Trong dụ ngôn mười trinh nữ mà chúng ta đã nghe vào
tuần trước, Thánh Mát-thêu khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng trong khi
chờ ngày Chúa đến. Giống như các trinh nữ khôn ngoan, chúng ta phải chuẩn bị
cho đèn đức tin của mình luôn được chiếu sáng bằng lượng dầu bác ái mà chúng ta
phải có để chia sẻ cho tha nhân. Có nghĩa là chúng ta được mời gọi tỉnh thức
trong công việc, chứ không thụ động để đợi chờ mà thôi. Tiếp tục cùng một chủ
đề, trong dụ ngôn các nén bạc, Thánh Mát-thêu muốn nhắn nhủ trong lúc chờ ngày
Chúa đến, chúng ta hãy làm việc chăm chỉ để sinh lợi cho Chúa và tha nhân bằng
những nén bạc, ám chỉ đến những hồng ân, mà Chúa đã giao.
Câu chuyện nói về việc ủy thác công việc quản lý
tài sản của ông chủ cho các gia nhân. Trước khi đi vắng, ông đã trao quyền kinh
doanh cho họ. Ông không muốn công việc bị đình trệ và không phát triển trong
thời gian ông đi vắng. Tùy theo khả năng của từng người mà ông giao việc. Ông
giao cho người thứ nhất năm nén bạc, người kế tiếp chỉ có hai nén, đến người
thứ ba còn có một nén. Sự khác biệt này ám chỉ chủ ý của ông chủ mà các gia
nhân phải nhận ra, đó là những gì họ có, hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của ông
chủ. Ông không bất công, trái lại tùy theo khả năng của họ mà ông chủ đã giao.
Không ai được giao các công việc quá sức mình. Như vậy, những gì họ có đều
thuộc về chủ. Nói khác đi, không có gì họ có thuộc về họ cả. Bổn phận của họ là
làm sinh lợi những nén bạc mà ông chủ đã giao.
Khi trao những nén bạc cho các gia nhân ông chủ
đã không ban cho họ một lịnh truyền hay lời chỉ dẫn nào rõ ràng. Điều này có
nghĩa là ông tín nhiệm và tôn trọng tự do của họ. Dù được tự do, nhưng người
nhận hai nén và năm nén đã không lạm dụng tự do để làm giầu cho bản thân, bởi
vì họ biết rằng sẽ có một ngày ông chủ sẽ đến tra vấn về những gì mà họ đã
nhận. Họ bắt tay vào việc ngay. Ở đây, chúng ta phải ngầm hiểu là hai người tôi
tớ đầu tiên này đã biết ý của ông chủ. Họ không làm theo ý riêng mà tìm kiếm và
tuân theo ý định của ông chủ. Muốn được như thế họ cần phải thiết lập mối quan
hệ thật tốt với chủ của mình.
Còn về gia nhân thứ ba, cho dù ông chỉ nhận được
có một nén, nhưng đó là tất cả những gì ông có thể đảm đương được. Vẫn biết
rằng, ngày nay người ta gửi tiền tại các ngân hàng. Ngày xưa cha ông mình có
thói quen chôn tiền của hay vàng bạc. Vì thế, việc chôn cất nén bạc mà người
đầy tớ thứ ba làm hôm nay có thể hiểu được và đâu có gì là sai trái. Việc làm
này của ông có thể nói lên tính thận trọng và muốn bảo quản tài sản của chủ
được an toàn. Kinh doanh mà lỗ vốn thì còn thiệt hại hơn là chôn cất của cải.
Huề vốn là tốt rồi. Còn về phía ông chủ tuy chẳng có lời mà cũng chẳng lỗ vốn. Đó
là ý nghĩ của ông và dường như những gì ông nghĩ, giải pháp ông đưa ra không
hợp với ý của chủ.
Anh chị em thân mến,
Qua dụ ngôn các nén bạc, Chúa muốn nhắc chúng ta nhớ
rằng: mỗi người sinh ra trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ân huệ
đặc biệt và khác nhau. Không ai giống ai. Mỗi người là một cá thể thật quan
trọng và đều có một chỗ đứng riêng biệt trong trái tim yêu thương và chương
trình của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là nhận ra vị trí của mình để ý
thức hơn trong việc quản lý những gì mà Chúa trao ban cho con người. Trí khôn,
khả năng đặc biệt mà chúng ta hay gọi là thiên phú và những gì ta đang có đều
là những ân huệ nhưng không của Thiên Chúa ban cho hầu đem lại lợi ích cho nhân
loại, chứ không chỉ dành cho riêng mình mà thôi. Do vậy, tất cả mọi người đều
được mời gọi làm giàu và sinh lợi cho Chúa những hồng ân mà mình đã nhận.
Người nhận đuợc một nén bạc ít hơn người được năm
nén, đó là điều rõ ràng, nhưng đối với Chúa thì một nén bạc là tất cả những gì mà
ông ta cần. Điều quan trọng không nằm ở chỗ ông ta nhận nhiều hay nhận ít,
nhưng ở chỗ là người đó biết dùng tài năng đó như thế nào. Bổn phận của chúng
ta là sinh lợi không cho mình mà là cho chủ. Nhưng, người có một nén đã chọn việc
đem chôn giấu đi, rồi sau đó lý luận và đổ thừa cho chủ.
Trong câu chuyện không hề có một chi tiết nào nói
ông chủ là người hà khắc; thế mà ông ‘một nén’ này đã không nhận ra sự sai lầm
của mình. Ông tuởng là ông đã biết ý của chủ, tình thực ông đã sai, chỉ biết
nghĩ đến sự an toàn cho chính bản thân rồi làm theo ý mình; sau đó còn gán cho chủ
ý nghĩ sai lầm của ông: “…, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo,
thu nơi không vãi.” Ý nghĩ về chủ như thế khiến ông sợ hãi. Và trong tâm trạng
sợ hãi như thế ông không nhìn ra ý muốn của chủ. Ông chỉ quan tâm đến việc bảo
vệ nén bạc hơn là phát huy sáng kiến để thực hiện công việc mà chủ đã giao cho
anh làm.
Đây là một trong những sai lầm mà chúng ta thường
vấp phải. Thay vì làm giầu có các ân huệ đã đuợc lĩnh nhận, chúng ta lại xử
dụng nó để làm giầu cho chính mình, để đầu tư vào ‘cái tôi’ và làm cho nó phình
to hơn, phình đến độ chúng ta không còn biết ai làm chủ nữa. Nhận bổng lộc từ
Chúa, thế mà mới sinh lợi được một chút mà đã muốn thay quyền Chúa làm chủ đời
mình. Phải chăng ‘cái tôi’ và tham vọng đã làm thay đổi vị trí của Chúa trong cuộc
sống chúng ta. Thay vì làm vinh danh Chúa được cả sáng thì bằng mọi cách và dưới
mọi phuơng tiện, chúng ta làm để mình được tôn vinh. Như vậy, có nghĩa là Chúa đã
bị chôn vùi trong chính cái tôi của mình.
Dựa vào kinh nghiệm khi làm việc, chúng ta có thể
nhìn thấy một số hiện tuợng không mấy tốt đẹp vẫn thuờng xẩy ra cho một số người;
đó là khi đuợc trọng dụng và kính phục thì họ rất hăng say trong các công tác.
Việc nào cũng có mặt, công tác nào cũng tham gia. Họ không chỉ cống hiến tài
năng và tiền của mà còn khuyến khích và kêu gọi các thành viên trong gia đình
cùng tham gia. Nhưng khi gặp chuyện bất bình, bị chạm vào ‘cái tôi’, họ không
chấp nhận sự góp ý của người khác, bèn lập bè tạo phái, rồi tìm những sơ hở của
người khác và buông ra những lời chỉ trích thật nặng nề và thiếu tình bác ái.
Thậm chí, họ còn có ý nghĩ là chỉ mình họ mới có đủ khả năng để hòan tất tốt
đẹp những công tác mà hiện nay chính họ không muốn đụng ngón tay vào nữa.
Trên thực tế, đôi khi chúng ta quá bận tâm đến
cuộc sống của chính mình như công danh, sự nghiệp đến nỗi không còn thời gian
lo hoàn tất công việc mà Thiên Chúa đã yêu cầu chúng ta là xây dựng Nước Chúa
trước còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho thêm. Những lời kêu gọi về việc tham gia
mở mang Nước Chúa đòi hỏi một đức tin mạnh mẽ, lòng quảng đại và sự hy sinh;
nhất là đôi khi, lời kêu gọi của Nước Trời đòi hỏi chúng ta đi ngược lại những
gì mà thế gian mang lại.
Thật vậy, đối với những tín hữu, môn đệ của Chúa,
chúng ta được mời gọi hành xử tự do với vốn liếng đã được trao ban. Sự tự do
này khiến chúng ta liều lĩnh chấp nhận mọi thua thiệt để trung tín với những
đòi hỏi triệt để của Tin Mừng. Liều lĩnh trong niềm tin vào Thiên Chúa là một
trong những đức tính cần thiết mà chúng ta cần có. Liều lĩnh để làm chứng về
tình yêu của Thiên Chúa là một ơn gọi vô cùng cao quí mà Chúa đã mời gọi. Đây còn
là một đòi hỏi vô cùng cần thiết cho thế giới bị tục hoá mà chúng ta đang sống hôm
nay.
Hành vi của lòng tin được hỗ trợ và đánh giá bởi
lòng mến qua các việc bác ái như Thánh Gia-cô-bê khuyên: “Giả như có anh chị em
nào không có áo che thân, không có của ăn hằng ngày, mà anh chị em lại nói với
họ: “hãy đi bằng an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ
họ đang cần, thì nào có ích gì? Cũng vậy, đức tin không có việc làm thì quả là
đức tin chết.” (Gia-cô-bê 2: 15-17) Và đức tin mà không dựa trên lòng mến thì
nào có ích gì?
Thưa anh chị em,
Hôm nay chúng ta mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt
Nam, cha ông chúng mình. Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận việc các Ngài
đã dùng hết các nén bạc mà Chúa đã ban cho các Ngài. Có vị đã nhận được năm
nén, vị khác được hai nén, và đại đa số chỉ có một nén. Tuy nhiên các ngài đã
dùng hết, không vì mục đích làm gương sáng cho con cháu mà muốn chứng minh lòng
yêu mến của các Ngài dành cho Chúa. Chính nhờ tình yêu mãnh liệt và can trường
dành cho Chúa mà các Ngài đã can đảm, chấp nhận mọi khổ hình do các thế lực thù
nghịch với đức tin đề ra.
Sử sách đã ghi lại bao nhiêu loại cực hình khác
nhau đã đuợc dùng để tra tấn các ngài như: nhẹ thì gông cùm, giam tù, bỏ đói;
nặng hơn một chút là cho voi dầy, phơi nắng và ném xuống sông; quyết liệt hơn
thì bị chặt đầu, bị thắt cổ hay bị đốt cháy; man rợ và hiểm độc nhất là bị phân
thây ra từng mảnh hay là tùng sẻo… Chỉ cần tuởng tượng những cực hình nói trên
cũng khiến cho con người ngày nay run sợ hãi hùng.
Tất cả các
cực hình đó không nhắm đến các nỗi thống khổ về phần xác; nhưng tất cả đuợc áp
dụng để thử lòng trung tín với Chúa của các ngài. Vì thế, thật là thiếu sót,
nếu chúng ta chỉ nhấn mạnh đến những nét hào hùng, những tấm gương can đảm, những
cực hình mà cha ông chúng ta đã phải gánh chịu mà quên đi động lực chính đã
giúp tổ tiên mình đi đến cùng; đó chính là lòng yêu mến Chúa Giê-su của các
ngài. Vì yêu mến mà cha ông chúng ta đã từ khước tất cả và chấp nhận chết cho
tất cả.
Thật vậy, sự hiểu biết giáo lý hay những tín điều
về Thiên Chúa của các ngài thật nông cạn. Các ngài cũng không có những suy tư
cao siêu về thần học. Nhưng khi trở thành tín hữu ‘một nén’, các ngài đã yêu
Chúa bằng tất cả con người của các ngài. Đỉnh cao của tình yêu nơi các ngài
được thể hiện qua việc chấp nhận cái chết không vì phần thưởng đã dành sẵn cho
những ai trung tín với Chúa mà thôi; nhưng qua hành vi tự hiến các ngài đã noi
gương Chúa Giê-su, Đấng đã hiến thân để bày tỏ lòng mến tuyệt vời của Thiên
Chúa cho nhân lọai.
Tiến đến sự chết bằng niềm tin và lòng mến cho
nên tâm hồn cha ông của chúng ta rất thư thái và bình an, miệng các ngài vang
lên những lời tha thứ và trên môi là nụ cuời hân hoan của niềm vui sắp đuợc đoàn
tụ với Chúa Giêsu, Đấng mà các ngài cả đời yêu mến và trông đợi.
Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi sống trọn vẹn
và sống cho đến giây phút cuối cùng bằng lòng mến. Đó chính là tâm huyết của
cuộc sống. Và đó cũng là phương thức làm giàu các ân huệ và khả năng mà Chúa đã
trao ban để sinh lợi cho Chúa, không cho sự an toàn của bản thân mình. Rồi,
cũng giống như cha ông mình, các bậc tiền bối đã sống trọn vẹn lòng mến vì danh
Chúa Kitô, mỗi người chúng ta đến lúc đó, sẽ nhận đuợc Lời Chúa phán rằng: “Hỡi
con yêu dấu, con đã trung tín trong việc nhỏ mà ta đã trao phó, thì giờ đây ta
sẽ đặt con trông nom việc lớn hơn. Hãy vào mà hưởng niềm vui với Ta.”
Ước gì
trong niềm hãnh diện là con cháu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta biết
noi gương sáng của các Ngài để lại, biết dùng mọi ân ban của Thiên Chúa mà làm
sáng danh Chúa và sinh lợi cho Người nữa. Amen!
No comments:
Post a Comment