Monday, 27 January 2025

HIẾN DÂNG ĐỂ THUỘC VỀ CHÚA


Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng Lễ Dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa. Bài Tin Mừng kể lại việc Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a tuân theo luật Mô-sê, bế hài nhi Giê-su, người con trai đầu lòng mới được sinh ra 40 ngày, lên Đền thờ Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Thiên Chúa.

Trong khi suy niệm sự kiện cha mẹ Đức Giê-su tiến dâng Người con trai duy nhất của ông bà cho Thiên Chúa tại đền thờ Giê-ru-sa-lem thì tôi lại nhớ đến tấm lòng bao dung, quảng đại và hy sinh mà các bậc cha mẹ đã trao ban cho con cháu. Họ đã nỗ lực học để quên mình mà luôn khuyến khích và cho phép con cái của họ thực hiện những gì mà các cháu được kêu gọi để hoàn tất.

Như tất cả chúng ta đều biết rằng trước khi con cái thuộc về cha mẹ hay thuộc về gia đình mình thì các cháu phải thuộc về Chúa trước. Thật vậy, mọi thành viên trong gia đình của chúng ta nói riêng và gia đình Hội Thánh nói chung đều là những món quà vô giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.

Lối suy nghĩ này quả thật rất ích lợi và nhắc nhở chúng ta nhớ lại rằng: khi sinh ra chúng ta biết mình lệ thuộc vào ai. Kiểu sống tự sinh tự diệt không còn được chấp nhận. Mỗi người chúng ta được sinh ra để thuộc về nhau. Chúng ta có bổn phận và trách nhiệm lo lắng và chăm sóc cho nhau.

Dọc theo năm tháng của dòng đời, chúng ta càng thấy rõ điều này hơn. Trước hết chúng ta thấy gia đình mình đông hơn, ngoài cha mẹ và anh chị em, chúng ta còn có những người bạn. Họ đã đến để thuộc về chúng ta và chúng ta cũng thuộc về họ. Như vậy, sống là chấp nhận thuộc về gia đình, xóm giáo, cộng đòan và Hội Thánh.

Không ai trong chúng ta lại sống cho riêng mình mà được tồn tại hết. Sống là sống cho người khác. Cho đến một ngày con tim của chúng ta nhận ra một sự nối kết, một cách thuộc về với một đối tượng mà không ai có thể cắt đứt hay kéo chúng ta ra khỏi vòng tay của người đó được. Và từ đó một chu kỳ của ‘thuộc về’ được gầy dựng bằng chính tình yêu và lòng chung thủy của chúng ta dành cho nhau.

Vì vậy, để sống và thưc hiện được điều này, tất cả chúng ta, đặc biệt những ai đang nắm giữ trọng trách lãnh đạo trong gia đình, tại giáo xứ và của Hội Thánh, họ cần học cách sống ‘từ bỏ -letting go’ cái tôi, từ bỏ tự nhận mình là đúng hay tự cho mình là người cầm cán cân công lý; rồi để cho con cái trong gia đình, thành viên trong các tổ chức đời cũng như đạo có thể khám phá ra thế giới, môi trường, hướng đi, ơn gọi mà trong đó họ có thể thiết lập nền tảng, đóng góp và xây dựng một cách tích cực nhất. Thậm chí, chúng ta cần cho phép và chấp nhận những sai lỗi của họ và biểu lộ tình thương qua việc hỗ trợ và đứng bên các cháu nữa. Tôi tin tưởng rằng, là cha mẹ và người lãnh đạo, chúng ta sẵn sàng chấp nhận thua để con cháu mình thắng, vì yêu thương chúng.

Và trong ngày lễ hôm nay, Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a đã chỉ cho chúng ta con đường, dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa, để Người tự do thực hiện chương trình mà Thiên Chúa đã chuẩn bị và muốn Người thực hiện.

Đức Giê-su đã sống đời dâng hiến một cách thật nghiêm chỉnh. Người thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Người đã xác định điều này khi phán “Này Tôi xin đến để thực thi ý Chúa (Dt 10:19) và “Ta với Cha là một” (Gio-an 10:30).

Có biết bao thử thách đã đến cám dỗ Người sống cho riêng mình, như: nếu ông là Con Thiên Chúa thì biến đá thành của ăn, chứng tỏ uy quyền bằng cách nhẩy xuống từ nóc đền thờ này đi, và ngay trong giây phút sinh tử, Đức Giê-su còn bị thử thách rằng nếu Người là Đức Ki-tô thì hãy tự cứu mình, v.v… Tất cả thử thách trong cuộc sống nhằm lôi kéo Người sống theo ý mình, không muốn thuộc về Cha. Nhưng Người đã chiến thắng tất cả. Đức Giêsu không tự mình nói, không tự mình làm và đã vượt qua cái tôi bằng cách để cho Thiên Chúa, Cha Người làm chủ cuộc sống sứ mạng của Người.

Trở về với cuộc sống của chúng ta, thực tế dậy chúng ta biết rằng không ai trong chúng ta được sinh ra rồi lại mong muốn để cho người khác kiểm soát hay thống trị mình. Chúng ta là quà tặng mà Thiên Chúa ban cho nhau. Bằng cái nhìn tích cực, chúng ta có thể cho rằng những người đã hiện diện trong cuộc đời mình đều nắm giữ một vai trò nào đó trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho mình. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng có cái nhìn như thế. Trong những lúc yếu đuối, chúng ta có thể xem họ như chướng ngại vật cản bước tiến của mình, hủy đi mối tương quan giữa mình và họ. Mỗi khi như thế, chúng ta cũng nên trở về để nhớ lại sự kiện hôm nay, và ‘tiến dâng’ họ cho Thiên Chúa, xin Người ban bình an và chúc phúc cho họ để mối dây tương quan, sự liên kết ‘thuộc về’ giữa họ và chúng ta được bền chặt hơn.

Trở về bản thân, chúng ta cần khám phá ra những gì mà Thiên Chúa đã ban tặng cho mình. Bởi vì, làm thế nào chúng ta có thể dâng cho Thiên Chúa điều chúng ta không có! Công việc này quả thật rất khó khăn khi tìm cách liệt kê và còn phải kể ra những quà tặng đó với lòng biết ơn, không kiêu hãnh, không ngạo mạn, mà chỉ có chân thành. Trên thực tế, chúng ta có thể xin lễ tạ ơn, nhưng lại thường hay quên thể hiện dâng lên Thiên Chúa lối sống tạ ơn về những gì đã được trao ban cho mình bằng việc làm cho tha nhân.

Vì thế, đây là lúc chúng ta cần xem xét lối sống tạ ơn này một cách thật nghiêm túc. Ngoài việc nhìn lại chính mình và dành thời gian để suy gẫm về ân huệ, quà tặng, sự hiên diện và can thiệp của Thiên Chúa đã thể hiện trong đời mình. Với lòng tạ ơn chúng ta cần chia sẻ những điều đã lĩnh nhận cho người khác. Tiến dâng là như thế. 

Sau đó, giống như thái độ của bà An-na và ông già Si-mê-ôn trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ đã nhận được món quà vô giá qua việc gặp gỡ con trẻ Giê-su. Trái tim của họ được lấp đầy nguồn hạnh phúc được ơn cứu độ mà Đức Giê-su đem đến cho họ. Như họ, với lòng biết ơn chúng ta cũng đã nhận bao quà tặng trong cuộc sống và quà tặng vô giá nhất là sự hiện diện của Đức Giêsu trong hành trình cuộc sống mình.

Sau cùng, trong sứ mạng của một Kitô hữu, chúng ta được mời gọi dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa qua việc sống thánh thiện trong đời sống gia đình, công việc và các mối tương quan. Điều này có nghĩa là dù sống trong bậc nào chúng ta đều được mời gọi sống yêu thương, tha thứ, thực thi các việc bác ái để những giá trị Tin Mừng thể hiện trong lối sống của chúng ta mỗi ngày. Amen!

BÀI GIẢNG TUY NGẮN NHƯNG ĐẦY ĐỦ!

 

Trong phần lời tựa, tác giả soạn tác Tin Mừng theo Thánh Lu-ca đã nói rõ mục đích công việc Ngài làm là ghi lại các lời giảng dậy và những việc làm của Đức Giê-su, để người đón nhận Tin mừng này nhận biết rằng giáo huấn chứa đựng trong đó rất xác thực. Khi trình bầy bối cảnh mà Đức Giê-su rao giảng trong các hội đường, tác giả muốn nhắm đến ý niệm là Đức Giê-su hoàn thành những gì mà truyền thống Cựu Ước đang mong chờ. Cụ thể, tại Ga-li-lê-a và các vùng lân cận, Đức Giê-su đã rao giảng và được mọi người đón nhận và tôn vinh. Nhưng chúng ta không biết nội dung của các bài giảng của Người tại các nơi đó như thế nào.

Hôm nay, trong bài giảng đầu tiên tại Na-da rét, Đức Giê-su quả quyết rằng lời hứa qua miệng các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ I-sa-ia về sứ vụ của Đấng Thiên Sai được ứng nghiệm. Có nghĩa là những gì mà Thiên Chúa đã hứa thì nay được thực hiện bởi Đức Giê-su. Bài giảng khai mạc thật ngắn gọn và đây phải là mẫu mực của mọi bài giảng của các nhà giảng thuyết sau này. Đơn giản, ngắn gọn và đi thẳng vào trọng tâm. Đức Giê-su công bố Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sa-ia, rồi đơn giản tuyên bố rằng những gì mà anh chị em vừa nghe, hôm nay được ứng nghiệm. Bài giảng kết thúc!

Điều được ứng nghiệm hôm nay diễn tả ước vọng của Thiên Chúa, và cũng là điều mà các ngôn sứ hằng mơ ước. Rất đơn giản, chỉ đủ để thông truyền một sứ điệp là tin vui cho những ai nghèo hèn, luôn trông cậy vào sự giầu có của Thiên Chúa, trả tự do cho kẻ bị giam cầm, cho những ai bị đui mù nay được sáng mắt, những người bị áp bức về tinh thần cũng như vật chất nay được thanh thản tự do và khai mạc Năm Hồng Ân của Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến,

Hầu giúp chúng ta thấy rõ điều mới mẻ mà Đức Giê-su vừa công bố, chúng ta hãy ôn lại ý niệm về năm hồng ân của người Do Thái. Như chúng ta được biết, người Do Thái tôn trọng và giữ luật của ngày hưu lễ rất nhiệm nhặt. Sau sáu ngày làm lụng vất vả họ dành riêng một ngày để nghỉ ngơi và dưỡng sức để lấy lại những năng lực đã hao phí trong sáu ngày qua. Ngày đó được gọi là ngày hưu lễ.  Trong ngày hưu lễ, họ không làm gì hết, chỉ nghỉ ngơi. Sau 7 năm họ để ra trọn một năm: năm hồng ân ban ơn toàn xá; và sau bẩy lần bẩy năm, nghĩa là sau 49 năm, họ lại dành ra một năm, năm thứ năm mươi để cử hành một năm gọi là “năm chúa của mọi ngày hưu lễ và gọi là năm hồng ân.”

Họ trù tính rằng trong một kiếp người, dù dài hay ngắn, thì ai ai cũng có thể tiếp nhận được các đặc ân của năm đó. Trong năm ‘chúa của mọi ngày hưu lễ’, toàn thể dân Do Thái được mời gọi tìm lại bản chất đích thực của dân tộc mình. Họ tìm lại sự mới mẻ, trọn vẹn và tinh tuyền cũng như sự tốt đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho họ ngay từ những ngày đầu của tạo dựng. Họ phải tuân thủ một cách thật nghiêm ngặt một số qui định sau đây:

1/ Ruộng đất bỏ hoang, không cầy cấy trồng trọt. Việc này có ý nghĩa là hãy quan tâm đến đời sống của mình, vì nó còn quan trọng hơn là trồng cấy. Họ tin tưởng vào sự chăm sóc và nuôi dưỡng của Thiên Chúa trong thời gian này.

2/ Tất cả những ai đang thiếu nợ thì đều được tha. Việc tha nợ nói lên chủ đích là đừng để nợ nần chồng chất từ đời này sang đời khác. Nó cũng nhằm bảo đảm cho những ai dù vất vả suốt đời nhưng vẫn không có khả năng trả nợ, thì được tha hết.

3/ Những ai đang sống trong thân phận nô lệ đều được trả tự do và quyền công dân được phục hồi. Điều lệ này nhằm chống lại việc phân chia giai cấp, vì con người được sinh ra không phải để làm nô lệ cho kẻ khác.

4/ Việc giảng dậy về sự khôn ngoan của lề luật được phổ biến rộng rãi cho toàn dân, ai ai cũng được học hỏi về lẽ khôn ngoan. Đó không phải là điều mà chỉ có những người thuộc thành phần ưu tú hay có địa vị mới được lĩnh nhận mà thôi.

Mục đích mà chúng ta ôn lại cách hiểu biết của người Do Thái về năm hồng ân, năm toàn xá giúp cho chúng ta hiểu về những điều mới mẻ mà Đức Giê-su muốn kiện toàn qui định này. Hãy nhìn vào sứ vụ và lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy tất cả lề luật của đạo Do Thái, đặc biệt là các qui định về năm hồng ân đã được kiện toàn, trở nên sống động và ứng nghiệm nơi bản thân Chúa.

Cụ thể như trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc xong rồi ngồi xuống như cách mà các kinh sư thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Người chờ đợi. Đức Giê-su đã tuyên bố cho họ biết rằng những lời mà ngôn sứ I-sa-ia đã loan báo khi xưa, nay đuợc thể hiện nơi bản thân và sứ vụ của Người. Người mạc khải cho họ biết chính Người là Đấng đuợc Thiên Chúa sai đến.

Với tư cách ấy, Người rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, loan báo niềm vui đuợc giải thoát cho những ai bị giam cầm, bị trói buộc bởi gông cùm của tội lỗi và thiết lập những nguyên tắc đem đến cho con người một sự tự do đích thật. Quan trọng hơn cả là công bố và thiết lập năm hồng ân của Thiên Chúa nơi bản thân và sứ vụ của Người.

Nói khác đi, thời đại của Hồng Ân đã được loan báo bởi các ngôn sứ xưa kia, nay được ứng nghiệm nơi sự hiện diện của Người. Thời đại đó không còn chỉ dành riêng cho người Do Thái, nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới. Hơn thế nữa, Người không chỉ là dấu chỉ của Hồng Ân, mà còn là ‘Con Người Hồng Ân’. Tất cả những ai đã gặp Người đều cảm nghiệm được điều đó. Bằng chính cuộc sống cũng như các lời giảng dậy, Đức Giêsu đã là Tin Vui cho người nghèo, những kẻ thấp cổ bé miệng, bị bỏ rơi và thân phận không được tôn trọng. Người đã không chỉ giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi mà thôi, nhưng còn lôi họ ra khỏi sự giam cầm của thứ luật lệ đã giam hãm và làm mất đi phẩm giá của họ. Từ sự giải thoát ấy, họ cảm nghiệm được lối sống phát sinh từ sự tự do của ân sủng nơi Người.

Anh chị em thân mến,

Khi nói đến Năm Hồng Ân, chúng ta thường nghĩ đến việc tổ chức các chuyến hành hương, gia tăng công việc đạo đức để lãnh ơn Toàn Xá. Đó là điều tốt, nhưng không phải là việc quan trọng. Bởi vì, không phải chờ đến năm Hồng Ân,  chúng ta mới nhận được các ân sủng của Chúa. Nhưng mỗi giây, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta đều là ân sủng. Tất cả đều là hồng ân mà.

Còn năm hồng ân theo tinh thần của Đức Giê-su không chỉ nhắc nhở chúng ta nhớ đến các hồng ân của Chúa ban tặng mà còn là lời mời gọi chúng ta sống yêu thương hơn, sống tha thứ và biết bỏ qua những nợ nần của nhau. Hãy can đảm để đổi mới cách sống: thay vì nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói, ghen tương, lên án hay hận thù thì hãy trao cho nhau sự tin tưởng, lòng nhân ái và hãy thông cảm những yếu hèn, sự mỏng giòn trong thân phận kiếp người của nhau.

Khi thi hành các trách vụ đó, chúng ta không mong tìm được lợi ích cho bản thân, nhưng quyết tâm chu toàn bổn phận của người quản lý trung tín để phục vụ cộng đồng nhân loại và đổi mới bộ mặt của thế gian. Bởi vì, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn chăm sóc cho dân của Người. Chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta một chỗ ở mới, một thế giới mới và ở nơi đó công bằng sẽ ngự trị. Hạnh phúc tại nơi ấy sẽ thỏa mãn và lắp đầy mọi ước vọng của sự an bình luôn trào dâng trong lòng con người... Vì tất cả đều là hồng ân, không chỉ ban tặng trong năm hồng ân mà thôi. Nó đã đuợc khai mạc bởi Đức Giê-su và sẽ kéo dài cho đến muôn thế hệ.

Trong tinh thần đó, chúng ta hãy sống mọi ngày như những ngày của hồng ân mà nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống và vui mừng dấn bước trong công việc tái thiết cũng như xây dựng gia đình mình, xóm giáo, họ đạo, cộng đoàn, giáo xứ và tập thể chung của nhân loại để trở thành một cộng đồng yêu thương, đầy tràn công lý và bình an, trong đó mọi người đều có thể cảm nhận được hồng ân của Thiên Chúa ban cho họ qua sự cộng tác của các tín hữu.

Cầu xin Chúa gìn giữ và giúp cho chúng ta đạt được nguyện ước đó để làm cho kho tàng hồng ân của Thiên Chúa mỗi ngày mỗi phong phú và đầy tràn hơn. Amen!

 

Monday, 13 January 2025

THẾ GIAN HẾT RƯỢU RỒI!

 Anh chị em thân mến,

Dù chúng ta sống ở thời đại nào hay lớn lên trong bất cứ nền văn hoá nào, tiệc cưới luôn là bữa tiệc của niềm vui. Người ta ăn uống nhẩy múa để san sẻ niềm vui với cô dâu, chú rể và hai họ. Theo phong tục của người Do Thái thời Đức Giê-su thì tiệc cuới kéo dài bẩy ngày. Con số bẩy là con số tràn đầy, gợi lại cho chúng ta thời gian mà Thiên Chúa dùng để tạo dựng vũ trụ và vạn vật. Phải chăng theo tập tục này chúng ta nhận ra sự tràn đầy của đôi nam nữ khi kết hợp với nhau thành một gia đình!

Thế mà mới sang ngày thứ ba, họ đã hết rượu. Chi tiết và cách xử dụng phép lạ đuợc thực hiện vào ngày thứ ba khiến cho chúng ta nghĩ đến cụm từ ‘ngày thứ ba’ đuợc dùng để mô tả biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su; như vậy rõ ràng có sự nối kết giữa sự việc xẩy ra hôm nay với Mầu Nhiệm Phục Sinh.

Trong tiệc cưới hôm nay có Đức Giê-su, Mẹ Người và các môn đệ của Người nữa. Không khí tiệc cưới thật náo nhiệt, mọi người vui vẻ, đã sang ngày thứ ba rồi nên ai cũng có chút hơi men; vì thế không khí càng sôi nổi hơn. Mẹ của Đức Giê-su ngồi chung với bà con và bạn của Mẹ. Mẹ nhìn sang bàn của Chúa và các môn đệ, thấy họ đang nghe Chúa kể truyện, Người như là nguồn vui cho cả bàn. Mẹ gật gù, mỉm cuời mãn nguyện về con mình.

Kể từ ngày Đức Giê-su rời nhà ra đi rao giảng. Mẹ đã chúc phúc cho Người và vẫn thường xuyên theo dõi các việc làm của Người. Cách đây không lâu, Mẹ nghe bà con kể việc Đức Giê-su chịu phép rửa bên bờ sông Gio-đan. Họ cho Mẹ biết, trong lúc Đức Giê-su đang chịu phép rửa thì tầng trời mở ra và có tiếng Chúa Cha phán “Này là Con ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.” Họ thật sửng sốt khi chứng kiến việc kỳ diệu đó. Riêng Mẹ thì vẫn ghi nhớ các sự kiện, lời nói xẩy ra cho con mình vào sâu thẳm tận đáy lòng.

Đang chìm đắm trong mối suy tư về con của mình. Bỗng nhiên, Mẹ khám phá ra sự việc tiệc cưới đã hết rượu! Làm sao chuyện như thế này có thể xẩy ra được. Trước khi khai mạc tiệc cưới, họ đã chuẩn bị thật kỹ lưỡng; thế mà làm sao vẫn có thể xẩy ra như thế này. Thật là xấu hổ với nhà gái và bà con hai họ khi để cho tiệc cưới lâm vào hoàn cảnh này. Mọi người đều bối rối.

Trong lúc đó, sau khi kể truyện cho các môn đệ nghe, Đức Giê-su đứng dậy đi dạo chung quanh vườn tiệc và dường như không hề biết chuyện gì đã xẩy ra. Mẹ đứng dậy bước ra gặp Người với dự tính xin Chúa can thiệp. Bỗng nhiên, Mẹ cảm thấy duờng như có một tiếng nói vang lên trong tâm hồn của Mẹ như sau: “Mình đang bảo vệ con hay bảo vệ chính mình.” Một mặt, lời của cụ già Simeon ‘một luỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà’ vẫn vang vẳng bên tai; mặt khác Mẹ lại nhớ đến điều mà Mẹ suy gẫm hằng ngày là xin Chúa cho Mẹ biết mở rộng con tim, mở rộng vòng tay để hành xử trong tự do và chấp nhận ý định của Thiên Chúa sẽ thực hiện trong và qua con của Mẹ. Vì thế, ‘đừng sợ nhưng hãy tin’ vẫn là châm ngôn trong cuộc sống của Mẹ.

Đến lúc đó, Mẹ biết ngay Giờ của con đã đến. Vì thế, Mẹ mạnh dạn bước đến nói với Đức Giê-su ‘Con ơi, họ hết rượu rồi.’ Mẹ ám chỉ đến tình trạng của đám cuới. Mẹ chỉ nói đuợc như thế.

Phần Đức Giê-su, sau khi nghe Mẹ thông báo về tình trạng hết ruợu của nhà đám, Người nhìn vào trong nhà, thấy rõ vẻ bối rối của họ, Người biết những gì đã xẩy ra. Tuy nhiên, quay sang Mẹ, Người ngập ngừng nói ‘Mẹ ơi’, rồi im lặng mới nói tiếp ‘thưa bà, chuyện đó có can hệ gì đến tôi và bà, giờ tôi chưa đến.’ Câu nói hơi khó nghe. Nhưng ở đây, Đức Giê-su muốn tỏ rõ lập trường về mối quan hệ giữa Đức Maria và Người. Liên hệ máu huyết tuy quan trọng, nhưng vẫn không bằng mối tương quan của những ai luôn tìm kiếm và thực hiện điều Thiên Chúa muốn. Vì vậy, vấn đề quan trọng là Người và Mẹ Người cần thi hành ý định của Thiên Chúa.

Dấu lạ này xẩy ra ở đầu sứ vụ. Việc của Người còn dài. Giờ Thiên Chúa tôn vinh Người chưa đến. Người cần thi hành ý muốn của Chúa Cha trước. Câu trả lời của Đức Giê-su ‘Giờ tôi chưa đến’ ở đây khiến Mẹ nhớ lại lời mà Người đã nói trong đền thờ là ‘Cha Mẹ không biết rằng con phải lo việc cha con sao’.  Mẹ tin vào sự lựa chọn của Đức Giê-su. Người chỉ muốn tùng phục và vâng nghe theo ý của Thiên Chúa mà thôi, nên Mẹ cũng chẳng cảm thấy buồn, bèn quay vào trong nhà và bảo những người giúp việc là “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Nghe Đức Maria nói thế, họ nhìn nhau ngạc nhiên. Còn Mẹ thì buớc vào nhà để Đức Giê-su đứng đó cầu nguyện với Cha Ngài là Abba.

Một lát sau. Mẹ nghe thấy Đức Giê-su sai bảo gia nhân đổ đầy nước vào sáu chum đá dành cho việc rửa tay trước khi nhập tiệc. Những người giúp việc nghe xong lịnh truyền của Chúa bèn cảm thấy bối rối. Bởi vì, nghi thức rửa tay trước khi nhập tiệc đã hoàn tất, giờ đây cần đổ đầy nước vào các chum để làm gì! Tuy vậy, họ cũng không hỏi lại Người. Chỉ biết vâng nghe và làm theo. Sau đó Đức Giê-su yêu cầu họ đem nuớc ra cho ông quản tiệc. Nước đã biến thành rượu mà ông quản tiệc không hề biết. Chỉ có những người cộng tác biết mà thôi!

Phần Mẹ, qua mẩu đối thoại hôm nay giúp chúng ta nhận ra niềm tin của Mẹ, luôn kiên cường, phó thác và hết lòng cậy trông, không nghi ngại.

Anh chị em thân mến,

Có một sự biến chuyển thật diệu kỳ ở đây. Đó là từ đầu trình thuật chúng ta chưa hề biết ai là chú rể. Theo tuc lệ của người Do thái thì chú rể là người cung cấp rượu. Đến lúc này, qua việc Đức Giê-su biến nuớc thành rượu chúng ta nhận ra ý của Thánh sử muốn công bố cho chúng ta biết Đức Giê-su không chỉ là rượu mới, mà còn là Chủ cung cấp ruợu cho muôn dân. Người là chủ bữa tiệc hoan lạc của ngày cánh chung, mà hiện nay chúng ta cùng nhau cử hành trong các Thánh lễ.

Tại Cana, trong tiệc cuới hôm nay, Đức Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Na-im, Người đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người Mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi cho con của bà sống lại. Ở Giê-ri-cô, Nguời đã biến tâm hồn ích kỷ, chỉ biết vơ vét của ông Da-kêu thành một tâm hồn quảng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, lúc mà thiên hạ tưởng như Người đã bó tay; nhưng chính trong lúc đó Người đã biến đổi kẻ trộm thành người khách đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Nguời đã biến đổi sự chết thành sự sống.

Vì thế, qua dấu lạ hôm nay, Đức Giê-su đã tỏ bầy cho chúng ta nhìn thấy vinh quang của Người. Phải chăng đây cũng là cuộc hiển linh, cuộc tỏ mình để biến đổi tất cả những ai tin vào Người trở thành rượu thơm ngon hảo hạng, dành cho thế giới đang có nhiều sự đổi thay hôm nay.

Chúng ta đang sống giữa thế giới với nhiều sự đổi thay nhanh như chớp, người tín hữu cần đến với Đức Giê-su là nguồn của mọi sự đổi mới. Chỉ trong Người thì mọi sự thay đổi mới bền vững và có giá trị lâu bền. Hãy đến với Chúa, Người sẽ biến đổi cuộc sống tẻ nhạt, không chút đổi thay của chúng ta thành rượu ngon cho mọi bữa tiệc mà chúng ta cùng tham dự. Amen!

ĐỨC GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA.

 

Anh chị em thân mến,

Lễ Chúa Giê-su Chịu Phép Rửa Tại Sông Gio-đan là một sự kiện quan trọng trong lịch phụng vụ của Hội Thánh Công Giáo. Lễ này được cử hành vào Chúa Nhật sau Lễ Hiển Linh, đánh dấu kết thúc Mùa Giáng Sinh và bắt đầu Mùa Thường Niên.

Đây là một biến cố mang ý nghĩa thật quan trọng, nó đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Chúa. Sự kiện xẩy ra hôm nay kết thúc quãng đời ẩn dật và báo trước cuộc sống công khai của Người. Kể từ hôm nay, Người bắt đầu sứ vụ giảng dạy và chữa lành, một sứ vụ sẽ kết thúc bằng cái chết trên Thánh Giá sau này. Chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa của sự kiện và áp dụng vào cuộc sống bài học của phép rửa mà Chúa đón nhận hôm nay.

Trước tiên, qua việc đón nhận phép rửa bởi Gio-an, Đức Giê-su đã tỏ cho chúng ta thấy mối dây liên đới của Người với toàn thế nhân loại, đang trông chờ ơn cứu độ. Khi làm việc này, Đức Giê-su đã nói lên tính hòa đồng giữa Người và chúng ta, Người đành chấp nhận mất tất cả và trở thành một người như chúng ta.

Ngoài ra, với hành động tự hạ của Người, Đức Giê-su đã hàm ý loan báo cho chúng ta biết về phép rửa bằng chính sự chết của Người trên Thánh Giá; đó chính là phép rửa mà Người sẽ vui lòng nhận lãnh để sống trọn vai trò của ‘người tôi tớ đau khổ’ mà Thiên Chúa sai đến để cứu độ muôn dân. Vì tình yêu, Đức Giê-su đã hoàn tất ý định của Thiên Chúa và đồng ý đi đến cùng, cho dù phải đón nhận phép rửa bằng máu trên Thánh Giá để xóa bỏ tội lỗi của chúng ta.

Hơn thế nữa, theo các nhà chuyên môn Thánh Kinh thì việc Đức Giê-su đã hạ mình xuống, chấp nhận thân phận tội nhân để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa mang một ý nghĩa là qua đó Người đã thánh hóa nước và ban cho nước một hiệu quả kỳ diệu, đó là trao ban ơn sủng. Hay nói cách khác, chính nhờ việc chấp nhận chia sẻ thân phận của hàng ngũ tội nhân hôm nay và hành vi dâng hiến trọn vẹn sau này trên Thánh Giá, Người đã thiết lập bí tích Rửa tội.

Như vậy, phép rửa mà Đức Giê-su đón nhận bên bờ sông Gióc-đan bởi Gio-an Tẩy giả mang đến một ý nghĩa mới, đầy đủ và thiêng liêng hơn. Qua biến cố này, căn tính của Đức Giê-su được lộ diện. Thần khí đã xuống trên Người bằng hình chim bồ câu. Hơn thế nữa, trong lúc tự hạ mình xuống như vậy, Người đã được Chúa Cha nâng lên qua lời xác nhận: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.”

Thưa anh chị em, với chúng ta cũng vậy.

Kể từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta cũng đã được Chúa Cha nhận làm con cái Ngài. Những gì mà Thiên Chúa đã nói với Đức Giêsu trong nghi lễ thanh tẩy hôm nay cũng là điều mà Chúa Cha nói với mỗi người chúng ta, đó là qua bí tích rủa tội, chúng ta không chỉ sạch mọi tội khiên mà còn được diễm phúc là thành viên trong gia đình của những con yêu dấu của Thiên Chúa.

Trong bí tích rửa tội, chúng ta đã được ghi ấn tín và trở thành Con Thiên Chúa, thuộc về gia đình của những người môn đệ của Đức Giê-su. Phép rửa không chỉ là một nghi thức; nhưng đó là cách thức mà Thiên Chúa đã dùng để xác định rằng chúng ta thuộc về cộng đoàn tín hữu, những người môn đệ dấu yêu của Người. Tập thể của những người con mà Thiên Chúa yêu dấu và dĩ nhiên chúng ta cũng cố gắng làm vui lòng Ngài. Tuy chúng ta lĩnh nhận bí tích này duy chỉ một lần trong đời, nhưng căn tính làm Con Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa, cần được phát triển mãnh liệt trong cuôc sống thường ngày của chúng ta.

Vì thế, hôm nay khi mừng lễ Đức Giê-su chịu phép rửa. Hội Thánh mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống, tuyên xưng lại niềm tin và quyết tâm sống trọn lời tuyên hứa trong ngày lĩnh nhận bí tích rửa tội của mỗi người. Từ đó, chúng ta có nhiều cơ hội sống tốt hơn, thiện hảo hơn, sống đúng theo yêu cầu mà Đức Giê-su đã tỏ bầy cho chúng ta là những môn đệ chân chính của Thầy.

Và cho dù vô tội. Nhưng hôm nay Đức Giê-su đã hoà mình vào dòng chảy của những con người tội lỗi để thay thế chúng ta thì giờ đây qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi mặc lấy Đức Ki-tô, trở nên một với Đức Ki-tô, có nghĩa là qua bí tích rửa tội chúng ta đuợc mời gọi trở thành một Đức Kitô khác.

Cho nên, vẫn biết rằng chúng ta chỉ được rửa tội một lần trong đời, nhưng còn một điều quan trọng hơn là trong cuộc sống thường ngày chúng ta phải sống và giữ lời hứa rửa tội trong suốt cuộc đời. Có nghĩa là buớc vào con đuờng của Chúa, mặc lấy cuộc sống và sứ vụ của Chúa, để càng ngày càng trở nên giống Chúa hơn. Và đó chính là Tin Vui, mà chúng ta những người đã được lĩnh nhận bí tích rửa tội cần đem đến cho thế giới hôm nay. Amen!

 

Wednesday, 1 January 2025

HAI CUỘC TÌM KIẾM, AI TÌM AI?


Anh chị em thân mến,

Trình thuật Tin Mừng trong ngày Lễ Chúa Hiển Linh hôm nay mô tả hai cuộc tìm kiếm:

Trước tiên là con đường tìm kiếm Chúa của các nhà chiêm tinh. Các nhà chiêm tinh chuyên nghiên cứu thiên văn và nhìn ngắm sao trời để đoán ra vận mạng con người, cách riêng một số người nổi tiếng. Vào một đêm kia, trong khi nhìn trời ngắm sao, họ bỗng nhận ra có một vì sao lạ xuất hiện bên phương Đông. Ngôi sao này rực chiếu hào quang, tỏa chiếu ánh sáng hơn các vì sao mà họ đã từng ngắm. Theo kinh nghiệm và dựa vào khả năng chuyên môn. Họ biết đây là vì sao chiếu mệnh của một vĩ nhân vừa được sinh ra cho thế giới này. Lập tức, các nhà chiêm tinh tuy ở các nơi khác nhau, họ cũng không có phương tiện truyền thông như điện thoại hay hệ thống mạng để báo cho nhau biết khám phá này. Họ không ai bảo ai, lập tức lên đường tìm kiếm.

Hành trình tìm kiếm của họ không dễ dàng. Dù có ngôi sao dẫn đuờng, nhưng ngôi sao lúc ẩn lúc hiện. Cũng có lúc các ông bị mất dấu; không phải do các ông đi lạc; nhưng ngôi sao không xuất hiện thì biết lối nào để đi. Trong hoàn cảnh đó, họ không hề thất vọng, tiếp tục tìm kiếm bằng cách đến hỏi vua Hê-rô-đê về vị quân vương mới được sinh ra ở nơi nào? Nghe tin ấy, Hê-rô-đê một mặt tìm kiếm mặt khác tìm cách thủ tiêu người có thể tranh quyền đoạt vị với ông ta sau này? Vua hỏi các thượng tế và kinh sư để tìm câu trả lời và báo cho ba nhà chiêm tinh biết về nơi chốn đấng chăn dắt dân của Thiên Chúa sẽ ra đời.

Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó biết Chúa theo kinh điển mà không hề cất bước đi tìm nên cái biết của họ đã chẳng giúp gì cho họ. Vua Hê-rô-đê cũng biết; nhưng điều mà vua biết không đem vua lại gần Chúa; trái lại cái biết đó lại là nguyên nhân đem đến cho vua nỗi lo sợ. Phát sinh từ nỗi sợ hãi hoang tưởng, sợ mất quyền hành, ông ta đã giết hết những ai là mầm mống đe doạ sẽ lật đổ ngai vàng của ông.

Sau cùng, ngôi sao lại xuất hiện dẫn các nhà chiêm tinh đi đến nơi mà họ muốn đến. Thấy hài nhi được quấn tã nằm trong máng cỏ. Họ đã sụp lậy và dâng tặng những bảo vật quí giá nhất rồi sợ vua Hê-rô-đê giết, họ đã theo đường khác mà về nhà. Thật tiếc cho họ vì họ đã hoàn tất một cuộc hành trình, đã vất vả tìm kiếm, đã đi đến đích nhưng cuối cùng lại trở về nơi xưa chốn cũ. Họ vẫn chỉ là những nhà chiêm tinh. Họ chưa phải là môn đệ của Chúa!

Thật ra, hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh tuy đáng quí trọng, nhưng đây không phải là mối bận tâm của Thánh Sử. Điều mà Thánh sử muốn nhấn mạnh là sự xuất hiện của Đức Giê-su trong chương trình yêu thương và tìm kiếm con người trở về nẻo chính đường ngay của Thiên Chúa.

Chương trình tìm kiếm con người của Thiên Chúa đã được khởi sự ngay sau khi con người sa ngã. Người tìm đủ mọi cách để tỏ bầy tình yêu và lòng thương xót để mời gọi con người trở về. Và hôm nay, sau khi Giáng trần, Thiên Chúa muốn tỏ bầy cho nhân loại biết về chân tướng của hài nhi. Do đó, việc Chúa hiển linh là một sáng kiến phát sinh từ kho tàng ân huệ của Thiên Chúa. Ngôi sao cũng là một cách thức để dẫn đưa ba nhà chiêm tinh; thậm chí, Chúa có thể dùng cả những kẻ gian ác như Vua Hê-rô-đê như là cách thức soi sáng, cung cấp thông tin giúp họ khỏi lạc hướng. Như vậy, Thiên Chúa luôn tìm kiếm bằng cách soi sáng cho những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi họ cảm thấy ánh sáng lúc ẩn lúc hiện, đường đi không rõ và tương lai lại mịt mù.

Việc tỏ mình của Thiên Chúa đã trở nên trọn vẹn khi Đức Giê-su đã cho đi tận cùng cuộc sống của mình. Chính việc cho đi và tự hiến sau cùng của Người lại là cuộc tỏ mình huy hoàng nhất về chân tuớng đích thật của Người qua biến cố Phục Sinh. Vào ngày đó, Đức Giêsu bộc lộ trọn vẹn thần tính của Thiên Chúa nơi Người. Và chính nhờ ơn Phục Sinh mà chúng ta nhận ra thần tính của Đức Chúa. Các môn đệ là nhân chứng về cuộc Hiển Linh Phục Sinh. Niềm tin của chúng ta hôm nay cũng dựa vào lời chứng của các tín hữu tiên khởi; đó chính là: Thiên Chúa đã tỏ mình trong thân phận con người của Đức Giêsu, Người đã ở giữa chúng tôi và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người từ Chúa Cha mà đến.

Anh chị em thân mến,

Như vậy với trình thuật Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho mọi người biết rằng: với Chúa không ai là người ngoài cuộc, tất cả đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ. Ai ai cũng đựợc diễm phúc làm con của Ngài. Ai ai cũng đuợc mời gọi sống để tỏ bầy sự hiện diện của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã làm người, đã tỏ chân tướng đích thật của Ngài cho chúng ta nhận biết. Nhưng chúng ta đã làm gì để việc hiển linh của Thiên Chúa trở thành lời chứng sống động trong cuộc sống mình? Cũng có lúc chúng ta cảm thấy Chúa quá gần gũi, sát bên mình và thúc giục chúng ta ra đi để thực hiện các việc cả thể. Với ý ngay lành chúng ta tuởng như là Chúa rất cần chúng ta để làm các việc phi thường… Nhưng rồi sứ mạng đâu dễ dàng, trải qua những giây phút chán nản và thất vọng khiến chúng ta muốn bỏ cuộc. Nhưng có một điều khiến ta ngạc nhiên và ngạc nhiên luôn mãi là Thiên Chúa không chán, không thất vọng về ta. Ngài dùng đủ mọi cách thức để bộc lộ và hướng dẫn chúng ta: Từ ngôi sao lúc ẩn lúc hiện, đến người không tin như Hê-rô-đê và các bậc vị vọng am tường đạo Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng họ, không chừa một ai, để hỗ trợ, động viên, nhắn gửi cho ta một sứ điệp là ta vẫn đáng tin, đừng chán nản, hãy tiếp tục lên đuờng, căng buồm xuôi gió ra khơi.

Sáng kiến là của Thiên Chúa. Ngài đã đến ngay tại nhà, trong hoàn cảnh riêng của mỗi người. Như các nhà chiêm tinh, chúng ta hãy lên đuờng. Con đuờng làm chứng về việc tỏ mình, hiển linh của Thiên Chúa không nằm xa và ở ngoài khả năng của chúng ta. Nó nằm ngay ở bản thân, trong gia đình, giữa vợ chồng và con cái, giữa kẻ tin và người không tin, giữa những ai đủ can đảm để cho chất ‘người’ lớn hơn và bóp nghẹt chất con (vật) của mình. Để thể hiện lòng quyết tâm này, chúng ta hãy:

-        Trao cho nhau nụ cuời, các câu nói cảm thông hơn là trách móc, ghen tỵ và oán than nhau.

-        Đến với nhau bằng con tim mở rộng để khoan hồng và dung thứ cho những thiếu sót và bất toàn của nhau.

-        Mở rộng đôi tay để đón tiếp hơn là loại bỏ, hất hủi và xua đuổi nhau.

Nói chung, chúng ta làm cho Chúa được hiển linh bằng cách tìm kiếm và thực thi Lời Chúa – lời yêu thương, nâng đỡ, hỗ trợ và khích lệ nhau, hơn là chỉ biết ngồi đó mà kêu nài Lậy Chúa và Lậy Chúa xuông thôi đâu.

Đó là một số đề nghị rất đơn sơ mà ai trong chúng ta cũng có thể thực hiện. Tất cả đều là cơ hội để vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện qua lối sống chứng nhân, tuy tầm thường nhưng lại chứa đựng quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa nơi mình. Cầu xin được như thế. Amen!