Sunday, 28 April 2024

TRONG CHÚA MỚI SINH HOA KẾT TRÁI

Anh chị em thân mến,

Đức Giê-su, trong bài Tin Mừng hôm nay đã nói cho chúng ta biết rằng chính Người là cây nho đích thật và chúng ta là cành. Như cành nho muốn sinh hoa kết trái thì phải gắn liền vào thân cây nho. Chúng ta cũng thế, nếu muốn trổ sinh hoa trái nhiều hơn thì phải gắn liền với thân thể của Chúa và ở lại trong Người.

Tôi đã nghe đoạn Tin Mừng này rất nhiều lần. Nhưng, hôm nay khi nghe và suy niệm tôi thấy mình bị cuốn hút một cách mạnh mẽ vào lời tuyên bố của Chúa Giê-su, đó là không có Chúa, chúng ta chẳng làm gì được. Tôi xin anh chị em lưu ý rằng Đức Giê-su không nói rằng nếu không có Người, chúng ta có thể làm được một vài điều quan trọng. Không! Đức Giê-su nói nếu không có Người, chúng ta không làm được gì hết. Việc chúng ta ở lại trong Chúa diễn tả niềm tin tưởng, sự gắn bó, hiệp thông và cùng bước đi của chúng ta với Người.

Thật vậy, chỉ có ở lại với Chúa Giê-su chúng ta mới sinh hoa trái. Người luôn sẵn sàng, chờ đợi sự đồng ý, thậm chí cho phép của chúng ta để Người hành động. Phần chúng ta, hãy ở lại trong Người, hãy tin tưởng nơi Người là Đấng luôn trung tín với Lời Người đã hứa rằng: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái,”

Trong lúc suy tư tới đây, tôi chợt nhớ một câu chuyện. Truyện kể về hoàn cảnh của một thiếu nữ, ở độ tuổi mới lớn, dự định dọn nhà ra đi vì có vài mâu thuẫn và không chịu nổi các qui luật dường như hơi khó khăn của gia đình. Cô muốn thoát ly. Cô không muốn ở lại trong bầu khí dường như quá ngột ngạt của gia đình nữa.

Vào một ngày nọ, trong khi cô đi dạo tại một công viên gần nhà thì nhìn thấy con két nhỏ bị thương ở đôi cánh đang nằm bên lối đi dành cho người đi bộ. Khi thấy hoàn cảnh quá đáng thương của con vẹt. Bản tính của cô lại rất yêu thú vật nên cô đã bế chú vẹt về nhà, tự tay làm ổ và chăm sóc chú chim con. Vì bận rộn với công tác mới như thế cho nên cô không thể thực hiện ý định bỏ nhà. Cô sẽ thực hiện ý định này cho đến khi chim con lành bịnh và có thể bay lại được. Ngày qua ngày, sau cùng chim con cũng có thể nhẩy nhót và bay lại được và cô quyết định giải thoát chim con.

Cô bèn đem chú két ra công viên. Đang lúc phóng sinh thì cô một gặp một nhân viên bảo vệ thú vật đang đi tuần ở đó. Ông nghi là cô có ý định hành hạ thú vật nên tính phạt cô. Nhưng khi nghe cô giải thích ông mới hiểu rõ sự kiện bèn giải nghĩa cho cô biết việc thả chú chim con tại công viên không thích hợp, chim có thể bị nguy hiểm khi không được bảo vệ. Ông ta đề nghị cô hãy đem chim con bỏ vào rừng, nơi con chim thuộc về. Tại nơi đó chú chim con sẽ được bảo vệ. Bởi vì, khi chim sống theo bầy thì cơ hội sống sót cao hơn. Cô đã làm theo lời chỉ dẫn của ông. Chú chim con đã được trở về nơi chú thuộc về. Còn phần cô gái trẻ, ngạc nhiên thay khi trở về nhà cô cũng quên luôn ý định bỏ nhà ra đi.

Cùng một cách suy nghĩ, mọi tương quan chỉ được nối kết khi con người muốn ở bên nhau. Từ trong cùng một môi trường và ai cũng quyết tâm giữ mối dây liên kết với nhau thì sau cùng mối tương giao sẽ được thiết lập. Nhưng nếu bất kỳ một ai muốn dời đi thì mối quan hệ sẽ bị sứt mẻ.

Tương tự như thế, cho dù ước muốn của Thiên Chúa là muốn cuộc sống của chúng ta được thêm nhiều hoa trái, nhưng nếu chúng ta từ chối không hợp tác hay là không muốn ở lại trong mối quan hệ với Người và tha nhân thì Người cũng không thể làm gì khác để chúng ta trổ sinh hoa trái được. Và phần chúng ta sẽ bị khô héo. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta hãy nhìn lại, không phải thành quả hay các việc làm cho bằng mối tương quan của Thiên Chúa và chúng ta, và giữa chúng ta với nhau.

Như vậy, bài học của chúng ta hôm nay là: Sống đổi mới và sống liên kết với nhau. Đổi mới để chấp nhận nhau. Liên kết trong các sinh hoạt chung để việc xây dựng nhóm, xây dựng gia đình và cộng đoàn mỗi ngày mỗi gắn bó mật thiết với nhau hơn; rồi từ đó chúng ta đến với nhau bằng sự tin tưởng và lòng yêu thương.

Anh chị em thân mến,

Tin tưởng và yêu thương là hai đức tính nền tảng của người tín hữu. Các đức tính này cần được trau dồi và luyện tập trong cuộc sống. Niềm tin của chúng ta không dựa vào một vị Thiên Chúa của trí óc về tính siêu việt của Ngài, nhưng là một sự lệ thuộc vào Đấng đã nghe, đã thấy, đã sống lại và đang hiện diện để cứu thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của sự dữ và thần Ác.

Từ đó, chúng ta làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa qua cách xử thế của chúng ta với người khác. Chúng ta yêu người bằng con tim chân thật thể hiện qua hành động, không nơi đầu môi chót lưỡi. Tình yêu này được xuất phát bởi niềm tin vào Đức Giêsu, Con của Người.

Và, khởi điểm của sự yêu thương là chấp nhận sự khác biệt của nhau, giảm bớt các mối nghi kỵ và sợ hãi nhau. Thật vậy, mỗi người chúng ta là những cành nho được nuôi dưỡng bởi cây nho. Như cành nho, không cành nào giống cành nào. Chúng ta cũng thế, mỗi người đều có các vẻ đẹp khác nhau trong vẻ đẹp chung xuất phát từ Thiên Chúa. Và tự cành nho không thể sống được nếu không tiếp nhận sự sống từ cây nho, thì sự sống của chúng ta hoàn toàn phát sinh từ sự sống của Chúa: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.” (Gio-an 15: 4-9) Có nghĩa là chỉ ở lại với Chúa và trong Chúa thì người môn đệ mới sinh hoa kết trái; bằng không thì sẽ bị khô héo và cháy đi.

Tuy nhiên, không phải là cứ ở trong Chúa rồi sẽ sinh hoa kết trái đâu! Hoa quả đuợc sinh ra từ nhựa sống của thân cây và cũng bị cắt tỉa để tươi tốt hơn thế nào thì cuộc sống của người môn đệ cũng cần đi vào mầu nhiệm Thập Giá mà chính Đức Giê-su đã buớc vào. Người môn đệ cũng cần bị cắt tỉa, cắt tỉa ý riêng, từ bỏ sở hữu; từ bỏ tất cả rồi vượt qua cái chết để buớc vào sự sống vĩnh cửu. Chỉ có bị cắt tỉa như thế thì con người mới đuợc dự phần vào cuộc sống vĩnh cửu với các giá trị mới mà Chúa Ki-tô Phục Sinh đem lại, nhờ vậy mà Thiên Chúa được tôn vinh và chúng ta quả thật rất xứng đáng là môn đệ của Người. Amen!

NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT

Anh chị em thân mến,

Chúa nhật thứ tư trong mùa Phục sinh còn được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Đây là một hình ảnh vô cùng sống động mà Hội Thánh dùng để mời gọi con cái mình nhận ra lòng yêu thương, sự bao bọc và bảo vệ của Thiên Chúa như người mục tử nhân hậu sẵn sàng làm mọi sự, ngay cả hy sinh mạng sống, để bảo vệ đoàn chiên.

Cũng trong ngày hôm nay, Hội Thánh cổ võ và cầu nguyện cho ơn gọi chung cho tất cả môn đệ, không phân biệt phẩm trật, không loại trừ một ai. Tất cả đều được mời gọi noi gương Đức Giê-su, Đấng Chăn Chiên nhân hậu, Mục Tử duy nhất của thế giới mọi thời.

Trước tiên, chúng ta hãy coi lại cách nhìn và sự hiểu biết của chúng ta về vai trò của người mục tử. Chúng ta thường hay gọi Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, và đôi khi các Linh Mục là các nhà mục tử. Đây là kiểu nói quá hạn hẹp vì cho rằng chỉ có các Đấng bản quyền mới có trách nhiệm chăn dắt con chiên, bổn đạo.

Ngày xưa, người ta nói rằng việc mở mang Nước Chúa được thực hiện bởi hàng Giáo Phẩm. Ngày nay, nhờ sự tác động của Thánh Linh, nhất là từ công đồng Vatican II, chúng ta đã có được cái nhìn đúng đắn hơn. Trách nhiệm mở mang Nước Chúa được trao ban cho tất cả mọi tín hữu, ai ai cũng có bổn phận loan báo Tin mừng.

Chính vì thế, một mặt vai trò ‘mục tử’ được dùng để nói đến trách nhiệm của chúng ta là những kẻ được đặt để chăm sóc, quan tâm và nhất là để trao ban tình yêu cho người khác tùy theo ơn gọi mà Chúa đã mời. Mặt khác, chúng ta phải thừa nhận rằng chính Chúa Giêsu mới là Đấng chăn chiên nhân hậu, còn chúng ta tuy được ban tặng cho danh hiệu đó; nhưng chúng ta vẫn là người thừa hành tác vụ từ Chúa. Căn bản, mỗi người chúng ta luôn là những con chiên trong ràn chiên của Chúa.

Hẳn anh chị em còn nhớ, các ngôn sứ của thời Cựu ước đã dùng hình ảnh ‘người chăn chiên’ để ám chỉ đến các vị lãnh đạo về phần đời cũng như trong đạo của người Do Thái. Khái niệm này đã đuợc hình thành trong hoàn cảnh của dân Do Thái khi bị lưu đầy bên Babylon. Trong bối cảnh như thế, khi mà dân Do thái đã mất tất cả như: mất đi nền văn hóa truyền thống, xa quê hương và không còn đền thờ để thờ phượng,... thì ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã khơi lên niềm hy vọng cho dân bằng cách trình bầy Thiên Chúa là Người chăn chiên tốt lành, là Mục tử nhân hậu, là Đấng dẫn đường để dẫn dắt ràn chiên, tìm chỗ cho chiên ăn, dẫn lại về ràn các con chiên lạc đường và cứu chiên thoát khỏi các cạm bẫy, các hiểm nguy của các thợ săn và thú dữ. (Ed 34:11–16). Từ đó mỗi khi nói đến người chăn chiên thì dân Do Thái hình dung ra hình ảnh của một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và quan tâm đến họ.

Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Trở lại với trình thuật của Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy cố gắng tìm ra điểm then chốt trong mối quan hệ giữa người chăn chiên và ràn chiên, nhờ đó chúng ta sẽ tìm ra những bài học bài học hữu ích trong cuộc sống.

Trước hết, chúng ta cần đồng ý với nhau rằng qua cuộc sống và sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng thực điều Người đã phán dậy hôm nay, chính Đức Giê-su là người chăn chiên tốt lành và thiện hảo. Người biết rõ nhu cầu, sở thích, ưu điểm, khuyết điểm và các thương tích của từng con chiên. Người đã hy sinh chính mạng sống mình để bảo vệ và ban sự sống cho các con chiên trong ràn.

Đối với Đức Giê-su thì tất cả mọi người không cần phân biệt chủng tộc hay mầu da, tự do hay nô lệ, tín ngưỡng hay lối sống, nam hay nữ, giầu sang hay nghèo hèn… Tất cả đều thuộc về ràn chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người để chăm nom. Trong Chúa không có sự tách biệt. Tất cả đều bình đẳng, không ai hơn ai kém. Mọi người đều có giá trị thật quan trọng trong con tim của Người chăn chiên tốt lành là Đức Giê-su Kitô.

Người phán: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” là một xác định thật quan trọng nói lên mối tương quan giữa Đức Giê-su và các con chiên. Người không lý giải hay biện minh. Người đã phán như một Đấng có uy quyền. Tôi là! Tôi là Người Chăn Chiên Tốt ! Trong mối dây tương quan giữa Chúa Cha và mình, Đức Giê-su đã xác định một cách thật mạnh mẽ: Tôi là Người Chăn Chiên Tốt, Tôi biết chiên tôi, chúng biết và nghe tiếng Người. Đây không là vấn đề để tranh luận hay bàn cãi. Ai tiếp nhận thì điều mà Chúa phán hôm nay nghiễm nhiên trở thành sự thật và của mình.

Nghe tiếng Chúa, hôm nay, có nghĩa là nhận ra tiếng Chúa trong mối dây thân mật dưạ trên tương quan của Tình Yêu, của gắn bó và hiệp thông. Thậm chí đến mức độ, trong mối tương quan này họ không cần nói, cũng chẳng cần nghe… mọi âm thanh dường như cần dừng lại để cho cảm xúc của Tình Yêu và Lòng Mến dâng trào và ngâp tràn trong giây phút hai người biết nhau, như “Tôi biết chúng và chúng biết tôi.”

Như vậy, chúng ta biết rằng chỉ mình Đức Giê-su là Đấng chăn chiên tốt lành. Người biết rõ nhu cầu, sở thích của từng con chiên trong ràn và cả những con chiên ngoài ràn nữa. Cả thế giới và mọi người sống trong đó là ràn chiên thuộc về tay Người. Người đã chết để bảo vệ và ban cho mọi con chiên sự sống và không ai có thể lấy mất được.

Còn chúng ta, mỗi người đều là những mục tử, chăn dắt ràn chiên, nhỏ hay lớn, mà Thiên Chúa trao phó. Chúng ta không thể nào chu toàn nhiệm vụ cao cả này nếu không sống rập theo gương mẫu của Người Chăn Chiên duy nhất là Đức Ki-tô, Đấng đã chấp nhận mọi đau khổ, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để diễn tả tình thương cho mọi con chiên của Người. Tuy nhiệm vụ rất khó khăn và còn nhiều gian nan nhưng chúng ta sẽ làm được vì có Chúa Chiên lành, Đấng đang bồng bế và ôm ấp chúng ta trong vòng tay yêu thương của Người. Tin Tưởng vào Tình Yêu Nhân Ái của Người, chúng ta cùng tiến bước và làm như Người đã làm, hy sinh cho nhau sống và sống đầy tràn. Amen!

Monday, 22 April 2024

CHÚA SỐNG LẠI, TA LÀ CHỨNG NHÂN

 

Anh chị em thân mến,

Trong những tuần qua, chúng ta đã được nghe các trình thuật nói về việc Chúa đã sống lại. Người đã sống lại, đang hiện diện, đồng hành và sống với chúng ta, và chúng ta hãnh diện là các chứng nhân về sự sống lại đó của Người. Đó chính là sứ điệp trong bài Tin Mừng hôm nay. Mời anh chị em cùng nghe các diễn tiến trong lần hiện ra này.

Hai môn đệ, mà chúng ta chỉ biết một người tên là Cleopas, đang say sưa và vui sướng kể lại cho các môn đệ khác biết, trên đường đi Em-mau, Chúa Giê-su đã hiện ra cho các ông như thế nào. Bất thình lình, không biết từ đâu Chúa hiện đến, cắt ngang cuộc trò chuyện của họ và đứng giữa các ông rồi nói “Bình an cho anh em.” Họ nhìn thấy Chúa, nghe Chúa nói, nhưng lại không nhận ra Chúa mà còn tưởng là ma.

Họ không nhận ra bản tính thần linh và thánh thiêng của Chúa, Đấng đang ở giữa họ. Họ tiếp tục sống trong lối suy nghĩ của họ. Họ vẫn chưa nhìn ra sự sống và sự đổi mới mà Chúa Phục Sinh đem lại. Sự Phục Sinh không thể là một biến cố dựa trên lối suy nghĩ hay khám phá bằng lý trí của con người. Đó là một sự kết hợp và nối tiếp giữa chết và sống lại. Vẫn biết thân xác sống lại của Chúa là thân xác đã bị thương tích nhưng hôm nay thân xác của Chúa không bị ràng buộc bởi các qui luật tự nhiên của không gian và thời gian trong thế giới mà chúng ta đang sống nữa.

Bài tường thuật củng cố niềm tin của chúng ta. Tin thôi cũng chưa đủ mà còn phải làm chứng về sự sống lại của Chúa bằng chính lối sống của mình như Lời Chúa nói hôm nay rằng: anh em là chứng nhân về những điều mà anh chị em đã có kinh nghiệm.

Việc các môn đệ làm nhân chứng không có nghĩa là họ đã tìm và có được câu trả lời cho tất cả mọi sự. Cuộc sống nhân chứng có nghĩa là bây giờ họ và chúng ta có được cuộc sống theo đúng ý Chúa. Họ là nhân chứng không dựa trên những gì họ biết, nhưng dựa trên mối quan hệ của họ với Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại và cùng sống với họ.

Thật vậy, nhìn lại từ những ngày đầu tiên của Ki-tô giáo cho đến hôm nay, chúng ta nhận ra rằng chỉ có một chứng cớ thuyết phục con người mọi thời đó chính là đời sống chứng tá của các tín hữu. Với Chúa Phục Sinh, những ai tin vào Chúa đã đuợc biến đổi, sẵn sàng quay lưng lại với các tiêu chuẩn của nền văn hoá sự chết, rồi quyết tâm biểu dương văn hoá sự sống qua lối sống yêu thương, tha thứ và trao ban cho nhau sự sống. Họ làm chứng cho thế giới nhận ra rằng Chúa đã sống lại và hiện đang sống mãnh liệt trong lối sống của họ. Đó là những gì mà Chúa Giê-su đã làm cho các môn đệ, và đó cũng là những gì Người muốn chúng ta lĩnh nhận.

Anh chị em thân mến,

Tôi vẫn biết rằng trong cuộc sống, chúng ta đã trải qua những khoảnh khắc khó quên. Những khoảnh khắc này đã ảnh hưởng và làm thay đổi lối suy nghĩ, hành động, cách cư xử của chúng ta. Trong các thời điểm đó, chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đổi mới cuộc sống của chúng ta. Đó chính mục đích mà Chúa Phục Sinh muốn chúng ta có.

Tuy nhiên trong bài Tin Mừng hôm nay, có một chi tiết mà chúng ta nên để ý đó là giây phút mà hai môn đệ nhận ra Chúa đã sống lại là lúc Người bẻ bánh. Và giờ đây, theo dấu chân họ, chúng ta hãy tự hỏi là mình đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh như thế nào?

Khi nói đến việc nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh là lúc chúng ta tin và nhận ra sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể và trong Thánh Lễ. Quả thực không sai!

Căn cứ vào sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta nhận thấy việc bẻ bánh đã có từ thời các Tông Đồ. Họ chuyên cần nghe giáo huấn của các Tông Đồ, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng… Họ sống hiệp nhất và yêu thương, mọi sự đều là của chung và ai nấy tiêu dùng theo nhu cầu của mình… Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được người người thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn thêm nhiều người tin vào Chúa và đuợc cứu độ. Qua đó chúng ta nhận thấy việc bẻ bánh đuợc thực hiện tuy với tâm hồn đơn sơ, nhưng lại rất thực tiễn. Họ không chỉ tham dự các nghi thức nhưng còn chia sẻ lối sống và san sẻ cho nhau tuỳ theo lợi ích và nhu cầu của từng người.

Lối sống này được nhấn mạnh như một lời mời gọi chúng ta nhìn lại việc làm của mình! Viêc cùng nhau cử hành bữa tiệc Thánh Thể, bẻ bánh mà chúng ta gọi là Thánh Lễ ngày nay có phản ảnh lối sống hiệp nhất và yêu thương của chúng ta hay không? Bằng không thì chúng ta đang lập lại những gì mà anh chị em tín hữu thuộc công đoàn Cô-rin-thô đã phạm phải trước đây. Và sau đây là phản ứng và huấn dụ của Thánh Phao-lô:“…tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại… Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say. Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!”

Sau đó Thánh Phao-lô nhắc lại cho họ biết sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục Sinh khi Người bẻ bánh. Rồi Ngài tiếp tục khuyên dậy họ cần xét mình, biện phân để khỏi bị xét xử. “Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án…” (1Cor 11: 17-34)

Như vậy việc nhận ra hay tin rằng Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện qua việc bẻ bánh thật cần thiết và quan trọng. Tất cả đã đuợc lưu truyền và làm chứng bởi đời sống của các chứng nhân qua bao thế hệ. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn được mời gọi sống vai trò của những chứng nhân không chỉ bằng lối sống phụng vụ mà còn bằng chính cuộc sống chia sẻ và yêu thương của chúng ta nữa.

Và khi thực hiện đuợc như thế, chúng ta đã sống thật đúng như lời nhắn nhủ của Chúa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Thật vậy, sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thiên Chúa ở lại với chúng ta mãi mãi vì Ngài là Em-ma-nu-en. Đó là tinh thần mà chúng ta mang đến cho nhau qua bữa tiệc bẻ bánh. Không phải chỉ có chúng ta, nhưng Chúa Kitô Phục Sinh đồng hành và cùng hiện diện với chúng ta nữa. Vì Danh Nguời mà chúng ta chia sẻ và yêu thương nhau. Và chúng ta là những chứng nhân về các điều ấy.

Sau cùng, chúng ta biết rằng niềm tin của chúng ta dựa trên lối sống của các chứng nhân. Họ đã và đang làm chứng về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời họ. Và qua những lần bẻ bánh, chúng ta có bổn phận làm chứng cho nhau biết về sự hiện diện của Chúa.

Nói chung, Chúa Phục Sinh chính là trung tâm của cuộc sống chúng ta vậy. Amen

 

Wednesday, 3 April 2024

CHÚA PHỤC SINH, CÒN MANG ĐẦY THƯƠNG TÍCH!


Anh chị em thân mến,

Hẳn anh chị em vẫn biết rằng Phục Sinh là mầu nhiệm; một mầu nhiệm nền tảng và cao trọng nhất của Ki-tô giáo. Và nếu đó là mầu nhiệm thì đầu óc con người sao hiểu thấu được! Chỉ còn nhờ vào niềm tin. Vì thế, mục đích của việc Chúa hiện ra là để củng cố đức tin cho các Tông Đồ và các môn đệ, sau đó Người trao ban cho các ông sứ mạng làm chứng nhân về biến cố Phục Sinh mà chính các ông cảm nhận.

            Trình thuật hôm nay kể lại hai lần hiện ra của Chúa Giê-su. Việc đầu tiên Người làm trong hai lần hiện ra là chúc bình an cho các môn đệ. Đây không phải là lời chúc mà thôi, nhưng đó là ân huệ đầu mùa của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ. Người không chỉ chúc một lần, nhưng đã lập lại lời chúc ‘Bình an cho anh em’ đến ba lần.

Khi đón nhận ơn bình an của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng hiểu rằng họ phải trao ban cho người khác điều mà họ vừa lĩnh nhận, nghĩa là trở thành sứ giả bình an cho nhân loại. Có nghĩa là khi chúng ta chúc bình an cho nhau là lúc chúng ta cầu mong cho nhau được bình an thật sự. Việc này chỉ có thể có được khi chúng ta được bình an mà thôi. Không ai trong chúng ta có thể trao cho người khác điều mà chúng ta không có!

Sau đó Chúa cho họ thấy tay và cạnh sườn của Người. Khi làm như thế, Chúa muốn cho các ông nhận ra rằng thân xác của Chúa Phục Sinh và con người đã trải qua khổ nạn, chết trên Thập Giá là một người. Vinh quang chỉ tỏ hiện qua hành trình của đau khổ. Cho dù hy sinh đi liền với các bi kịch trong cuộc sống của Chúa; nhưng qua hy sinh Chúa đã hoàn tất mầu nhiệm Tình Yêu để chiến thắng bằng cuộc chỗi dậy và hiện diện một cách vĩnh cửu. Khi thấy những chứng tích đó, các môn đệ đã vui mừng và tin rằng người đang ở trước mặt họ là Đức Giê-su, vị Thầy đáng kính của họ.

Sau đó, Chúa Giêsu tiếp tục ban bình an và Thánh Thần cho các ông để các ông ra đi hoàn thành sứ mạng mà chính Người vừa hoàn tất.

Lần hiện ra thứ nhất này không có mặt Tôma. Các môn đệ khác đã kể lại cho ông biết về việc này: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Nhưng Tôma đã không tin vào lời loan báo của các bạn mình. Thật ra, các bạn của ông cũng chẳng làm chứng được gì. Họ vẫn đóng kín vì sợ hãi. Cho dù Thần khí đã đuợc trao ban, nhưng các bạn của Tôma đã không để cho sức mạnh của Thần Khí tác động. Họ vẫn chưa ra khỏi vùng an toàn, vẫn dựa vào các cánh cửa đã đuợc đóng kín để bảo vệ, chưa sẵn sàng ra đi rồi vịn cớ là không biết đi đâu! Lời loan báo của họ không đi đôi với việc họ làm thì làm sao khiến Tôma tin đuợc.

Còn Tôma, ông muốn niềm tin của ông phải dựa trên trải nghiệm của cá nhân; ông muốn chạm vào thân thể của Chúa, nên đáp rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” 

Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra với các ông, lần này có mặt Tô-ma.

Cũng như lần hiện ra lần trước. Việc đâu tiên Người làm là ban bình an cho các môn đệ rồi sau đó quay sang Tôma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tôma đã đáp trả bằng một niềm xác tín thật cao độ rằng Người là CHÚA và là THIÊN CHÚA của ông.

Sau đó qua Tôma, Chúa đã thể hiện tình thương của Người dành cho chúng ta bằng cách trao ban cho chúng ta thêm mối phúc nữa là “Phúc thay những người không thấy mà tin.”

            Trước khi xem xét cách biểu lộ niềm tin của Tôma, chúng ta biết rằng ông không phải là trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Trình thuật nói về việc Chúa hiện ra thì Chúa phải là trọng tâm. Khi nhìn như thế, chúng ta mới khám phá ra lòng đại lượng phát sinh từ tình yêu của Chúa.

Chúng ta vẫn thường đuợc dậy bảo niềm tin vào Chúa phải là một niềm tin vô điều kiện, phó thác hoàn toàn theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa hành xử với Tôma quả thật khác hẳn với lối suy nghĩ cầu toàn của chúng ta. Chúa chấp nhận điều kiện mà Tôma đưa ra. Cho dù đã đuợc tôn vinh, nhưng Chúa vẫn không che dấu các thương tích. Đó chính là chứng tích của Tình yêu thì làm sao phải che dấu! Các vết thương đó cần đuợc bộc lộ hơn là che dấu.

            Tôma cũng có nỗi đau của riêng mình. Ông cũng là nguời đang mang thương tích. Chúa Giê-su, Thầy đáng kính của ông đã chết. Cái chết của Người để lại trong ông một tâm trạng buồn rầu và mất mát; ông và dân tộc ông còn biết trông cậy và nương tựa vào ai nữa đây. Ông đi trốn một mình. Ông cần có một không gian và nơi ẩn nấp để đối diện với niềm đau này. Vì thế ông đã hụt mất một cơ hội khi Chúa hiện ra lần trước.

Các bạn của ông cũng thế, họ cũng có niềm đau rồi sinh ra chán nản và thất vọng. Nhưng họ đã chọn cách đối diện với bi kịch mà họ đang đón nhận bằng cách liên đới, chia sẻ, an ủi và hỗ trợ nhau. Trước đây họ nương tựa vào Thầy. Sau khi Thầy của họ bị giết, họ không biết số phận của họ rồi sẽ ra sao? Thầy của mình quyền năng đến dường nào mà còn bị xử tử phương chi là họ, những cậu học trò nhút nhát và sợ sệt. Trong tình thế đó, họ chọn giải pháp đi trốn để dấu đi nỗi sơ hãi.

Nói chung là chỉ có ai đã kinh qua đau khổ mới thông cảm cho những người đồng cảnh ngộ. Chúa đã bị thương tích và Người cũng nhìn thấy các nỗi đau khổ mà Tôma đang đối diện; vì thế Người cũng muốn cho ông biết là Người rất thông cảm với yêu cầu của ông.

Qua sự tiếp xúc, Thầy trò gặp và nhận ra nhau. Chúa chữa lành thuơng tích cho ông. Còn ông nhận ra Thầy mình là Chúa và là Thiên Chúa của ông. Ông đầu phục hoàn toàn trước quyền năng của Thầy mình, Đấng mới bị án tử mấy ngày qua.

Để kết thúc bài suy niệm, chúng tôi xin gửi đến anh chị em tâm tình của Đức Hồng Y Luis Antonio Gokim Tagle đã chia sẻ cho các thành viên tham dự tĩnh tâm tại Tổng Công Hội lần thứ 25 của Dòng Chúa Cứu Thế, tổ chức ở Pattaya, vào năm 2018, tại Thái Lan. Ngài nói như sau:

Chúa Phục Sinh không xoá đi dấu vết của thập giá. Vết thương vẫn là vết thương. Thế giới của chúng ta đầy những vết thương. Ai nhắm mắt lại trước những vết thương của anh chị em mình thì không có quyền tuyên xưng, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chạm vào những vết thương của nhân loại là điều kiện cần thiết cho một đức tin đúng nghĩa.

Chúng ta hãy chạm vào vết thương của người nghèo, hãy đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thâu của họ. Đó chính là phần tuyên xưng đức tin của chúng ta. Chối từ những vết thương của anh chị em mình là cắt đứt những cầu nối của tình hiệp thông.

Chúng ta thường sợ chạm vào những vết thương của người khác. Tại sao vậy? Một phần sợ bị lây nhiễm, phần khác vì chúng ta sợ gợi lại chính những vết thương của chúng ta. Sợ hãi này làm cho chúng ta xa cách anh chị em chúng ta. Có một mối hiệp thông sâu hơn. Đó là hiệp thông với nhau trong những vết thương chung, nỗi đau chung, cái nghèo chung. Người liên kết chúng ta lại với nhau và đã ôm lấy tất cả chính là Chúa Giêsu đã trải qua muôn ngàn khổ đau rồi mới đuợc Phục Sinh. Trong Đức Ki-tô chúng ta hiệp thông với nhau; trong Chúa Cứu Thế chúng ta liên đới với nỗi đau và mang lấy vết thương của anh chị em mình.

Hãy gặp và chạm vào chính Chúa Phục Sinh, Đấng đang mang thương tích nơi những anh chị em nghèo, bị tổn thương, bị bỏ rơi, đang lầm đường, đầy tội lỗi. Cùng nhau đến với họ bằng sự dịu dàng của lòng thương xót của Thiên Chúa. Hãy để tình liên đới với người nghèo trở thành nền tảng, trở nên bản chất đích thật cấu tạo nên người môn đệ của Chúa Cứu Thế, Đấng đã sống lại và hiện diện nơi những con người tất bạt về mọi phương diện, thể xác cũng như tâm hồn.

Chúa Phục Sinh vẫn còn mang thương tích. Người đang chờ chúng ta nơi những con người đầy thương tích đó. Hãy đến để gặp và chạm vào họ vì Chúa Phục Sinh đang hiện diện và chờ chúng ta nơi những vết đau của tha nhân. Alleluia, Alleluia. Amen.