Anh chị
em thân mến,
Hẳn anh
chị em vẫn biết rằng Phục Sinh là mầu nhiệm; một mầu nhiệm nền tảng và cao
trọng nhất của Ki-tô giáo. Và nếu đó là mầu nhiệm thì đầu óc con người sao hiểu
thấu được! Chỉ còn nhờ vào niềm tin. Vì thế, mục đích của việc Chúa hiện ra là
để củng cố đức tin cho các Tông Đồ và các môn đệ, sau đó Người trao ban cho các
ông sứ mạng làm chứng nhân về biến cố Phục Sinh mà chính các ông cảm nhận.
Trình
thuật hôm nay kể lại hai lần hiện ra của Chúa Giê-su. Việc đầu tiên Người
làm trong hai lần hiện ra là chúc bình an cho các môn đệ. Đây không phải là lời
chúc mà thôi, nhưng đó là ân huệ đầu mùa của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ.
Người không chỉ chúc một lần, nhưng đã lập lại lời chúc ‘Bình an cho anh em’
đến ba lần.
Khi đón
nhận ơn bình an của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng hiểu rằng họ phải trao ban
cho người khác điều mà họ vừa lĩnh nhận, nghĩa là trở thành sứ giả bình an cho
nhân loại. Có nghĩa là khi chúng ta chúc bình an cho nhau là lúc chúng ta cầu
mong cho nhau được bình an thật sự. Việc này chỉ có thể có được khi chúng ta
được bình an mà thôi. Không ai trong chúng ta có thể trao cho người khác điều
mà chúng ta không có!
Sau đó Chúa
cho họ thấy tay và cạnh sườn của Người. Khi làm như thế, Chúa muốn cho các ông
nhận ra rằng thân xác của Chúa Phục Sinh và con người đã trải qua khổ nạn, chết
trên Thập Giá là một người. Vinh quang chỉ tỏ hiện qua hành trình của đau khổ. Cho
dù hy sinh đi liền với các bi kịch trong cuộc sống của Chúa; nhưng qua hy sinh
Chúa đã hoàn tất mầu nhiệm Tình Yêu để chiến thắng bằng cuộc chỗi dậy và hiện
diện một cách vĩnh cửu. Khi thấy những chứng tích đó, các môn đệ đã vui mừng và
tin rằng người đang ở trước mặt họ là Đức Giê-su, vị Thầy đáng kính của họ.
Sau đó,
Chúa Giêsu tiếp tục ban bình an và Thánh Thần cho các ông để các ông ra đi hoàn
thành sứ mạng mà chính Người vừa hoàn tất.
Lần hiện
ra thứ nhất này không có mặt Tôma. Các môn đệ khác đã kể lại cho ông biết về
việc này: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Nhưng Tôma đã không tin vào lời
loan báo của các bạn mình. Thật ra, các bạn của ông cũng chẳng làm chứng được
gì. Họ vẫn đóng kín vì sợ hãi. Cho dù Thần khí đã đuợc trao ban, nhưng các bạn
của Tôma đã không để cho sức mạnh của Thần Khí tác động. Họ vẫn chưa ra khỏi
vùng an toàn, vẫn dựa vào các cánh cửa đã đuợc đóng kín để bảo vệ, chưa sẵn
sàng ra đi rồi vịn cớ là không biết đi đâu! Lời loan báo của họ không đi đôi
với việc họ làm thì làm sao khiến Tôma tin đuợc.
Còn
Tôma, ông muốn niềm tin của ông phải dựa trên trải nghiệm của cá nhân; ông muốn
chạm vào thân thể của Chúa, nên đáp rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay
Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn
Người, tôi chẳng có tin.”
Tám ngày
sau, Chúa lại hiện ra với các ông, lần này có mặt Tô-ma.
Cũng như
lần hiện ra lần trước. Việc đâu tiên Người làm là ban bình an cho các môn đệ
rồi sau đó quay sang Tôma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay
Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
Tôma đã đáp trả bằng một niềm xác tín thật cao độ rằng Người là CHÚA và là
THIÊN CHÚA của ông.
Sau đó
qua Tôma, Chúa đã thể hiện tình thương của Người dành cho chúng ta bằng cách trao
ban cho chúng ta thêm mối phúc nữa là “Phúc thay những người không thấy mà
tin.”
Trước
khi xem xét cách biểu lộ niềm tin của Tôma, chúng ta biết rằng ông không phải
là trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Trình thuật nói về việc Chúa hiện ra thì
Chúa phải là trọng tâm. Khi nhìn như thế, chúng ta mới khám phá ra lòng đại
lượng phát sinh từ tình yêu của Chúa.
Chúng ta
vẫn thường đuợc dậy bảo niềm tin vào Chúa phải là một niềm tin vô điều kiện,
phó thác hoàn toàn theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa hành xử với Tôma quả thật
khác hẳn với lối suy nghĩ cầu toàn của chúng ta. Chúa chấp nhận điều kiện mà
Tôma đưa ra. Cho dù đã đuợc tôn vinh, nhưng Chúa vẫn không che dấu các thương
tích. Đó chính là chứng tích của Tình yêu thì làm sao phải che dấu! Các vết
thương đó cần đuợc bộc lộ hơn là che dấu.
Tôma
cũng có nỗi đau của riêng mình. Ông cũng là nguời đang mang thương tích. Chúa
Giê-su, Thầy đáng kính của ông đã chết. Cái chết của Người để lại trong ông một
tâm trạng buồn rầu và mất mát; ông và dân tộc ông còn biết trông cậy và nương
tựa vào ai nữa đây. Ông đi trốn một mình. Ông cần có một không gian và nơi ẩn nấp
để đối diện với niềm đau này. Vì thế ông đã hụt mất một cơ hội khi Chúa hiện ra
lần trước.
Các bạn
của ông cũng thế, họ cũng có niềm đau rồi sinh ra chán nản và thất vọng. Nhưng
họ đã chọn cách đối diện với bi kịch mà họ đang đón nhận bằng cách liên đới,
chia sẻ, an ủi và hỗ trợ nhau. Trước đây họ nương tựa vào Thầy. Sau khi Thầy
của họ bị giết, họ không biết số phận của họ rồi sẽ ra sao? Thầy của mình quyền
năng đến dường nào mà còn bị xử tử phương chi là họ, những cậu học trò nhút
nhát và sợ sệt. Trong tình thế đó, họ chọn giải pháp đi trốn để dấu đi nỗi sơ
hãi.
Nói
chung là chỉ có ai đã kinh qua đau khổ mới thông cảm cho những người đồng cảnh
ngộ. Chúa đã bị thương tích và Người cũng nhìn thấy các nỗi đau khổ mà Tôma
đang đối diện; vì thế Người cũng muốn cho ông biết là Người rất thông cảm với
yêu cầu của ông.
Qua sự
tiếp xúc, Thầy trò gặp và nhận ra nhau. Chúa chữa lành thuơng tích cho ông. Còn
ông nhận ra Thầy mình là Chúa và là Thiên Chúa của ông. Ông đầu phục hoàn toàn
trước quyền năng của Thầy mình, Đấng mới bị án tử mấy ngày qua.
Để kết
thúc bài suy niệm, chúng tôi xin gửi đến anh chị em tâm tình của Đức Hồng Y Luis Antonio Gokim
Tagle đã chia sẻ cho các
thành viên tham dự tĩnh tâm
tại Tổng Công Hội lần thứ 25 của Dòng Chúa Cứu Thế, tổ chức ở Pattaya, vào năm
2018, tại Thái Lan. Ngài nói như sau:
“Chúa Phục Sinh không xoá đi dấu
vết của thập giá. Vết thương vẫn là vết thương. Thế giới của chúng ta đầy những
vết thương. Ai nhắm mắt lại trước những vết thương của anh chị em mình thì
không có quyền tuyên xưng, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chạm vào
những vết thương của nhân loại là điều kiện cần thiết cho một đức tin đúng
nghĩa.
Chúng ta hãy chạm vào vết thương của người nghèo, hãy đặt bàn tay vào
cạnh sườn bị đâm thâu của họ. Đó chính là phần tuyên xưng đức tin của chúng ta.
Chối từ những vết thương của anh chị em mình là cắt đứt những cầu nối của tình
hiệp thông.
Chúng ta thường sợ chạm vào những vết thương của người khác. Tại sao vậy?
Một phần
sợ bị lây nhiễm, phần khác vì chúng ta sợ gợi lại chính những vết thương của
chúng ta. Sợ hãi này làm cho chúng ta xa cách anh chị em chúng ta. Có một mối
hiệp thông sâu hơn. Đó là hiệp thông với nhau trong những vết thương chung, nỗi
đau chung, cái nghèo chung. Người liên kết chúng ta lại với nhau và đã ôm lấy
tất cả chính là Chúa Giêsu đã trải qua muôn ngàn khổ đau rồi mới đuợc Phục Sinh. Trong Đức Ki-tô chúng ta hiệp thông với nhau;
trong Chúa Cứu
Thế chúng ta liên đới với nỗi đau và mang lấy vết thương của anh chị em
mình.
Hãy gặp và chạm vào chính Chúa Phục Sinh, Đấng đang mang thương tích nơi những anh chị em nghèo,
bị tổn thương, bị bỏ rơi, đang lầm đường, đầy tội lỗi. Cùng nhau đến với họ bằng sự dịu dàng của lòng
thương xót của Thiên Chúa. Hãy để tình liên đới với người nghèo trở thành nền tảng, trở nên bản chất đích thật cấu tạo nên người môn đệ của Chúa Cứu Thế, Đấng đã sống lại và hiện diện nơi những con người tất bạt về mọi
phương diện, thể xác cũng như tâm hồn.
Chúa
Phục Sinh vẫn còn mang thương tích. Người đang chờ chúng ta nơi những con người
đầy thương tích đó. Hãy đến để gặp và chạm vào họ vì Chúa Phục Sinh đang hiện
diện và chờ chúng ta nơi những vết đau của tha nhân. Alleluia, Alleluia. Amen.
No comments:
Post a Comment