Đức Giê-su mới bộc lộ ý của Người qua câu hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn đã giết các sứ giả và người con thừa tự của ông? Câu trả lời của họ thật rõ ràng: Ông sẽ tru diệt bọn ác nhân và trao cho nhóm tá điền khác canh tác, để cứ khi mùa gặt đến, họ sẽ nộp hoa lợi cho ông.

Sau câu trả lời thật rõ ràng, họ thấy chính họ trong câu chuyện. Họ hiểu ý mà Đức Giê-su kể trong câu chuyện hôm nay. Người có ý mời gọi các vị lãnh đạo, các chức sắc hãy nhận ra sứ điệp của Người mà thay đổi cách sống. Nhưng họ không động lòng để hối cải. Than ôi, họ ngoan cố tiếp tục tìm cách bắt Đức Giê-su!

Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở hành động khuớc từ của họ. Thiên Chúa, Đấng làm chủ vườn nho tiếp tục mời gọi và sai các nhóm tá điền khác đến để canh tác. Nói cách khác thì vườn nho không bao giờ bị bỏ hoang! Một ngôi nhà mới sẽ được cất lên, một triều đại mới sẽ được khai sinh trên hòn đá tảng là chính Đức Kitô. Đây chính là công trình của Thiên Chúa, Đấng làm chủ vườn nho của Người.

Theo thiển ý của tôi, khi nhắc lại công trình của Thiên Chúa, Thánh sử muốn đề cao quyền làm chủ vườn nho thuộc về Thiên Chúa. Người nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa có dự án của Người. Cho dù con người có bất trung hay hành xử bất kính và bạo lực cũng không phá hủy được chương trình yêu thương của Người.

Họ nghĩ là họ đã thành công trong ý đồ xấu xa của họ là loại bỏ Tảng đá. Nhưng, với bàn tay của Thiên Chúa, do công trình của Người, tảng đá đó trở nên tảng đá góc tường.

Họ nghĩ rằng họ đã giết được Con Thiên Chúa. Nhưng, Đức Giê-su qua sự chết, Người đã chiến thắng thần chết. Qua việc chết đi cho ý riêng, Người đã biểu lộ lòng vâng phục ý của Thiên Chúa. Sau cùng, Thiên Chúa đã siêu tôn Người Con và tiếp tục làm chủ công trình của Người.

Thưa anh chị em,

Đối với các thành viên trong cộng đoàn của Thánh Mát-Thêu thì câu chuyện này có thể được giải thích đó là việc dân Do Thái đã lạm dụng vai trò canh tác vườn nho của Thiên Chúa. Họ được mô tả như những người làm thuê, nhưng lại không chấp nhận thân phận của mình, trái lại họ đã cư xử như một ông chủ; không có lòng nhân từ và kiên nhẫn. Với cách hành xử rất thô bạo, bằng bạo lực họ đã cuớp quyền sở hữu, giết các sứ giả do chủ sai đến. Họ, từ vị trí của những người làm công, đã thiết lập các qui tắc, rồi cuớp đoạt và tự hành xử như một ông chủ. Họ tìm cách loại bỏ Người. Vì quyền lợi riêng tư nên họ đã từ chối đón nhận Đức Giêsu và nguồn ơn cứu độ của Người.

Còn chúng ta, việc canh tác làm cho vũ trụ, vườn nho Hội Thánh, vườn nho gia đình, cộng đoàn hay xã hội được đổi mới và phát triển là trách nhiệm và phần vụ của mọi người. Phần vụ này không thuộc về riêng ai: Do Thái hay dân ngoại, ai ai cũng được mời gọi. Chúng ta hãy hỏi mình rằng chúng ta đã sống như thế nào để xứng đáng với vai trò mà Chúa đã trao phó trong công việc canh tác vườn nho của Người? Nếu không tự xét mình và thay đổi thì chúng ta có thể giống như hàng ngũ lãnh đạo mà Đức Giêsu đã nhắm đến trong bài Tin Mừng hôm nay!

Vẫn biết, cuối cùng thì Nước Thiên Chúa sẽ hiển thắng. Chúng ta không đuợc phép thất vọng. Tuy nhiên, việc sinh hoa lợi là phần phúc mà Chúa đang chờ đợi bàn tay con người. Hãy làm tất cả để vườn nho của Thiên Chúa, thân thể của Đức Ki-tô được sinh hoa kết trái dồi dào và phong phú hơn!

Hãy nhớ rằng vườn nho thuộc về Thiên Chúa, vườn nho là của Người. Chúng ta chỉ là những người cộng tác, hết nhóm này đến nhóm khác, hết thời này đến thời kia, Thiên Chúa vẫn làm chủ. Và, cho dù chúng ta bất xứng, nhưng Thiên Chúa luôn thành tín với dự án của Người. Đừng bao giờ có ý nghĩ chiếm hữu vườn nho cho riêng mình. Đừng bao giờ để cho thành quả của công việc làm thay đổi căn tính phục vụ của mình. Hãy sống trọn vẹn vai trò thừa tác, chu toàn bổn phận của người cộng sự mà làm cho Danh Chúa được cả sáng và Vườn nho của Chúa, là Thân Thể của Đức Ki-tô, được sinh hoa kết trái theo ý Người. Amen!