Wednesday, 29 December 2021

HÃY ĐỂ THIÊN CHÚA TỎ MÌNH!

 

Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể lại việc tìm kiếm của các nhà khôn ngoan thông thái, còn được gọi là các chiêm tinh gia. Họ chuyên nghiên cứu sao trời và tin rằng mỗi người chúng ta có một ngôi sao chiếu mệnh. Và vào đúng lúc Đức Giê-su sinh ra thì họ đã nhìn thấy một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và theo kinh nghiệm dựa trên sự hiểu biết của họ thì ngôi sao đó ám chỉ một con người sẽ làm thay đổi bộ mặt thế giới mới được sinh ra. Họ đã theo dấu ngôi sao lên đường tìm kiếm và thờ lậy.

Như những người tìm kiếm, chúng ta cảm phục sự hy sinh, lòng can đảm, vượt qua bao gian khổ trên hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh. Nhưng thật ra, điều mà chúng ta cần để ý là qua biến cố này chúng ta nhận ra việc Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, chứ không còn chỉ riêng cho dân Do Thái mà thôi. Nguồn ơn cứu độ được ban cho mọi người.

Như vậy, thưa anh chị em.

Biến cố tỏ mình của Đức Giê-su cho muôn dân hôm nay giúp chúng ta nhận ra chiều kích tràn đầy của Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Giáng Sinh dù thế nào vẫn chỉ là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho dân Israel, dân riêng của Ngài. Với Lễ Hiển Linh, mầu nhiệm đó đạt đến mức toàn diện. Thiên Chúa sinh ra làm người và tỏ mình cho muôn dân muôn nuớc, bao gồm cả chúng ta. Việc tỏ mình là sáng kiến của Thiên Chúa, không ai có thể yêu cầu hay buộc Ngài phải làm chuyện đó. Nhưng, nếu chúng ta không nhận biết, không đón nhận và không loan báo cho nhau thì quả là một điều thiếu sót. Như thế, biến cố này còn đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình niềm tin và cách sống đạo của chúng ta.

Hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh không dễ dàng. Dù có ngôi sao dẫn đuờng, nhưng ngôi sao lúc ẩn lúc hiện. Cũng có lúc các ông bị mất dấu; không phải do các ông đi lạc; nhưng ngôi sao không xuất hiện thì biết lối nào để đi. Trong hoàn cảnh đó, họ không hề thất vọng; tiếp tục tìm kiếm bằng cách dò hỏi những ai đã được tiên báo về sự xuất hiện của con trẻ Giê-su. Họ đã hỏi các thượng tế và kinh sư về thời gian và nơi chốn của vị lãnh tụ, đấng chăn dắt dân Thiên Chúa sẽ ra đời.

Với chi tiết này chúng ta thấy rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó cũng là những người khôn ngoan thông thái. Họ còn hiểu biết đạo Chúa. Thế mà, những điều họ biết là cái biết của lý trí, dựa theo kinh điển mà không hề cất bước đi tìm cho nên cái khôn ngoan của họ, những điều họ biết cũng chẳng giúp gì cho họ. Còn Vua Hê-rô-đê cũng biết; nhưng điều nhà vua biết không đem vua lại gần Chúa; trái lại cái biết đó lại là nguyên nhân khiến cho vua lo sợ. Phát sinh từ nỗi sợ hãi hoang tưởng, sợ mất quyền hành; vua đã tìm cách tiêu diệt và giết hết những ai là mầm mống đe doạ sẽ lật đổ ngai vàng của ông. Cho dù như thế, nhưng Thiên Chúa vẫn dùng họ như dụng cụ khai lối chỉ đường cho người khác. Thiên Chúa luôn soi sáng cho những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, cho dù trên hành trình tìm kiếm, nhiều lúc chúng ta cảm thấy ánh sáng khi ẩn, khi hiện, đường đi không rõ và tương lai lại mịt mù.

Ngoài ra, sự việc tỏ mình của Thiên Chúa trong thân phận của trẻ thơ Giê-su hôm nay chỉ trọn vẹn khi Người đã cho đi tận cùng cuộc sống của mình. Chính việc cho đi và tự hiến sau cùng của Đức Giê-su mới là cuộc tỏ mình huy hoàng nhất về chân tuớng đích thật của Người qua biến cố Phục Sinh. Vào ngày đó, con người của Đức Giêsu được bao phủ trọn vẹn thần tính của Thiên Chúa. Và cũng chính nhờ ơn Phục Sinh mà chúng ta nhận ra thần tính của Đức Chúa. Các môn đệ là nhân chứng về cuộc Hiển Linh Phục Sinh. Niềm tin của chúng ta hôm nay cũng dựa vào lời chứng của các tín hữu tiên khởi; đó chính là: Thiên Chúa đã tỏ mình trong thân phận con người của Đức Giêsu, Người đã ở giữa chúng tôi và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người từ Chúa Cha mà đến.

Như vậy, với trình thuật Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho mọi người biết rằng: trong Chúa không ai là người ngoài cuộc hết. Tất cả đều được mời gọi đón nhận và làm chứng về ơn cứu độ. Ai ai cũng đựợc diễm phúc làm con của Ngài. Ai ai cũng được mời gọi sống để tỏ bầy sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây chính là hồng ân và sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.

Thưa anh chị em,

Thiên Chúa đã làm người, đã tỏ chân tướng đích thật của Ngài cho chúng ta nhận biết. Nhưng chúng ta đã làm gì để tỏ ra cho người khác nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình? Cũng có lúc chúng ta cảm thấy Chúa rất gần gũi, Người đang ở sát bên mình và thúc giục chúng ta ra đi để chu toàn sứ mạng. Với ý ngay lành chúng ta tuởng như là Chúa rất cần chúng ta để làm cho Danh Người cả sáng. Nhưng thực tế lại khác, có những giây phút buồn chán khi đối diện với muôn ngàn khó khăn khiến chúng ta dễ có khuynh hướng buông xuôi và bỏ cuộc… Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta lại gán cho Chúa ý nghĩ của mình là Chúa bỏ rơi con. Thật ra, Thiên Chúa không chán nản, không hề thất vọng về ta. Ngài luôn luôn dùng đủ mọi cách thức để bộc lộ, lôi kéo và hướng dẫn chúng ta.

Vì thế, giống như hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh, trong cuộc sống chúng ta cũng nhận ra dấu của ngôi sao, các dấu chỉ thời đại mà Chúa dùng để soi sáng và mời gọi chúng ta. Tất cả đều là ánh sáng của Chúa. Ngay cả có những lúc ánh sao bị biến mất thì Chúa lại dùng đường lối khác, như những con người giống Hê-rô-đê và những vị học giả thông thái am tường đạo Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng họ, không chừa một ai, để hỗ trợ, động viên, nhắn gửi cho các nhà chiêm tinh và mỗi người chúng ta một sứ điệp là ta vẫn đáng tin, đừng chán nản, hãy tiếp tục lên đuờng và căng buồm ra khơi.

Như vậy, sứ mạng làm cho người khác nhận ra Thiên Chúa nơi mình không nằm xa và ở ngoài khả năng của chúng ta. Nó nằm ngay trong bản thân, giữa gia đình, qua mối dây liên hệ giữa vợ chồng và con cái, giữa các kẻ tin và người không tin, giữa những ai đủ can đảm để cho Mầu Nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa tỏ mình qua các việc làm như:

-          Trao cho nhau nụ cuời, dành cho nhau các câu nói cảm thông hơn là trách móc, ghen tỵ và oán than nhau.

-          Đến với nhau bằng trái tim biết rung động để khoan hồng, dung thứ và đón nhận những thiếu sót và bất toàn của nhau.

-          Mở rộng đôi tay nhân ái để đón tiếp hơn là loại bỏ, hất hủi và xua đuổi nhau.

Nói chung, đó là các việc nói lên hành trình tìm kiếm và thực thi Lời Chúa bằng chính cuộc sống mình. Tất cả đều là lời mời gọi, là các cơ hội để Thiên Chúa được tỏ mình qua lối sống chứng nhân, tuy bình thường nhưng lại chứa đựng quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa nơi mình.

Cầu xin cho mọi người có lối sống nêu trên để qua đó, chúng ta có nhiều cơ hội bộc lộ thân thế và nguồn ơn cứu độ của Người cho muôn dân. Amen!

 

 

Wednesday, 22 December 2021

GIA ĐÌNH TÌM GẶP NHAU TRONG CHÚA.

 


Những dòng suy niệm về Lễ Thánh Gia năm nay được gửi đến anh chị em trong tâm tình của ngày Đại Lễ Mừng Chúa Giáng Sinh. Trước tiên, chúng tôi xin gửi đến quí cụ, quí ông bà và anh chị em lời nguyện chúc bình an. Ước mong niềm vui và ân huệ của Đấng Em-ma-nu-en, có nghĩa là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta’ được ứng nghiệm trong từng ngày sống của chúng ta. 

Chu kỳ phụng vụ năm nay xếp hai Lễ Giáng Sinh và Thánh Gia được cử hành vào một cuối tuần, sát bên nhau. Trong Lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng và tưởng nhớ cuộc thăm viếng vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng ta; Người không chỉ chia sẻ một chút ít; nhưng chia sẻ toàn diện. Người đến trong hoàn cảnh riêng của từng người. Người tìm kiếm và làm bạn với người tội lỗi và mất hướng đi. Và khi đến trong thân phận con người, Đức Giê-su cũng cần có một gia đình, một gia đình bình thường như mỗi gia đình của chúng ta. Gia đình của Chúa cũng không có ngoại lệ. Vì thế, chúng ta hân hoan mừng Lễ Thánh Gia để khám phá rằng có Chúa hiện diện thì gia đình có tất cả, và nếu không có Chúa thì các thành viên trong gia đình, dù là gia đình của Chúa, cũng dễ dàng lạc mất nhau.

Bài Tin Mừng của Lễ Thánh Gia năm nay kể lại việc tuân giữ lề luật của Thánh Giu-se và Đức Mẹ. Hàng năm, các ngài lên Giê-ru-sa-lem để tham dự các nghi lễ theo luật dậy. Nhưng lần này thì khác, có Đức Giê-su đi cùng. Người đã đến tuổi khôn, độ tuổi trưởng thành để tham dự các nghi thức tế tự dành cho người lớn, có nghĩa là tuy theo chân cha mẹ tham dự các nghi lễ, nhưng ý nghĩa sâu xa của các nghi lễ thì Người hiểu rõ. Trong khi đó, cha mẹ của Người cũng tham dự, nhưng chưa hẳn các ngài đã thấu hiểu sâu xa điều mà các ngài vẫn trung thành tuân giữ.

Khi mọi nghi lễ kết thúc, cha mẹ Người lên đuờng trở về nhà, trong khi đó Đức Giê-su vẫn còn ở Giê-ru-sa-lem mà các ngài không hề hay biết. Sau khi lạc mất Đức Giê-su, đến ngày thứ ba mới tìm thấy Người. Chi tiết ngày thứ ba mới tìm thấy Người và câu trả lời của Đức Giê-su “Sao cha mẹ lại tìm con?” làm cho chúng ta nhớ lại cũng vào buổi sáng ngày Phục Sinh, các thiên thần bên ngôi mộ trống đã hỏi các bà: “Sao các bà lại tìm Người sống ở giữa kẻ chết?” Ánh sáng Phục Sinh giúp chúng ta tìm thấy Chúa là Đấng đang hiện diện giữa chúng ta, thế mà nhiều khi chúng ta lại tìm kiếm Chúa trong đất dành cho kẻ chết, cho nên chúng ta lạc mất nhau.

Thưa anh chị em,

Khi công bố đoạn Tin Mừng này trong lễ Thánh Gia năm nay, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta một chân lý sâu xa đã hiện diện trong đời sống gia đình Thánh Gia, và đây cũng là điều mà mọi gia đình công giáo nên thực hiện. Đó là mọi thành phần trong gia đình phải xếp việc tìm kiếm và vâng phục ý định của Thiên Chúa lên hàng đầu. Và, đây chính là nền tảng căn bản trong cuộc sống gia đình.

Trước tiên chúng ta nhận ra việc tìm kiếm và vâng phục của Đức Giê-su. Người tùng phục và vâng nghe lời dậy bảo của cha mẹ mình. Nhưng không vì thế, Người lại quên đi bổn phận chu toàn sứ mạng cuả Thiên Chúa. Người đến để thực thi ý định của Thiên Chúa. Và một điều vô cùng đặc biệt đã xẩy ra ở đây cũng như trong suốt hành trình thực hiện sứ vụ là nhờ sự tìm kiếm và vâng phục của Người mà cha mẹ của Người cũng đi vào con đuờng làm trọn Thánh ý của Thiên Chúa.

Nói thì nói như thế, nhưng tiến trình tìm kiếm và vâng phục ý định Thiên Chúa của Thánh Giu-se và Đức Mẹ không phải là việc đã xẩy ra một sớm một chiều. Hối hả, bồn chồn và lo lắng trong khi tìm kiếm, để đến khi tìm thấy đuợc con của mình lại nghe Đức Giê-su giải thích về việc mà Người đang làm là việc trong nhà Cha, hai ông bà cũng chẳng hiểu lời Đức Giê-su vừa nói.

Việc tìm rồi gặp, gặp xong lại mất, mất rồi lại tìm thấy là những gì đuợc lập đi lập lại trong hành trình tìm kiếm của các ngài. Phải chờ cho đến khi ơn cứu độ được hoàn tất qua Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su thì cha mẹ Người mới hiểu rõ. Những gì bây giờ chưa được khai sáng thì trong ngày Đức Giê-su hoàn tất ơn cứu độ thì mọi sự sẽ được tỏa sáng và lộ rõ như ban ngày.

Như vậy, suy đi nghĩ lại những gì không hiểu là điều cần thực hành trong đời sống đức tin. Điều này cũng có thể áp dụng và đem lại hiệu quả một cách hữu hiệu trong nếp sống gia đình. Chúng ta thường có khuynh hướng nói mà không suy, cho nên những điều ta nói dễ mất lòng người khác hơn. Suy đi nghĩ lại để khám phá ra ý định của Thiên Chúa cần mình nói gì, làm gì bao giờ cũng là thái độ sống của người biết lắng nghe, biết quan tâm và tìm các giải pháp tốt đẹp cho đời sống chung trong gia đình.

Thưa anh chị em,

Suy gẫm và noi gương đời sống gia đình Thánh Gia qua trình thuật Tin Mừng theo Thánh Lu-ca hôm nay giúp cho chúng ta nhận ra phương pháp sống thế nào cho gia đình được hạnh phúc. Cho dù khác nhau về hoàn cảnh địa lý, phong tục, thời gian … Nhưng nếu mọi thành phần trong gia đình của các tín hữu biết đặt trên căn bản của việc tìm kiếm và thực hành ý Thiên Chúa như gia đình Thánh Gia thì chúng ta sẽ dễ dàng tìm đuợc điểm hội tụ, điểm chung để gặp gỡ và giúp nhau hàn gắn những sứt mẻ do bản tính con người tạo nên.

Như Thánh Giu-se, Đức Maria đã lạc mất con thế nào thì trong cuộc sống gia đình, với tất cả khó khăn mà các gia đình phải đối diện luôn là tiếng còi báo động cho các thành phần trong gia đình có thể lạc mất nhau. Trong hoàn cảnh đó, mọi phần tử trong gia đình phải nỗ lực tìm kiếm; noi gương và theo sát chân các Đấng trong gia đình Thánh gia để tìm kiếm. Cuộc tìm kiếm này không phải là việc làm dễ dàng. Nhiều khi, nó kéo dài cả một đời người. Cần có sự quyết tâm và kiên trì trong việc tìm kiếm Chúa và tìm kiếm nhau trong Chúa. Và, chỉ có Đức Giê-su mới làm cho gia đình hiệp nhất và bình an khi chúng ta trao gửi lòng mến và tình thương cho nhau.

Vì thế, hãy ý thức rằng trước khi chúng ta thuộc về nhau thì mỗi cá nhân trong gia đình thuộc về Chúa trước. Do vậy, dù cha mẹ có thương con đến mức độ nào thì các ngài cũng không đuợc phép áp đặt, cuỡng ép và bắt các con phải làm theo ý mình. Thay vì lạc mất con như Đức Mẹ và Thánh Giu-se, đôi khi cha mẹ cũng cần đánh mất ý riêng của cha mẹ mà khám phá ra ý muốn ngay lành của từng người con trong gia đình để hỗ trợ và hướng dẫn chúng theo ý Chúa. Bởi vì, mỗi một người con là một bầu trời mà Chúa gửi đến cho các bậc làm cha làm mẹ khám phá những nét kỳ diệu của Thiên Chúa nơi các con.

Nói như thế thì gia đình là cái nôi, là môi trường vô cùng quan trọng để chuẩn bị cho con cái vào đời. Trong tinh thần đó, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi cho các gia đình, Ngài đã ghi lại: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình." Như vậy, thật là chí lý khi chúng ta xác quyết rằng gia đình là ngôi trường đầu tiên dạy chúng ta những bài học căn bản của kiếp người; dậy chúng ta biết yêu thương, phục vụ, biết từ bỏ và quên mình.

Chúng ta có thể cho rằng gia đình Thánh gia Nagiarét được diễm phúc hơn mọi gia đình khác, vì có Đức Giêsu hiện diện giữa các ngài. Nhưng nếu xét cho cùng thì các Ngài cũng không có đặc quyền, đặc lợi hơn chúng ta. Các Ngài cũng cần tìm kiếm thánh ý của Thiên Chúa; và các Ngài cũng cần phải có đức tin sâu xa và vững mạnh lắm mới có thể chu toàn trọn vẹn vai trò của mình.

Như vậy, muốn gia đình mình được gọi là gia đình Thánh thì mọi thành phần trong gia đình cần học để vâng phục ý định của Thiên Chúa qua việc chuyên cần suy niệm Lời Ngài. Đúng như lời chúc phúc của Thánh Phao-lô “Nguyện cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em” để các thành phần trong gia đình của anh chị em sẽ là đền thờ Chúa ngự và cùng giúp nhau tìm kiếm và sống theo ý Chúa. Amen!

Wednesday, 15 December 2021

THĂM VIẾNG: DẤU CHỈ TÌNH THƯƠNG

 


Trong nhà dòng tôi ở, có một linh mục có tài kể truyện. Truyện của Ngài làm say mê lòng người. Câu chuyện nào cũng có sức lôi cuốn và thu hút người nghe. Khi kể truyện Ngài có pha các tình tiết làm cho người nghe vui, nhưng không vì thế làm giảm đi ý nghĩa của sứ điệp mà cha muốn truyền đạt. Có một lần anh em trong nhà xin Ngài bớt chút cường điệu hay cử chỉ khi kể truyện. Nhưng kết quả vẫn như nguyên.

Phần tôi không có năng khiếu kể truyện. Tôi đã cố gắng, nhưng vẫn thấy lối kể truyện của mình thật vô duyên. Nhiều lúc, sau khi kể truyện tôi cũng chẳng biết đầu đuôi hay tình tiết của câu chuyện mình đã thuật lại nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn biết rằng dùng câu chuyện để truyền tải sứ điệp thì ích lợi hơn cho người nghe. Do đó, xin bắt đầu bằng một câu chuyện và truyện kể như sau.

Trong xóm đạo kia có một chàng thanh niên, khôi ngô tuấn tú, diện mạo khá bảnh bao mà nhiều người hằng ngưỡng mộ. Chúng ta gọi tên anh là Thi nhé. Thi có tài ca hát. Thêm vào đó, anh ngoan và siêng năng trong mọi công tác của xứ đạo. Nói chung, anh là mẫu mực mà nhiều người thán phục.

Vào một ngày kia, anh phải đối diện với một biến cố thật kinh hoàng. Anh là nạn nhân trong một tai nạn xe cộ. Tuy thoát chết, nhưng đôi chân anh bị cưa. Nghịch cảnh đã tiêu hủy mọi ước mơ của anh. Những người trước đây ngưỡng mộ anh thì bây giờ họ nhìn anh bằng cặp mắt thương hại và tội nghiệp. Cuộc đời anh xem như đã xong. Người ta dần dần quên đi sự hiện diện của anh. Đó là nguyên nhân khiến anh bị trầm cảm kinh niên. Đôi khi anh có ý nghĩ chẳng thà bị trẻ con chọc ghẹo và coi thường còn hơn là bị quên lãng. Anh chỉ muốn chết!

Vào một ngày kia, anh nhận được tin người bà con, tuy không phải ruột thịt, từ Mỹ về thăm quê nhà, nghe kể về hoàn cảnh của Thi nên muốn đến thăm. Thi chẳng bận tâm hay có kỳ vọng nào trong chuyện thăm viếng này. Lần viếng thăm này rồi cũng giống như bao lần thăm viếng trước đây. Lại thêm một cử chỉ tội nghiệp và vài lời khuyên nhủ. Cuối cùng, anh vẫn là người cụt hai chân.

Trong lúc hai người trò chuyện với nhau. Bỗng nhiên anh nghe ông anh họ hỏi anh rằng: “Cậu có muốn đi đứng lại được không?” Thi không tin vào đôi tai của mình, nên đã hỏi lại:  “Anh đùa để chọc tôi phải không?” Ông anh họ đáp: “Không tôi nói thật, tôi có thể tặng cậu đôi chân nhân tạo.” Thi đáp: “Đêm nào tôi cũng mơ đến điều kỳ diệu này! Nhưng hoàn cảnh thiếu thốn của gia đình đã khiến tôi bỏ qua ý nghĩ này. Như anh biết, kể từ ngày bị tai nạn đến nay, trong nhà còn gì thì cũng đã bán hết để lo thuốc men cho tôi. Giờ này, cơm lo từng ngày còn chưa đủ no, nói chi đến việc đi đứng!” Ông anh họ từ tốn nói: “Tôi sẽ biếu cậu, hãy coi cặp chân này như món quà Giáng Sinh sớm của gia đình chúng tôi tặng cậu.”

Thế là mọi sự đã xẩy ra. Giáng Sinh năm đó Thi đã có đôi chân để đi. Lòng tự tin của anh được phục hồi. Sau này, anh còn tìm được việc trong chức vụ cố vấn của một trung tâm thể dục thẩm mỹ. Cuộc sống gia đình ổn định hơn. Thi rất hài lòng với những gì anh đang có. Tất cả được bắt đầu qua lần thăm viếng của ông anh họ. Và, tuy việc này xẩy ra đã lâu, nhưng Thi không bao giờ quên cuộc viếng thăm của ông anh họ năm nào.

Câu chuyện nói trên có thể minh họa phần nào ý nghĩa của bài Tin Mừng mà chúng ta suy tư trong tuần này, đó là cuộc viếng thăm của Mẹ Maria dành cho người chị họ mình, bà Ê-li-sa-bét.

Kính thưa anh chị em,

Thăm viếng là dấu chỉ của tình thương. Đó có thể là khởi điểm của một mối tình hay là bước đầu của một dự án. Chúng ta thường đến thăm những người chúng ta yêu thương. Tình yêu cần được nhìn thấy, chứ không thể khư khư, giữ kín và ôm lấy cho riêng mình. Một thứ tình yêu âm thầm, chỉ dựa vào ngôn từ mà không được biểu lộ thành hành động thì không phải là tình yêu chân chính và đích thực. Đây là kinh nghiệm vô cùng quí giá của những ai đang yêu. Họ tìm mọi cách để thăm nhau. Và thường thì mỗi lần như thế họ để lại trong nhau các trải nghiệm khó phai mờ.

Không chỉ có thế, thăm viếng là một trong các điều vô cùng cần thiết trong xã hội mà khuynh hướng tôn sùng chủ nghĩa cá nhân được cổ võ và phát triển như hiện nay. Ngày xưa, con người đến với nhau để giao tiếp. Hôm nay, lệ thuộc vào sự tiến bộ của truyền thông, con người bỗng trở nên lười biếng hơn, chưa kể đến việc lạm dụng các phương tiện văn minh kỹ thuật để bớt gặp nhau hơn. Có ai ngờ được hiện tượng của những con người sống chung trong một mái nhà mà lại phải dùng điện thoại để nhắn tin hay gọi nhau xuống ăn cơm tối. Tiện lợi vô cùng, nhưng hiểm họa ngay bên! Lối sống mỗi người là một ốc đảo càng ngày càng hiện rõ trong các sinh hoạt của gia đình và đương nhiên sẽ lan tràn như bệnh dịch sang môi trường mình sinh sống.

Ngày xưa, trong các tuần đại phúc, nghĩa là trong các lần giảng tĩnh tâm tại các Giáo xứ, chúng tôi thường dành mấy tuần đầu cho chương trình, ban ngày đi thăm viếng buổi tối họp nhóm. Công việc này giúp chúng tôi và giáo dân trong xứ hiểu nhau hơn, nhìn thấy nhu cầu của nhau mà quan tâm… rồi từ đó các bài giảng thuyết được chuẩn bị hầu đáp ứng đúng nhu cầu của bà con trong giáo xứ.

Vì sao mà được như thế? Tất cả nhờ vào công tác thăm viếng. Qua đó, chúng ta dễ dàng tiếp cận và hiểu nhau hơn. Ngày nay, vì nhiều nguyên do khác nhau, dù lòng chúng ta muốn áp dụng cách thức này; nhưng thực tế cũng không cho phép. Con người quá bận rộn! Nhu cầu thăm viếng, đến với nhau càng ngày càng thấy hiếm. Chính vì thế, bài học trong bài Tin Mừng hôm nay nên được chúng ta ôn lại.

Quả thật, đây cũng không phải là điều gì mới lạ. Lần giở sách Kinh Thánh, chúng ta nhận ra chuỗi dài của việc viếng thăm mà Thiên Chúa đã thực hiện trong dân Ngài. Qua các sứ giả của Thiên Chúa, mà cụ thể là việc Thiên Thần đến với E-li-sa-bét và Đức Maria trong các trình thuật truyền tin; rồi qua môi miệng và chứng từ của các ngôn sứ, như lời tụng ca của Dacaria “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.”

Trong sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, chúng ta có thể liệt kê vô số các lần thăm viếng và đồng bàn với dân chúng của Đức Giê-su. Và nhiều điều kỳ diệu đã xẩy ra trong và sau những lần thăm viếng đó. Cụ thể như việc Đức Giê-su chữa lành cho người đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng trong lần Người ghé thăm Ca-pha-na-um; qua lần ghé Nain, Người đã làm cho cậu con trai duy nhất của bà goá được sống lại. Với việc đến thăm và làm bạn với những người tội lỗi khiến cho mấy ông bà tưởng mình đạo đức phật lòng… Nhưng lần thăm Giê-ru-sa-lem sau cùng, tuy được đón tiếp trọng thể như một quân vương, nhưng lại không có kết quả tốt. Người đã bị từ khước và cuối cùng là hành trình khổ nạn và Thập Giá; nhưng đàng sau của Thập Giá là vinh quang của sống lại mà ngày nay con cháu của Người được thừa hưởng sự hy sinh đó.

Trong bối cảnh đó, giờ đây chúng ta cùng suy gẫm cuộc thăm viếng của Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét.

Sau khi để cho ý định của Thiên Chúa được thành sự trong cung lòng của Ngài, Đức Maria vội vã ra đi lên miền sơn cuớc để thăm bà Ê-li-sa-bét, chị họ Ngài. Trình thuật này thường được suy gẫm trong Kinh mân côi để ca tụng nhân đức thương người, luôn quan tâm đến nhu cầu của kẻ khác nơi Mẹ. Tất cả đều là những bài học thật quí giá mà Mẹ đã để lại cho chúng ta học hỏi và noi gương.

Tuy nhiên, hôm nay tôi xin dựa vào một yếu tố khác. Đây là hậu quả dưạ trên các kinh nghiệm thật sâu xa của các bà mẹ đang mang thai đã chia sẻ với nhau mà tôi nghe đuợc. Nhờ đó, chúng ta khám phá ra một điều là trình thuật diễn tả việc Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét mang tính nhân bản, nói lên cách xử sự thật con người của Mẹ.

Trước tiên, việc mang thai là niềm vui khôn tả, là nguồn sức mạnh của tất cả các người mẹ. Mẹ Maria cũng thế. Trong niềm vui được Thiên Chúa đoái thương viếng thăm, Mẹ được thúc đẩy để lên đường, chia sẻ niềm vui và điều kỳ diệu đang xẩy ra trong cung lòng của Mẹ cho người khác. Và ai là người có thể đồng cảm với Mẹ trong giai đoạn này? Người đó chính là chị họ Mẹ, người cùng cảnh ngộ và đang mang thai như Mẹ, bà Ê-li-sa-bét. Niềm vui không chỉ được trao đổi giữa hai người mẹ: Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét mà thôi, nó còn được lan tỏa qua hai người con. Vừa nghe lời Mẹ chào thì Gio-an Tẩy giả, tuy là một thai nhi nhưng cũng đã nhẩy lên để diễn tả niềm vui khi được Mẹ và Chúa đến viếng thăm.

Như vậy, mỗi lần chúng ta gặp nhau, dù là tình cờ hay đã định trước, đều là cơ hội để chúng ta có thể đem tin vui đến cho nhau, hỗ trợ nhau trong nỗi đau, củng cố và giúp nhau đối diện với cơn buồn phiền rồi hướng dẫn nhau vuợt qua tình trạng bối rối để hướng về cùng đích của Nuớc Trời. Chính qua các cử chỉ đó, chúng ta làm cho mầu nhiệm hy tế của Đức Giê-su mà chúng ta đang cử hành trong các Thánh Lễ trở thành hiện thực và sống động hơn bởi cuộc sống dấn thân và phục vụ mà chúng ta dành cho nhau.

Uớc mong Chúa vừa là hành trang vừa là quà tặng mà chúng ta mỗi lần thăm viếng đem đến cho nhau trong cuộc sống, cụ thể trong Mùa Giáng Sinh này. Bởi vì, chúng ta tin rằng: mỗi lần gặp gỡ là một cơ hội mà chúng ta đem Chúa đến cho nhau để niềm vui mà chúng ta trao cho nhau trong Chúa được trở nên trọn vẹn hơn. Amen!

Tuesday, 7 December 2021

CHÚA LÀ NIỀM VUI


Anh chị em thân mến,

Phụng vụ Lời Chúa tuần này xoay quanh chủ đề niềm vui. Đây là một trong các đặc tính tiêu biểu của người Kitô Hữu. Ai trong chúng ta cũng mong sống vui vẻ và hạnh phúc. Nhưng thực tế không như thế. Mang thân phận kiếp người, mấy ai trong chúng ta không trải qua các thử thách, mấy người thoát được gánh nặng của đau khổ, chẳng mấy ai thoát được những giai đoạn buồn phiền, sầu khổ và mất mát. Tuy nhiên, cũng có lúc chúng ta sống trong hạnh phúc và vui sướng. Tất cả các điều đó gắn liền với cuộc sống của chúng ta. Sống là thế đó!

Tuy nhiên, chúng ta đừng bị đánh lừa bởi một thứ niềm vui dựa trên cảm xúc, đó là thú vui. Thú vui thì chóng qua. Nó đến mau bao nhiêu thì đi nhanh bấy nhiêu. Tất cả cần được cảm nghiệm bằng cách sống suy tư của mình. Đức Trinh nữ Maria là một gương sáng cho chúng ta trong việc cảm nhận này. Mẹ đón nhận niềm vui một cách chậm nhưng chắc, không chỉ một lần mà Mẹ thường suy đi nghĩ lại nhiều lần về kinh nghiệm gặp gỡ giữa Mẹ và Thiên Chúa. Lối sống của Mẹ là mẫu gương mà Hội Thánh mời chúng ta suy tư trong Mùa Vọng.

Niềm vui của người tín hữu là kết quả của cuộc gặp gỡ giữa Chúa và mình, không phải chỉ một lần là đủ, nhưng cần được tái lập, canh tân và nuôi duỡng các lần gặp gỡ đó trong cuộc sống hằng ngày, trong mọi biến cố và luôn tìm cách để đổi mới. Đó chính là niềm vui đích thực. Chỉ trong Chúa con người mới đạt đuợc mức độ viên mãn của niềm vui.

Để minh họa cho ý nghĩ nói trên, xin mời anh chị em cùng nghe một kinh nghiệm. Kinh nghiệm này có lẽ đã đuợc nhiều người kể hoặc chúng ta đã đuợc nghe nhiều lần. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra nét độc đáo và mới mẻ của câu chuyện mỗi khi được nghe lại. Và mỗi lần như thế, tôi lại có dịp đặt vấn đề cho niềm tin của mình. Giờ đây, xin san sẻ đến cho bà con nhé.

Truyện bắt đầu bằng cuộc đối thoại giữa người tân tòng và người phỏng vấn.

-          Tôi nghe tin anh mới theo đạo Công Giáo, phải không?

·        Anh nói đúng. Thật ra tôi mới được rửa tội trở thành môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng tôi.

-          Anh có thể kể cho tôi biết về lịch sử về cuộc đời của Người?

·        Rất tiếc thưa anh. Tôi đã học và đọc qua nhiều cuốn sách về cuộc đời của Người và giờ này cũng chẳng còn nhớ đuợc bao nhiêu nữa!

-          Số phận của Đức Giê-su thế nào? Anh có biết tuổi thọ của Người là bao nhiêu không?

·        Tôi cũng chẳng nhớ rõ. Tôi chỉ biết là Người đã chết và đã sống lại.

-          Vậy ông ta chết năm bao nhiêu tuổi?

·        Tôi chẳng nhớ chính xác nên không dám nói bừa.

-          Cảm ơn anh! Theo sự nhận xét của tôi thì anh chẳng biết gì về Đức Giê-su, Chúa của ông; thế mà anh lại theo đạo Công Giáo, nghĩa là làm sao?

·        Anh nói đúng. Tôi xin lỗi đã làm ông thất vọng vì đã không làm cho ông đuợc thỏa mãn. Thế nhưng, thưa anh, chỉ có một điều tôi và gia đình tôi biết rất rõ. Đó là điều đang xẩy ra cho tôi và gia đình.

Cách đây mấy năm, tôi là người hư thân mất nết, cuộc sống bê tha và tồi tệ. Sau giờ tan sở, tôi thường la cà tại các nơi ăn chơi, rượu chè be bét; đến khi lết về được đến nhà thì tôi đã say ngất. Vợ con tôi đều lánh xa vì sợ hãi. Họ rất hổ thẹn và xấu hổ vì tôi.

Nhưng kể từ ngày tôi gặp Đức Giê-su và đi theo Người thì mọi sự đều thay đổi. Tôi đã cai được rượu, chăm lo cho vợ và các con. Họ không còn sống trong âu lo và sợ hãi mỗi khi gặp tôi; trái lại giờ đây, chúng tôi sống rất hạnh phúc và vui vẻ.

Tất cả đều là hậu quả của việc gặp gỡ và biết Đức Giê-su. Ngươì đã làm cho tôi và gia đình trở thành nguồn vui cho nhau. Anh thấy chưa. Những gì tôi biết về Người như thế thì quá đủ cho tôi và gia đình rồi.

Kính thưa anh chị em,

Như vậy, niềm vui không phải là một thứ quà tặng rẻ tiền. Đây chính là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người nơi mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Đây là cuộc gặp gỡ trọng đại giữa Thiên Chúa và con người. Qua Đức Giê-su, con người cảm nhận và tiếp xúc với một vị Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, đến và cư ngụ giữa chúng ta. Người chính là tin vui mà Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa qua môi miệng của các ngôn sứ.

Tất cả những ai đã gặp Người đều bị chất vấn để canh tân cho xứng với các tiêu chuẩn của Người đưa ra trong các mối phúc thật. Vì thế, việc đổi đời là điều cần thiết. Và đó cũng là điều mà Gio-an Tẩy Giả công bố để giúp chúng ta chuẩn bị cuộc sống cho xứng đáng để đón tiếp Người.

Những người đến nghe Gio-an giảng đã bị đánh động và tha thiết muốn có sự thay đổi không bằng văn tự nhưng bằng chính việc làm nên họ đã hỏi “chúng tôi phải làm gì đây?” Và, tuỳ vào nhiệm vụ mà Gio-an đã đưa ra lời mời gọi họ thực hiện.

-          Với dân chúng, ông yêu cầu họ sống quan tâm và chia sẻ cơm ăn cũng như áo mặc cho nhau.

-          Với nhân viên thu thuế, ông mời gọi họ biết sống công bằng, đừng thu quá mức mà bóc lột và làm khổ dân chúng.

-          Và đối với binh lính, ông yêu cầu họ đừng dùng quyền lực để thống trị, hà hiếp hay chà đạp dân chúng; trái lại họ hãy chấp nhận quyền hạn và những gì họ có để phục vụ.

Thưa anh chị em,

Lời kêu gọi của Gioan hôm nay cho thấy, mỗi người đều phải nỗ lực canh tân điều chỉnh lại cuộc sống của mình, sống đúng với ơn gọi và nhiệm vụ đã được trao phó bởi Thiên Chúa thì sẽ tìm được niềm vui cho mình và cho xã hội.  

Gio-an Tẩy giả, với lối sống khổ hạnh và lời rao giảng có sức lôi cuốn mãnh liệt, có thể bị ngộ nhận là Đấng Cứu Thế mà tòan dân đang mong chờ. Nhưng ông không hề lợi dụng lòng yêu mến và sự ủng hộ của dân chúng để tạo thế đứng và uy tín cho mình, trái lại, ông sống và nói thật cho mọi người về bản thân: Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.

Gioan không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng. Ánh sáng đích thật là Chúa Giêsu. Vì thế khi Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công khai thì vai trò của Gio-an phải lu mờ. Đây là sự cao trọng trong sứ mạng của Gio-an. Chính vì biết mình là ai, và cần phải làm gì trong chương trình của Thiên Chúa, nên Gio-an đã trở thành con người vĩ đại như lời ca tụng của Đức Giêsu: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông.”

Vai trò của Gio-an dù có cao trọng đến đâu thì ông vẫn chỉ là người dọn đường; còn chính Chúa Giê-su và những kẻ thuộc về Người mới thuộc về Nước Trời. Đó là giáo lý mới, tin vui mà Chúa Giê-su đã đem lại. Chính Gio-an cũng phải thay đổi lối nhìn và cách sống sao cho phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giê-su là Đấng mà tòan dân mong chờ. Người sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới.

Chính vì thế, phần phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật thứ ba trong các Mùa Vọng hàng năm thật quan trọng. Sứ điệp của niềm vui và lòng hân hoan khi gặp Chúa đuợc nhấn mạnh. Hãy vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Người không dùng vũ lực để biểu dương uy quyền, nhưng bằng tình thương, sự hy sinh và lòng từ tâm để giải thoát chúng ta khỏi những mưu toan bất chính, thoát khỏi những cạm bẫy của thế tục bằng cách sống bác ái, chia cơm sẻ áo, sống liên đới trong yêu thương, tôn trọng và cổ vũ cho công lý để mọi người có cuộc sống chính trực và an hoà.

Đó là những công việc mà chúng ta cần làm, không chỉ trong Mùa Vọng này, mà cần được thể hiện liên tục trong cuộc sống của chúng ta, những người môn đệ chân chính của Chúa Hài Nhi. Amen!

Wednesday, 1 December 2021

TRÊN CON ĐƯỜNG CHÚA ĐẾN



Trong Mùa Vọng, Mẹ Hội Thánh gửi đến cho chúng ta những mẫu gương sáng trong việc chuẩn bị đón chào Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần, đó chính là đời sống và sứ mạng của Thánh Gio-an Tẩy Giả, vị tiền hô đi trước dọn đường và Đức Trinh Nữ Maria, Người đã cưu mang trong lòng mình Đấng Cứu Thế mà chúng ta chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới.

Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong lịch sử. Ông được kêu gọi và thực hiện sứ mạng ngay trong môi trường sinh sống của ông. Sau một thời gian rất dài, trải qua gần năm thế kỷ, dân Do Thái không có một ngôn sứ nào xuất hiện hướng dẫn và nung nấu lòng đạo đức của họ cho đến khi Gio-an xuất hiện. Ngài rao giảng bên bờ sông Gio-đan, kêu gọi dân chúng hối cải để chuẩn bị đón chào Đấng Cứu Thế. Dân chúng từ Giê-ru-sa-lem đến các miền Giu-đê, tuôn đến nghe Ngài giảng dậy.

Ngày hôm nay, những người theo truyền thống Kitô giáo xưng tụng Ngài là Thánh nhân. Từ nguyên thuỷ, ông là người Do Thái, là ngôn sứ, thuộc dòng giống Hebrew chính hiệu. Sứ mạng của ông là tiền thân của Đấng Cứu Thế. Lời của ngôn sứ I-sai-a đã ứng nghiệm trên sứ mạng của ông là “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.

Và bối cảnh mà Gio-an nhận sứ mạng là hoang địa. Hoang địa hay sa mạc là nơi mà dân Do Thái đã trải qua các cuộc thử thách. Chính tại nơi đó họ cảm nhận đuợc tình thương của Thiên Chúa hơn bao giờ hết. Áp dụng vào hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta, tôi nhận ra một điều là chỉ ở trong hoang địa chúng ta mới được hạnh phúc nhìn thấy Thiên Chúa. Tức là ở những nơi chúng ta trút bỏ hoàn toàn các mặt nạ của mình, trút bỏ kiêu ngạo, lo lắng, phân tán để lắng nghe Lời Chúa. Nếu chúng ta còn đeo những mặt nạ nói trên thì không thể có cơ hội nhìn thấy Người. Và đây là bài học thứ nhất: Hãy trút bỏ mặt nạ, sống thật với chính mình, không giả hình, không gian dối để được nên một với Chúa và dễ dàng tiếp cận nhau hơn.

Sứ điệp và sứ mạng của Thánh Gio-an Tẩy Giả được trình bầy vào Chúa nhật thứ hai và thứ ba trong các Mùa Vọng như một lời nhắc nhở chúng ta về sứ mạng của mình. Noi gương Ngài chúng ta được mời gọi ra đi để công bố cho những người chung quanh là hãy ăn năn, hãy dọn đuờng để chào đón Chúa Cứu Thế và tin vào Người.

Nói khác đi, khi nhìn lại việc Thiên Chúa gọi Gio-an Tẩy Giả cũng là lúc chúng ta nhớ lại ơn gọi của mình. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa. Người đi bước trước, đến trong hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người không xuất hiện từ xa nhưng hiện diện ngay trong môi trường chúng ta sống, đến trong hoàn cảnh của từng người, không phân biệt lương hay giáo.

Như Gio-an, chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận. Bằng một công thức rất trang trọng, Thánh Luca đã giới thiệu sứ mạng của Gio-an được xuất phát và thúc đẩy bằng Lời Thiên Chúa. Và chúng ta đã đuợc gọi bởi Lời Chúa, thì để hoàn thành sứ mạng chúng ta cũng cần đuợc nuôi duỡng bằng Lời để phục vụ Lời, như Đức Giê-su đến để loan báo Lời Thiên Chúa và phục vụ Thiên Chúa vậy!

Như Gio-an Tẩy Giả, chúng ta đuợc gửi đến những nơi khác nhau, tìm gặp những ai chưa tin, mời gọi họ nhận ra ân huệ của Thiên Chúa đang hoạt động nơi họ, và sau cùng là chào đón Đấng Cứu Thế. Muốn hoàn thành sứ mạng này, chúng ta phải ra đi làm chứng bằng chính cuộc sống của mình, như huấn lịnh của Đức Thánh Cha Phan-xi cô nói trong tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” rằng: Con người của xã hội hôm nay yêu chuộng nhân chứng hơn là lời nói xuông. Chúng ta loan báo điều chúng ta tin và niềm tin của chúng ta được phát sinh từ các trải nghiệm trong cuộc sống. Làm chứng bằng chính cuộc sống mình bao giờ cũng đem đến hậu quả bền vững hơn.

Giống như Gio-an Tẩy Giả, chúng ta không kêu gọi người ta chú ý đến mình. Chúng ta đến để giới thiệu và chỉ cho người ta thấy con đường của Chúa. Từ bỏ vinh dự cao quí và lui về phía sau để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài qua sứ mệnh mà chúng ta đã lĩnh nhận là điều tuy cần thiết nhưng rất khó thực hiện. Qua hành động như thế, chúng ta không hoạt động cho vinh quang của mình mà làm cho Danh Chúa được cả sáng hơn.

Như vậy, con đuờng mà chúng ta chuẩn bị cho Chúa đến là con đuờng đức tin, con đuờng niềm vui; một niềm vui phát xuất từ bên trong phần sâu thẩm của tâm hồn và chỉ dành cho những ai đã được Chúa chiếm đoạt. Trong sự tự do chúng ta đành mất tất cả để dành phần ích lợi cho anh em.

Vì thế, thưa anh chị em,

Trong tinh thần của Mùa Vọng năm nay, khi nhìn lại gương sáng và việc chu toàn sứ mạng của Gio-an Tẩy Giả là cơ hội giúp chúng ta nhớ lại ơn gọi của chính mình. Chúng ta không chỉ được kêu gọi ăn năn, sám hối để chuẩn bị tâm hồn Mừng Lễ Giáng Sinh mà thôi đâu. Hơn thế nữa, đây là cơ hội để chúng ta đào sâu và làm sáng tỏ ơn gọi xuất phát từ Lời Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi ta đến để phục vụ Lời. Người đã đến trong hoàn cảnh của từng người, với tất cả giới hạn của thân phận mình, gắn liền với đổ vỡ và tội lỗi của mình. Chính trong vùng đất khô cằn như hoang địa như thế, Thiên Chúa đã cất nhắc chúng ta lên, cho phép chúng ta tham dự vào sứ vụ của Người. Vì thế, chúng ta phải ra đi, không chỉ là tiền thân của Đấng Cứu Thế mà còn là hiện thân của Người, Đấng đã từ bỏ và chấp nhận mất tất cả để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, không loại trừ một ai.

Nhiệm vụ của chúng ta thật nặng nề. Tuy nhiên, Đấng Cứu Thế đã đi trước để dọn đuờng. Người đã hoàn thành sứ mạng này. Vì thế, noi gương Người, chúng ta không chỉ dọn đường cho Người đến mà hãy buớc vào con đuờng của Người. Con đuờng yêu thương và đón nhận. Con đường tự hiến và hy sinh. Con đuờng tha thứ và chấp nhận. Con đuờng của sự thật để nhận ra tất cả là của Người. Và, khi cùng dắt nhau đi trên con đuờng của Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở để đón nhận nhau, nhận ra sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi tha nhân.

Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta, trong lòng người và giữa lòng đời. Và nếu chúng ta không nhận ra Người trong cuộc sống của nhau thì việc dọn đuờng để chuẩn bị cho việc mừng Lễ Giáng Sinh cũng là việc làm chiếu lệ, theo thói quen. Xin hãy mở mắt giúp chúng con nhận ra Người nơi anh em không chỉ trong Mùa Vọng này, nhưng là trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời và nhất là trong các bữa tiệc Lòng Mến mà chúng con cử hành và chia sẻ hồng ân của Chúa cho nhau. Amen!

 

Wednesday, 24 November 2021

HY VỌNG VƯƠN CAO LUÔN MÃI.


Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Với việc mừng kính trọng thể Lễ Đức Giê-su Ki-tô, Vua vũ trụ; chúng ta đã kết thúc chu kỳ của một năm phụng vụ, năm B. Năm phụng vụ mới, năm C, bắt đầu bằng Chúa Nhật thứ nhất của Mùa Vọng. Và hầu hết những người tín hữu đều biết về ý nghĩa của mùa vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng sự hiện diện của Đức Giê-su. Sự hiện diện này đươc diễn tả qua ba thời điểm: Người đã đến trần gian này hơn 2000 năm, Lễ Giáng Sinh hàng năm là một thời kỳ lễ hội mà chúng ta mừng ngày sinh hạ của Người. Người sẽ khải hoàn đến trong quang lâm để đón chúng ta đi về nhà Cha và Người đang hiện diện giữa lòng đời và trong lòng người, chờ đợi ta.

Khi nói đến sự hiện diện của Người trong thời điểm hiện tại, lòng chúng ta nhận ra sự hiện diện của Người trong mọi khoảnh khắc của đời sống. Như kinh nghiệm của ngôn sứ I-sa-ia kể rằng: Người ngồi đó nắm lấy bàn tay ta và phán bảo ta ‘đừng sợ,’ vì chính Người phù hộ ta. (Is 41: 13) Một cử chỉ thân mật nói lên sự bao bọc của Người. Như hình ảnh của người mẹ bảo vệ, dắt tay con băng qua ngã tư đường chen chúc đầy xe. Giống như cảnh người vợ tàn tật cầm tay ông chồng mù đi trên vỉa hè bán vé số. Họ cầm tay và bao bọc nhau. Chúa của chúng ta hành động như thế. Vì thế, chúng ta đừng sợ và hãy hy vọng rằng Người vẫn ngồi đó chờ được nắm lấy tay và dẫn ta đi.

Mùa vọng là thế. Chờ để được yêu thương. Chờ một cuộc gặp gỡ. Đợi một cuộc hẹn đã có từ xưa và người hẹn không bao giờ trễ hẹn. Đợi sự thành toàn của ơn cứu độ. Người đứng đó đợi chờ ta.

Thật vậy, đảo mắt nhìn cách trang hòang trong các trung tâm thương mại, tai nghe và tận mắt nhìn thấy những màn quảng cáo, không cần nhắc, anh chi em cũng biết lễ hội Giáng Sinh đã gần đến. Chúng ta bận rộn trong việc chuẩn bị gửi đi những quà tặng nhân dịp lễ hội này. Và cho dù bận rộn đến đâu, chúng ta cũng đừng quên dành ra vài phút trong ngày để chuẩn bị tâm linh cho việc mừng Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Vì thế, Mùa vọng thật cần thiết, đó là thời gian để chúng ta chuẩn bị cho việc mừng Lễ được sốt sắng hơn.

Việc Chúa đến lần thứ hai cho dù đã được tiên báo, tuy nhiên những lời tiên báo đó cũng chẳng khẳng định chính xác được điều gì. Chúng ta tin ngày đó sẽ đến. Ngày mà trời mới đất mới sẽ đến để thay thế trời cũ đất cũ. Ngày mà sự sống vĩnh cửu sẽ hiển trị và vuợt thắng sự chết. Ngày mà con người sẽ đuợc đổi mới toàn diện. Thật ra, sự  biến đổi đã bắt đầu bởi cuộc giáng trần và nhất là bởi sự sống lại của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa và trong thời khắc hiện tại chúng ta đang sống để chờ đợi việc hòan tất cuộc biến đổi ấy trong ngày quang lâm vinh hiển của Đức Chúa, mà chúng ta hay gọi là “Ngày của Chúa”. Và không ai trong chúng ta biết ngày đó sẽ xẩy ra khi nào, nên chúng ta chỉ biết chờ đợi. Mong đợi với niềm hy vọng.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngoài những điểm diễn tả việc tàn phá sẽ xẩy ra trên trái đất làm cho con người phải khiếp sợ, chúng ta cần ghi nhớ điểm quan trọng là sau cùng Thiên Chúa vẫn hiển trị. Cho dù các tai uơng trong hiện tại có xẩy ra như thế nào; nhưng cuối cùng vẫn là sự toàn thắng của Thiên Chúa. Vì giờ cứu chuộc mà Đức Giê-su đã khai mạc sẽ hoàn tất. Khi nào giờ đó đến thì không một ai biết. Vì thế, những người không cùng một niềm tin với chúng ta sẽ kinh hoàng khiếp sợ trước các biến động sẽ xẩy ra trên quả địa cầu này; nhưng là tín hữu của Chúa, chúng ta hãy hiên ngang đứng thẳng người và ngẩng đầu lên. Thái độ này chỉ xuất hiện nơi những ai trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa. Kẻ sợ hãi thì lẩn trốn còn kẻ tin thì hãy nghe lời Chúa nói với I-sa-i-a ‘đừng sợ’ rồi hiên ngang đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì giờ cứu chuộc đã gần kề.

Sau đó Đức Giê-su lại còn khuyên bảo chúng ta phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chèn chén say sưa hay lo lắng sự đời quá sức rồi ngày ấy sẽ như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu chúng ta.

Đó là lời cảnh báo rất thực tế vì không ai trong chúng ta biết ngày và giờ nào Chúa đến cả. Người sẽ đến bất thình lình. Vì thế, trong phần sau của bài Tin Mừng, Đức Giê-su khuyên bảo chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Bởi vì, nếu không tỉnh thức và cầu nguyện thì lòng chúng ta sẽ gặp nguy cơ và trở thành chai đá. Rồi những lo âu thái quá trong cuộc sống khiến cho đời sống của chúng ta bị quay như chóng chóng và mất đi phương hướng, hay vì quá bận tâm đến thế trần và vật chất khiến chúng ta quên đi mục tiêu và các ưu tiên trong cuộc sống.

Tỉnh thức không phải là thái độ thụ động như người lính canh đồn, thức trắng đêm để đợi chờ; rồi thời gian chờ đợi quá lâu, họ đâm chểnh mảng rồi ngủ gà ngủ gật; chỉ mất sức mà chẳng được việc gì! Nhưng là người tín hữu, chúng ta tỉnh thức bằng cách chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, nỗ lực hơn trong các dự án tình thương, những công việc bác ái, ra sức cổ võ cho sự hiệp nhất,  rộng tay đón tiếp và chia sẻ cho những người nghèo đói, hoạn nạn.

Vì thế, chúng ta nên lập ra một chương trình làm việc trong Mùa Vọng này. Đây là thời gian hồng ân, đây là thời điểm mà chúng ta làm cho cuộc sống bớt bị ràng buộc và trở thành nhẹ nhàng hơn, tập sống buông bỏ không bị dính bén để cho lòng mình được nhẹ nhàng thanh thản chờ đợi Ngày Chúa đến. Ngày ấy sẽ như một chiếc lưới, ập xuống trên mọi cư dân trên khắp mặt đất.

Trước lời cảnh báo như thế, chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. Chúng ta đừng để mình bị "chộp bắt" bất thình lình, như con thú bị sa lưới.

Hãy tỉnh thức, luôn sẵn sàng, luôn cảnh giác. Việc không biết ngày nào sẽ xảy đến, không đặt chúng ta nằm trong trạng thái thụ động, lười biếng, trễ nải, nhưng làm cho chúng ta trở thành những con người hiên ngang đứng thẳng người trong trạng thái sẵn sàng!

Qua những lời trên, Đức Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi ngày đều có thể là ngày Chúa đến! Và hiệp nhất trong kinh nguyện là cách thức chuẩn bị tốt nhất. Qua đó con người gặp gỡ Thiên Chúa, càng gặp càng yêu và càng yêu lại càng muốn gặp; bằng không thì giống như cá thiếu nuớc, con người thiếu dưỡng khí. Như vậy, tỉnh thức và cầu nguyện là khí cụ để con người gặp Chúa và gặp nhau.

Vì thế, đừng ngủ mê nữa, hãy tỉnh thức. Đức Chúa đang đứng ngoài cửa, Người gõ và chờ đợi chúng ta mở cửa đón tiếp Người. Người hằng ước ao được dùng bữa tối với chúng ta. Đó là điều Người mong đợi. Vậy còn chần chờ gì nữa, hãy mở cửa lòng để Chúa ngự đến. Nhất là qua các bữa tiệc tạ ơn, bữa ăn lòng mến, những cuộc gặp gỡ thân tình … tất cả đều là cơ hội để chúng ta chuẩn bị cho Ngày gặp Chúa và anh em, cho đến khi Chúa vinh hiển ngự đến.

Trong giây phút hiện tại, Ma-ra-na-tha, Lậy Chúa xin hãy đến, vì chúng con đang mong chờ Người. Amen!

Wednesday, 17 November 2021

CHÚA GIÊ-SU VUA TÌNH YÊU

 

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Ki-tô, Vua vũ trụ. Đây cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Trong năm qua, chúng ta phải đối diện với đại dịch do Covid-19 gây ra. Bao nhiêu ý nghĩ tiêu cực đã đến trong đầu. Nghi nan, thiếu tự tin, hoang mang, lo sợ và mất bình an đã khiến chúng ta sống mất vui. Nhưng, chính thời gian này chúng ta cũng được chứng kiến bao điều kỳ diệu xẩy đến cho mỗi cá nhân, từng gia đình, cộng đoàn giáo xứ và toàn thế giới. Mỗi giây phút diệu kỳ, từng sự việc xẩy đến trong năm qua đều dẫn chúng ta đến cao điểm của ngày Lễ hôm nay, ngày mà theo ước nguyện, muôn dân muôn nước sẽ đầu phục, quì gối, bái lậy và tuyên xưng Đức Chúa là Vua, Chúa tể của mọi tạo vật, Chúa của mỗi cá nhân và của toàn thể nhân loại này.

Không giống như các chế độ quân chủ, sinh ra các vị lãnh đạo độc tài lạm dụng uy quyền đã xuất hiện và biến mất trên thế giới. Chúa Ki-tô Vua chúng ta, với khí cụ hy sinh, tình yêu và phục vụ, sẽ trị vì mãi mãi qua muôn thế hệ. Tuy là như thế, nhưng đây cũng là dịp để chúng ta ngồi xuống mà nhìn lại ý nghĩa điều mà chúng ta tuyên xưng: Đức Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa của chúng ta.

Đâu là vương quốc của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Thánh Gio-an, trong bài Tin Mừng hôm nay đã nhắc cho chúng ta nhớ rằng: sau khi Chúa bị bắt và trao nộp cho quan chức thời đó, và trong cuộc thẩm vấn, tổng trấn Phi-la-tô đã hỏi Người rằng: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Trong câu trả lời, dù Đức Giê-su đã không nói trực tiếp đến ngôi vị của Người, nhưng cũng hé mở cho Phi-la-tô và chúng ta biết về vương quyền và vương quốc của Người. Đó không phải là một thể chế thuộc về thế gian này. Và những người thuộc về thế gian này không có quyền gì trên Người. Ngay quyền bính mà quan tổng trấn Phi-la-tô đang hành xử cũng không thuộc về ông nếu Thiên Chúa không ban cho ông ta.

Quả thật, như Lời Chúa đã phán: “Nước Ta không thuộc về chốn này.” Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu chứng thực rằng Nước của Người chắc chắn không thuộc về thế giới này. Vương quyền của Chúa không phải là một cái bẫy quyền lực, uy nghi hay sự giàu có như các vua chúa trần gian ra sức dùng mọi cách để chiếm giữ và bảo vệ cho bằng được dù phải hy sinh những kẻ thuộc về họ. Đức Giê-su cũng kiên quyết loại bỏ mọi phương thức bạo lực và lạm dụng quyền bính như các vua chúa trần gian đã thực hiện.

Không giống như các cuộc lên ngôi của vua chúa trần gian, Đức Giê-su đã lên ngôi bằng cái chết trên Thập Giá, đó chính là đỉnh cao sứ vụ mà Đức Giê-su đem đến để bộc lộ tình yêu của Người dành cho toàn dân. Cái chết thảm thương của Đức Giê-su dưới bàn tay của những kẻ đô hộ khiến chúng ta không thể nào tin Người thuộc về dòng dõi của bậc đế vương, hậu duệ của vua Đa-vít. Ngoài ra, Đức Giê-su đã chết như một tội nhân thì làm sao Người có thể giải phóng Ít-ra-en ra khỏi ách nô lệ của đế quốc Rô-ma được.

Vậy Đức Giê-su là vua như thế nào?

Các tín hữu tiên khởi đã nhìn nhận và gọi Đức Giê-su là vua, là Chúa của họ và tin rằng vương quốc mà Người đã thiết lập hoàn toàn khác với các thể chế của trần gian. Đó là sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa với Đa-vít. Chúa Giê-su là vua, là người lãnh đạo và duy nhất chỉ mình Người mới biết cách chỉ cho họ con đường đến và về với Chúa Cha. Đức Giê-su đã không dùng các giải pháp chính trị hay quân sự như vua Đa-vít để thống nhất đất nước, mà là tình yêu và sự chết.

Tình yêu của Vua Giê-su được diễn tả qua việc hiến dâng trên Thập Giá là đích điểm của các lời dậy bảo của Chúa, đã được chia sẻ trong các bài giảng của Người, đó là sự rộng lượng, tấm lòng quảng đại, ơn tha thứ, lòng quan tâm chăm sóc người nghèo, chữa lành bệnh tật cho kẻ bị đau ốm và kêu gọi những người tội lỗi ăn năn. Người không chỉ ban một học thuyết, cho dù học thuyết về tình yêu; nhưng Người đã khai mở con đường yêu thương. Con đường hay lối sống yêu thương này đã xuất phát từ kinh nghiệm mà Đức Giê-su đã trải nghiệm với Cha của Người, và bất cứ ai tin và sống theo Tin Mừng của Đức Giê-su đã rao giảng đều có một trải nghiệm giống như thế. Đây là điều khiến nhiều Kitô hữu sơ khai tin rằng Chúa Giê-su thực sự là vị vua được mong đợi từ lâu của họ. Chúa Giê-su, vua chiến thắng đã dẫn chúng ta, không đi đến một chiến thắng trần thế thoáng qua mà là vinh quang của cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Giê-su chết để nói lên tinh thần vâng phục của Người đối với Chúa Cha. Đây cũng là lúc Người làm chứng cho nhân loại biết rằng Người yêu thương và tín nhiệm Cha đến dường nào. Người ta lầm tưởng là Chúa đã thua cuộc; nhưng ngược lại, qua mầu nhiệm Thập Giá, Đức Giê-su đã bộc lộ lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa khi dám hứa ban Nước của Người cho người kẻ trộm có lòng hối cải đang chịu đóng đinh chung với Người.

Đức Giê-su đã không chịu lùi bước, Người đã chiến đấu. Và qua sự vâng phục Thiên Chúa đã siêu tôn Người. Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh là Vua, là Chúa của muôn dân muôn nuớc. Qua tấm lòng hiếu kính và vâng phục, Người đã sửa lại những lỗi lầm để ban ơn cứu độ, không chỉ cho tên gian phi, mà cho toàn thể nhân loại, trong đó có anh, có chị và mỗi người chúng ta.

Như vậy, khi chúng ta tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa là lúc chúng ta đầu phục Người, trao cuộc sống vào tay Người. Vì thế, hãy chọn Đức Kitô là Vua, là Chúa và bước đi theo Người, vì chỉ nhờ Người, với Người và trong Người chúng ta mới tìm được sự sống viên mãn. Muốn được như vậy, chúng ta cần tựa vào Chúa. Người chính là nguồn năng lực duy nhất giúp chúng ta tiếp tục sống và làm chứng cho thế giới nhận ra Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Amen!

Wednesday, 10 November 2021

ĐỪNG SỢ NGÀY CHÚA ĐẾN.


Chúng ta đang sống trong những ngày tháng cuối của năm phụng vụ. Trong những tuần này, Phụng Vụ Lời Chúa hướng chúng ta về ngày cùng tận, thường hiểu là của thế giới, nhưng thực ra đó là ngày sau hết của mỗi người chúng ta. Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Mác-cô nói cho chúng ta nghe những lời an ủi của Đức Giê-su dành cho các môn đệ về những biến cố kinh hoàng sắp xẩy đến mà họ sẽ phải đối diện. Và dĩ nhiên, trong hoàn cảnh đó thì những điều Chúa nói hôm nay vô cùng quan trọng. Họ cần lắng nghe để chuẩn bị tinh thần và có thêm sức mạnh mà đối diện.

Đối với chúng ta, sau gần hai năm chiến đấu với đại dịch do Covid-19 gây ra, và nhờ phương tiện truyền thông, mắt chúng ta nhìn thấy cảnh người chết nằm la liệt, tai chúng ta nghe tin: cha mất con, vợ mất chồng, anh mất em, cha mẹ già yếu chết cô đơn trong các viện dưỡng lão, v.v... Tại nhiều nơi người ta phải chôn tập thể. Sự chết của các nạn nhân trong mùa đại dịch đã tạo nên một sức ép và ảnh hưởng cách suy nghĩ về lối sống hiện tại của chúng ta. Chúng có thể làm cho chúng ta bị khủng hoảng, thiếu tự tin và mất đi cảm giác an toàn nữa. Thấy người ta chết mà lo, không biết khi nào Cô Vy viếng thăm mình đây!

Với hoàn cảnh như thế thì sứ điệp và những dấu chỉ báo trước ngày chung thẩm cũng vô cùng quan trọng đối với chúng ta, vì qua đó chúng ta xác tín rằng rồi có một ngày thế giới này cũng qua đi, nhưng giờ nào, ngày nào và khi nào việc đó xẩy đến thì không ai biết. Vì đó là “Ngày của Chúa” thì chỉ mình Chúa biết. Phần chúng ta hãy tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa đến trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, vấn đề mà chúng ta quan tâm là ‘ngày cùng tận’ của chính mình.

Quả thật là như thế, bởi những gì mà Đức Giê-su nói cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng là sứ điệp của Người dành cho chúng ta hôm nay. Người muốn chúng ta tiếp tục tin tưởng nơi sự hiện diện của Người. Người muốn lòng chúng ta an bình, không bị hoang mang bởi những gì mà chúng ta không thể khống chế được. Người muốn nhắc lại cho chúng ta biết rằng Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Thần chết đã bị đánh gục bởi Tình Yêu của Người dành cho thế gian này.  Qua sự chết, Đức Giê-su sẽ đưa nhân loại đến một thế giới mới, một thế giới mà con người hằng mơ ước. 

Hơn thế, trong bài diễn từ về ngày cánh chung hôm nay có hàm chứa một biến cố lịch sử đã xẩy ra cho dân tộc Do Thái, đó chính là việc Đền thờ Giê-ru-sa-lem đã bị huỷ diệt thành bình địa. Nhân dựa vào biến cố lịch sử này, các Thánh sử đều muốn nhắm đến sứ điệp là một thời đại đã qua đi để nhường chỗ cho những gì mới sẽ xẩy đến. Giê-ru-sa-lem cũ đã qua đi để nhường chỗ cho một Giê-ru-sa-lem mới. Và cho dù trời đất này phải qua đi thì Trời mới đất mới sẽ xuất hiện. Và một cảnh sống hoà bình sẽ đuợc thành hình như lời loan báo của ngôn sứ I-sa-i-a như sau: “Trong ngày đó, sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa trong hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi Thánh của Ta.”

Hình ảnh mà ngôn sứ I-sa-i-a loan báo quả thật vô cùng đẹp đẽ và an bình. Qua đó, chúng ta tin rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự bình an, của sáng tạo, của sự sống chứ không phải huỷ diệt và sư chết. Có nghĩa là từ khởi thủy, Thiên Chúa đã sáng tạo muôn loại, và sẽ đưa muôn loài đến cùng đích trong sự viên mãn và thành toàn nơi Người. Bởi thế, trong ngày của Chúa, mọi sự sẽ được đổi mới toàn diện; ngày mà chúng ta thấy rõ dung nhan vinh hiển của Chúa, mà trong hiện tại chúng ta chỉ thấy mờ mờ.

Vì thế, trạng thái lo âu và sơ hãi không có chỗ đứng trong hành trang của người tín hữu đang ngóng chờ Ngày Quang Lâm vinh hiển của Đức Chúa. Nhưng không vì thế, mà chúng ta lại đi vào thái cực khác là coi thường, thờ ơ rồi sống như không có ngày chung kết, rồi trong hiện tại con người lại tác oai, tác quái muốn làm gì thì làm, thậm chí kể cả các hành vi vô đạo  và bất lương cũng không từ. Trái lại, chúng ta phải nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của một người quản lý mà Chúa đã giao phó cho việc trông coi và phát triển vũ trụ này trở thành Trời Mới và Đất Mới.

Như vậy, thái độ tích cực nhất của chúng ta là hãy sắp xếp cuộc sống của mình cho phù hợp với các nhiệm vụ đã được giao phó nơi trần thế. Khi thi hành các trách vụ đó, chúng ta không mong tìm được lợi ích cho bản thân mình mà thôi, nhưng quyết tâm chu toàn bổn phận của người quản lý trung tín để phục vụ cộng đồng nhân loại và đổi mới bộ mặt của thế gian. Bởi vì, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn chăm sóc cho dân của Ngài.

Ý thức được nhiệm vụ và bổn phận của mình trong dòng lịch sử nhân loại để ngóng chờ ngày mà Đức Kitô ngự đến trong quang lâm, mỗi Kitô hữu mang trong mình niềm tin tưởng vào sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến, qua những sinh hoạt của mình nơi trần thế. Niềm tin này không chỉ được qui chiếu vào những sinh hoạt phụng vụ hay các bổn phận luân lý cần phải chu toàn mà thôi; nhưng chính nó buộc chúng ta phải dấn thân trọn vẹn vào môi trường, tùy theo ơn gọi của mình, để làm cho môi trường mỗi ngày một hoàn hảo hơn. Đó là niềm hy vọng và cũng là ước nguyện của chúng ta.

Cầu xin cho đức tin, đức ái của chúng ta cùng triển nở với niềm cậy trông, chờ ngày sẽ được vinh hiển với Đức Giê-su trong ngày Người lại đến. Amen!

Wednesday, 3 November 2021

CỦA CHO KHÔNG BẰNG CÁCH CHO

 

Trình thuật Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này chia ra hai phần rõ rệt.

Trong phần thứ nhất, Đức Giê-su nói cho dân chúng về cách sống và lối hành xử quyền bính của mấy ông kinh sư. Thánh Mác-cô nói rất vắn gọn, không dài dòng, đi thẳng vào mục tiêu mà Ngài muốn nhắm đến trong lời cảnh báo cuối cùng là nếu họ không thay đổi thì sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn các người khác, bởi vì họ đã đuợc ban cho nhiều hơn.

Khi trình bầy sự đối nghịch giữa lối sống và lời giảng dậy của giới kinh sư và các thầy thuộc phái Pha-ri-sêu, Chúa khuyên các môn đệ đừng noi gương bắt chước họ, mà hãy nhìn vào lối sống của họ mà né tránh rồi tìm ra bài học về con đường mới, về lối sống mới mà chính Nguời là chứng nhân. Vì thế, trong phần thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã trình bầy hình ảnh và việc hiến dâng lễ vật của bà goá như là gương mẫu mà các môn đệ cần noi theo.

Trưóc khi tìm hiểu việc làm của bà góa và cách đánh giá của Đức Giê-su về việc bà làm, chúng ta cùng nghe một truyện kể được tìm thấy trong kho tàng truyện tích tại các trang mạng. Truyện kể như sau:

Có một ông kia tuy nghèo, nhưng lại có thú chơi xe. Ông đã phải dành dụm trong một thời gian rất lâu mới có đủ tiền để mua được chiếc xe mà ông yêu thích. Sau khi tậu nó về. Ông không ngại cực khổ, cặm cụi rửa xe, đánh bóng, rồi dành thời gian để ngắm nghía thành quả của mình. Ông coi công việc chăm sóc xe như một sở thích trong đời. Cậu con trai tuy còn nhỏ tuổi, nhưng lại đồng cảm với bố. Cậu thấy bố yêu thích chiếc xe như vậy nên cũng thường xuyên phụ bố rửa xe. Hai bố con làm việc rất vui vẻ.

Một ngày kia, người bố lái xe về nhà sau một trận mưa lớn, chiếc xe dính đầy bùn đất, nhưng ông lại quá mệt, nên nói với con trai: “Hôm nay bố hơi mệt, thôi để hôm khác chúng mình rửa xe nhé con yêu!” Cậu con trai thấy mình đang rảnh rỗi, liền xung phong muốn thay bố rửa xe, và được đồng ý. Tuy nhiên, người bố này lại quên là con trai mình chưa được muời tuổi đời. Ông thản nhiên trở về phòng nghỉ ngơi mà quên không chuẩn bị dụng cụ gì cho cậu bé cả.

Cậu quí tử hào hứng xông ra rửa xe, nhưng lại không tìm thấy khăn lau. Cậu bé chạy vào trong bếp, đột nhiên cậu nghĩ tới cái miếng chùi xoong mà mẹ vẫn thường dùng để chà nồi rất sạch sẽ, cậu liền lấy ngay miếng thép ấy để dùng. Cậu cầm miếng chùi xoong, chạy tới chạy lui chung quanh xe, ra sức chà, hết lần này tới lần khác. Sau khi chà xong, cậu phát hiện trên xe có những vết nguệch ngoạc, cậu sờ lên chỗ đó, lại thấy sần sùi, lồi lõm.

Thấy như thế, cậu sợ quá bèn khóc rống lên và chạy ngay vào phòng ngủ của bố, vừa khóc vừa nói: “Bố ơi, con xin lỗi, bố mau tới xem đi!” Ông bố vội vàng theo con trai chạy ra ngoài, chứng kiến chiếc xe “cưng” của mình mang một bộ dạng thê thảm như vậy. Ông không dám tin vào mắt mình. Nhưng, đó vẫn là sự thật! Ông ngẩn người ra, chết lặng đến cả nửa ngày mà vẫn chưa nói nên lời, mãi sau này ông mới thét lên: “Ối trời ơi! Chiếc xe của tôi, chiếc xe của ta ơi!”

Ông vô cùng tức giận, xông ngay vào trong phòng, ngửa mặt lên trời mà than van rằng: “Hỡi Thượng Đế, Thiên Chúa của tôi! Chúa biết, đây là chiếc xe mà con đã dùng hết tài sản sau khi dành dụm mới mua được; thế mà chưa đầy một tháng, giờ này nó đã biến thành như vậy, xin Người cho con biết, con nên làm sao? Con nên xử phạt đứa con này như thế nào đây?”

Lời than xin vừa chấm dứt, đầu óc ông đột nhiên trở nên sáng suốt, và này một tư tưởng vừa lóe lên trong đầu: “Trong cuộc sống, mọi chuyện đều không thể nhìn vào cái vẻ bên ngoài mà phải nhìn vào trái tim.”

Trong khi đó, cậu con trai vẫn còn nước mắt đầm đìa. Nhìn thấy con mình như thế, bao nhiêu giận dữ của ông bố từ từ biến mất, ông buớc lại gần để trấn an con mình, nhưng cậu vừa thấy bố đến gần lại càng run sợ hơn. Ông ôm đứa con trai nhỏ bé của ông vào lòng rồi ôn tồn nói: “Cảm ơn con đã giúp bố rửa xe; bố yêu con nhiều hơn yêu chiếc xe này nữa!”

Anh chị em thân mến,

Câu chuyện nói trên giúp ta nhận ra cách hành xử của Đức Giê-su trước hành động của bà goá trong bài Tin Mừng, đúng hơn là hai bà góa trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Hai bà đã dậy chúng ta một bài học, mà tôi đã được nghe cha ông chúng mình dậy bảo rằng “của cho không bằng cách cho.” Có nghĩa là, khi chúng ta san sẻ cho ai điều gì thì hãy trao ban cho họ bằng cả tấm lòng, nghĩa cử trân trọng và cung kính thì người nhận sẽ cảm thấy vui hơn. Đừng trao ban bằng thái độ kẻ cả, trịch thượng, coi thường kẻ khác thì cho dù món quà của chúng ta có quí giá đến đâu, nhưng thái độ khi trao ban hay san sẻ của chúng ta khiến cho tha nhân bị tổn thương vì bị coi thường.

Vì thế, việc làm của hai bà góa thật đáng ngợi khen. Họ đã cho đi tất cả những gì mà họ có để nuôi sống hai bà và gia đình. Có nghĩa là, họ đã cho đi chính cuộc sống của họ và gia đình. Hành động của họ không chỉ mang tính quảng đại, mà còn nói lên tính liễu lĩnh, biểu lộ một niềm tin vô cùng vững chắc vào Đấng có quyền trên việc sống chết của họ nữa.

Bà goá ở Sa-rép-ta trong bài đọc thứ nhất đã nói: “Tôi chỉ có trong hũ một nắm bột, và trong bình một chút dầu thôi”. Đó là của ăn đường cho bà và gia đình trước khi chết. Thế mà bà và gia đình sẵn lòng hy sinh phần ăn này để cứu ngôn sứ Elia khỏi bị chết đói. Hy sinh như thế nói lên tâm tình dâng hiến của bà. Hiến dâng những gì mình có tức là cho đi chính con người của mình, sự sống của mình. Mấy ai làm đuợc điều này, thế mà bà góa ở Sa-rép-ta lại làm được. Quả thật đây là một vấn đề thách đố lương tâm của chúng ta.

Tương tự như thế, ngày hôm nay tại cửa trước của đền thờ Giê-ru-sa-lem và trước mặt bao nhiêu người giầu có đã dâng cúng vào hòm tiền phần dư thừa, bà góa vô danh của chúng mình lại dâng cúng ít nhất, chỉ vỏn vẹn có hai đồng kẽm. Nhưng đó lại là tất cả những gì bà có. Bà dâng trọn vẹn những gì còn lại để nuôi sống bà. Bà cho đi tất cả. Đức Giêsu nhìn thấy, không chỉ nhìn vẻ bề ngoài mà còn nhận ra trong phần sâu thẳm nơi tâm hồn của những người dâng cúng nữa. Người nói “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”

Khi nói tới đây, chúng ta không thể nào quên được chi tiết ám chỉ việc làm của Đức Giê-su sau này. Hành động của bà góa hôm nay có thể đuợc coi như một hình ảnh báo trước việc Đức Giê-su chuẩn bị thực hiện tại Giê-ru-sa-lem trên đồi Gol-go-tha. Người chính là lễ vật toàn thiêu, hiến dâng chính mạng sống mình làm giá chuộc muôn người. Lễ vật dâng trong đền thờ của bà góa hôm nay loan báo việc tự hiến của Đức Giê-su dâng cho Chúa Cha đấy thôi!

Sau cùng, trình thuật Tin Mừng hôm nay kể về việc dâng cúng bà goá. Bà là hình ảnh của một lớp người nghèo, cô thân cô thế. Như vậy, lẽ ra bà phải được các môn đệ quan tâm, chăm lo và săn sóc, trái lại qua việc dâng cúng cho dù rất nhò bé hôm nay, bà lại trở thành gương sáng, mẫu mực cho những ai muốn trở thành môn đệ của Chúa.

Thật vậy, theo Chúa là để dâng hiến tất cả những gì mình có. Như bà goá, khi dâng cúng số tiền tuy ít, nhưng là tất cả những gì bà có, các môn đệ và chúng ta cũng đuợc dậy bảo để dâng hiến, không chỉ một phần, nhưng là dâng hiến hết khả năng cho công việc phục vụ tha nhân vì họ là đền thờ của Thiên Chúa vậy. Amen!