Thursday, 30 May 2019

Về Trời Để Cùng Hiện Diện



Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc một và trình thuật Tin Mừng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay tuy có một chút khác biệt, nhưng nội dung chính yếu là nói về việc Đức Giê-su được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Như vậy câu hỏi đầu tiên chúng ta cần san sẻ cho nhau là trời ở đâu?

Chúng ta không biết nhiều về khoa học không gian, nhất là môn học về vũ trụ thì lại càng khó hiểu. Đó là việc của các nhà chuyên môn. Vào thời Đức Giê-su, và hầu hết những người dân thường ít hiểu biết như chúng ta vẫn còn cho rằng trời ở trên cao, đất là nơi chúng ta đang sống và được bao quanh bởi biển cả và đại dương, và dưới hay trong lòng quả đất này là hỏa ngục.

Từ khái niệm đơn sơ này chúng ta suy diễn về các mốc điểm trong hành trình của chúng ta. Các Thiên Thần và các Thánh thì ở trên trời. Quỉ dữ và những ai thuộc về nó thì bị giam cầm dưới Hỏa Ngục, trong lòng đất. Còn trái đất là nơi chúng ta đang sống và chiến đấu. Chính vì thế, đôi khi chúng ta cho rằng về trời hay lên thiên đàng là phần thưởng dành cho ai đã chiến đấu và chiến thắng quyền lực của sự ác chi phối và hoành hành trên cuộc sống của chúng ta. Vì thế quan niệm sống để thu tích các công việc đạo đức và đưa vào kho lẫm để chờ ngày lãnh nhận phần thưởng đời sau vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sống của tín hữu. Với lối suy luận như thế, chúng ta có thể sẽ quên đi trách vụ và bổn phận cần phải làm để biến đổi môi trường mà chúng ta đang sống trở thành trời mới đất mới.

Trời là nơi Chúa ngự. Ngự trị không nhắm đến nơi chốn cho bằng mô tả sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện này sẽ không còn tuỳ thuộc vào một khoảng không gian nào đó hay một mốc thời gian nào của lịch sử; nhưng là một sự hiện diện không bị giới hạn bởi không gian và không lệ thuộc vào thời gian. Thiên Chúa hiện diện từ trước và cho đến muôn đời, vô thủy vô chung. Như vậy ở đâu có Chúa là ở đó có trời. Và như lời Chúa đã phán thì ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Chúa thì Chúa hiện diện giữa họ. Ý nghĩa của câu này có thể giải thích là ở đâu có sự hiệp nhất, thông cảm, yêu thương thì có Chúa ở đó; nói khác đi tại nơi đâu mà con người cùng chia sẻ một đức tin, cùng san sẻ và trao ban một lòng mến thì tại nơi đó có sự hiện diện của Chúa. Như vậy, trời hay thiên đàng không ám chỉ đến địa danh hay nơi chốn nào đó cho bằng một cách mà con người dùng để diễn tả khi nói đến nơi ngự trị của Chúa. Nói khác đi, khi mô tả việc Chúa lên trời có nghĩa là chúng ta nói đến việc Chúa Giê-su ngự trị bên hữu Thiên Chúa.

Trên thực tế, làm sao chúng ta có thể giải thích về ý niệm về một vị Thiên Chúa vừa hiện diện lại vừa vắng mặt trong cuộc sống của chúng ta nói riêng và trong các sinh hoạt của thế giới này nói chung. Rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống với quan niệm về một vị Thiên Chúa ở trên trời, xa vắng với các sinh hoạt của con người. Với cái nhìn như thế, mỗi khi chúng ta gặp khó khăn là lúc chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài đến can thiệp và giải quyết thay cho chúng ta.

Trái lại, với sự hiện diện mới, Chúa Giê-su không còn hiện diện bằng xuơng bằng thịt và cũng không còn bị giới hạn và ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa. Người sẽ hoạt động trong con người, nhất là nơi các kẻ tin. Vì thế việc trao ban uy quyền và sứ mạng cho họ cần được thực hiện trước khi Người trở về với thân phận hằng có trong Thiên Chúa của Người.

Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không? Thật ra, Đức Giê-su đã về nhà Cha, tiếp nhận vinh quang như đã có từ Thiên Chúa ngay khi Người trút hơi thở và trao ban Thần Khí cho những ai đứng bên Thập Giá. Việc Chúa Giê-su được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà chúng ta và các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin và thể hiện bằng việc làm để minh chứng điều mà chúng ta và các môn đệ đã tin.

Vì thế, không có chuyện vắng mặt. Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua; Người vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ; Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ như những gì mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một hôm nay, đó là “sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa.” Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay qua sự chết trong vâng phục mà Người đã được tôn vinh và hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người trong mọi cảnh huống của đời họ.

Chúng ta mừng sự thay đổi, hân hoan đón nhận cách thức hiện diện mới của Chúa. Tuy, chúng ta không còn được tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta được liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.”

Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để được tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là sức mạnh của Thánh Linh như Chúa đã hứa “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong tất cả xứ Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, và cho đến tận cùng trái đất”.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các Tông Đồ và nhóm môn đệ mọi thời đã hoàn tất sứ mạng của họ. Còn chúng ta hôm nay thì sao?

Sống trong một thế giới đầy tranh chấp và bạo lực, chúng ta đuợc mời gọi trở nên sứ giả của hoà bình.

Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ nhau vì ghen ghét, đố kỵ và thù hằn thì chúng ta lại được mời gọi sống yêu thương, tương tác và liên đới với nhau.

Đối diện với một cộng đoàn chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ.

Tất cả đều là dấu chỉ nói lên lời mời gọi của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.

Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với cuộc sống hiện tại để chu toàn phận sự đã được trao phó?

Khi thi hành nhiệm vụ mà Chúa trao phó hôm nay, chúng ta ý thức rằng mình không tự làm; nhưng sứ mạng được trao ban từ Chúa; Người là vị cứu tinh nhân hậu, đang đồng hành trong mọi sự kiện của cuộc đời chúng ta.

Chúng ta vẫn nương tựa vào Chúa.

Chúng ta vẫn gắn bó và nối kết mật thiết với Người.

Tuy nhiên, chúng ta không ngồi đó chờ Người làm thay các việc mà chúng ta cần làm.

Chúng ta sẽ không yêu cầu Chúa đến để thay đổi những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta.

Thay vào đó, trong niềm tin, chúng ta biết chắc Người đang đồng hành với chúng ta,  soi sáng và mở mắt để chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong các sự kiện đang xảy ra. Thiên Chúa đã không rời bỏ chúng ta nhưng hiện diện trong những gì đang diễn ra trong cuộc sống của chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi.

Như vậy, Chúa đã đi đâu là việc của Chúa! Việc của chúng ta phải làm là thực hiện lịnh truyền mà Chúa phán trước khi được cất nhắc lên trời, đó là: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”, và nhờ việc làm của anh em mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Người. Amen!


Thursday, 23 May 2019

RA ĐI LÀ TRỞ VỀ VỚI NGUỒN CỘI



Về mặt thể lý, chúng ta thường nghe nói không có cuộc vui nào mà không có lúc tan, không có bữa tiệc nào mà lại không tàn và không có buổi gặp gỡ nào mà không có ngày phải chia tay. Giờ chia tay bao giờ cũng lưu lại trong tâm hồn kẻ đi và người ở những tâm tình hoang mang, buồn chán và thương tiếc. Đặc biệt cuộc chia tay giữa những người thân hay người mà chúng ta yêu mến lại tạo thêm nhiều cảm xúc hơn. Họ chưa xa nhau mà lòng đã xót xa, ngậm ngùi, lưu luyến và lo lắng.

Giống với lối suy nghĩ như trên, trước viễn tượng phải ra đi, trong bữa tiệc ly, Đức Giê-su và các môn đệ vô cùng xao xuyến. Vì thế, những gì mà chúng ta được nghe trong phần phụng Vụ Lời Chúa trong các tuần này đều được trích dẫn trong phần mà người ta gọi là ‘Diễn Từ Cáo Biệt’. Đó là những lời nhắn nhủ, trăn trối của Đức Giê-su dành cho các môn đệ và những ai mà Người yêu thương hết lòng. Người biết rằng giờ ra đi của Người đã đến; nhưng các môn đệ thì không. Các ông vẫn còn mơ màng về sứ mệnh của Thầy cho nên Giu-đa, không phải là người đã nộp Người mới hỏi “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Với óc não chia chác quyền lực và mong muốn một vị Chúa đến giải thoát dân tộc mình khỏi cảnh nô lệ đã khiến ông có ý nghĩ là việc Chúa tỏ uy quyền và vinh quang cho thế gian là điều cần thiết hơn. Nhưng ý muốn của Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã lĩnh nhận thì hoàn toàn khác. Việc Người ra đi để đón nhận cái chết có thể được coi như một cuộc chiến thắng của quyền lực bóng tối, chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng thật ra đây là dịp để tình yêu của Thiên Chúa được bộc lộ trọn vẹn nơi sự vâng phục của Đức Giê-su.

Vì thế, trước khi ban những lời trăn trối này, Đức Giê-su đã khẳng định rằng giờ Người rời bỏ thế gian là giờ bộc lộ tình yêu của Người dành cho thế gian mà Người vẫn yêu thương họ đến cùng. Tình yêu đó được diễn tả qua việc rửa chân cho các môn đệ. Và Người truyền cho họ hãy noi gương Thầy, học theo cách thức yêu thương của Thầy đối với Chúa Cha. Qua lối sống yêu thương, chúng ta làm cho Lời Chúa phán “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” được ứng nghiệm. Có nghĩa là, kể từ nay, yêu mến là dấu chứng, ấn tích về sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngài đến và ở lại với ai yêu mến Thầy.

Lời Thầy nói thật đơn sơ không chau chuốt, không phức tạp, không cầu kỳ. Đó là những điều mà chúng ta thường xuyên áp dụng trong cuộc sống. Khi bạn đã yêu thì chỉ muốn nghe người yêu mình nói chuyện hay ít nhất là được nghe người ta nói về người mình yêu. Mức độ cảm xúc của con tim bạn tùy thuộc vào mức độ yêu thương mà chúng ta dành cho nhau. Trong thân phận con người mà chúng ta còn hành xử được như thế, phương chi mối tình của mình với Chúa. Người hết mực yêu thương chúng ta thì việc lắng nghe và tuân giữ Lời Người là việc chính đáng và phải đạo. Và hiệu quả của việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa sẽ yêu mến chúng ta. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa và Đức Giê-su sẽ đến và ở lại với người ấy. Đây không chỉ là lời hứa về sự hiện diện mà là cách thức mà chúng ta cần làm để cho Lời của Chúa phán hôm nay được ứng nghiệm.

Thưa anh chị em,

Với các cuộc cách mạng về công nghệ thông tin, chúng ta đang sống trong một thế giới tưởng chừng như được nối kết với nhau gần hơn, nhưng trên thực tế lại có nhiều người sống cô đơn hơn. Họ có thể là nạn nhân của chủ nghĩa cá nhân hay là nạn nhân của một cách sống không cần đến ngày mai, chọn những thú vui tiêu khiển trong hiện tại như hạnh phúc; nhưng thật ra lối sống tìm thú vui trước mắt và thiếu tương tác này lại dẫn họ đến tình trạng chán nản và cô đơn. Thêm vào đó, chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều tiện nghi, như mua hàng online, không cần giáp mặt mà vẫn đạt được sở nguyện; thói quen này tăng dần cho đến một ngày con người tự mình cô lập mình.

Thứ cảm giác cô đơn có thể là một điều thật khó khăn để trải nghiệm. Và đây có thể là điều làm các môn đệ lo sợ. Làm thế nào mà các ông có thể tránh nỗi hoang mang và lo sợ khi biết Thầy phải ra đi và để họ ở lại. Cho đến hôm nay, tất cả những gì họ làm và đeo đuổi đều gắn liền với sứ mạng của Đức Giê-su. Giờ đây công danh và sự nghiệp đâu chưa thấy, thế mà Thầy lại phán rằng Thầy đi thì ích lợi hơn cho họ (Gio-an 16:7) Vẫn biết học để tin vào Lời Thầy phán, nhưng làm sao lại không khỏi lo sợ chứ! Trong hoàn cảnh đó, Đức Giê-su tiếp tục trấn an: Họ sẽ không cô đơn, “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Gio-an 14:26)

Đó là vai trò của Chúa Thánh Thần mà Đức Giê-su bộc lộ hôm nay. Ngài vừa là thầy dậy vừa là bạn đồng hành nhắc lại cho các môn đệ nhớ lại những Lời mà Đức Giê-su đã dậy bảo. Với vai trò của Chúa Thánh Thần như một người Thầy và bạn đồng hành mà Đức Giê-su giới thiệu hôm nay khiến tôi nhớ đến một vai trò mà chúng ta thường nghe hay đã có kinh nghiệm, đó là vai trò của một ‘mentor’ trong cuộc sống của chúng ta. Vậy, mentor là ai?

Với kinh nghiệm trong cuộc sống, nhất là qua lối đào tạo rất nhân văn của xã hội hôm nay, chúng ta nhận ra vai trò của một vị vừa là thầy vừa là người bảo trợ giúp chúng ta khỏi cô đơn. Họ hiện diện để hướng dẫn chứ không áp đặt. Họ có mặt để giúp chúng ta thoát cảnh cô độc và khi chúng ta đã vững vàng thì họ lại lùi về phía sau, mà không biến mất; để chờ dịp khác hộ phù và tiếp tục bảo trợ.

Những dòng suy tư này được ghi lại vào ‘ngày của mẹ’. Vì thế, khi nhìn Chúa Thánh Thần trong vai trò Thầy dậy và người bầu chữa khiến tôi nhận ra quyền năng đó đã hiện diện nơi các người mẹ. Các ngài là tất cả. Mẹ đã hiện diện ngay khi ta mở mắt chào đời, tiếp tục dìu dắt và vực chúng ta dạy mỗi khi ta vấp ngã. Các ngài đã dậy bảo nhưng không áp đặt, dìu dắt và nâng đỡ chứ không lôi kéo. Lùi về phía sau nhưng không biến mất để chờ dịp cùng chúng ta tiến về đích bình an. Quan trọng hơn cả là cùng đồng hành không để ta cô đơn.

Thưa anh chị em,

Sau cùng, chúng ta biết rằng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã được ứng nghiệm nơi cuộc sống sứ vụ của các môn đệ sau khi Chúa sống lại từ cõi chết. Với quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Ngài đã làm được những dấu lạ điềm thiêng khiến bao nhiêu kẻ trở lại và tin vào Danh Chúa Ki-tô. Nhưng hiện tình xẩy ra ngay trước mắt các ông là việc ra đi của Thầy khiến lòng dạ các ông hoang mang, rối bời và lo sợ. Với tình huống đó, Đức Giê-su đã phán: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em". Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.” (Gio-an 14, 27-29)

Đây là một trong những khoảnh khắc sâu đậm nhất trong bản văn Tin Mừng hôm nay. Chúa ban bình an cho các môn đệ, một thứ bình an mà các môn đệ không thể nào tìm được ở đâu khác trên thế gian này. Thế gian không có thứ bình an này. Bình an xuất phát từ trong tâm hồn. Chỉ có người nào có con tim thanh tịnh, cõi lòng thanh thản mới có thể cảm nhận được thứ bình an này. Vì thế, Người khuyên họ đừng để con tim giao động và sợ hãi trước những biến cố sẽ xẩy đến. Người sẽ không để các ông mồ côi. Không chỉ có Thầy mà cả Cha Thầy cũng sẽ đến để trao ban bình an cho những ai tin vào Người.

Như vậy, bình an không chỉ là lời chúc hay nguyện ước; đó chính là quà tặng của Chúa ban ngay tại thời điểm mà chúng ta cần để có thể đối diện với những giây phút bi đát mà chúng ta có thể gặp trước sự ra đi (hay việc chúng ta không nhận ra sự hiện diện) của Đức Giê-su. Không chỉ có thế, với ơn bình an, Đức Giê-su còn mong muốn các môn đệ và chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì biết rằng chính vào giờ Người từ giã thế gian là thời điểm Người lên đường về cùng Cha.


Hoàn cảnh thực tế cho chúng ta nhận biết rằng trong khi thi hành bổn phận của người môn đệ, chúng ta không thể tránh thoát những giây phút hoang mang, lo lắng về sự vắng bóng của Đức Giê-su. Nhưng cho dù lòng dạ có xao xuyến đến đâu hay hoàn cảnh mà chúng ta gặp phải có bi đát đến dường nào đi chăng nữa, chúng ta hãy nhớ rằng lòng mến Chúa và ơn bình an mà Chúa trao ban hôm nay vẫn là những khí cụ hữu hiệu nhất mà chúng ta cần có để chu toàn sứ mạng. Amen!


Thursday, 16 May 2019

YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA YÊU



Bài Tin Mừng hôm nay, tuy vỏn vẹn chỉ có bốn câu, nhưng chất chứa một sứ điệp thật quan trọng.

Trong hai câu đầu, Thánh sử trình bầy việc ra đi của Giu-đa. Hành động này của ông báo hiệu giờ của đêm tối đã đến. Vẫn biết rằng, tự bản chất, sứ vụ và nội dung các lời giảng dậy của Đức Giê-su đã gây ra nhiều cuộc tranh luận và đã tạo nên một làn sóng xung đột vô cùng căng thẳng với hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo, nói riêng tại đền thờ Giê-ru-sa-lem. Việc Người bị giao nộp là chuyện đương nhiên sẽ xẩy ra. Nhưng đối với Thiên Chúa thì việc làm của Giu-đa hôm nay lại là cơ hội để Đức Giê-su làm trọn vai trò của Người. Do đó, một cách nào đó chúng ta có thể nhìn việc ra đi của ông giống như hình ảnh của bóng tối. Một khi bóng tối khuất đi thì ánh sáng sẽ xuất hiện.

Đức Giê-su không để cho hành động của Giu-đa ảnh hưởng trên sứ mạng của Người. Người biết sẽ phải làm gì. Người nói “giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.” Hành vi nộp Người của Giu-đa lại biến thành giờ để Đức Giê-su thực hiện và sống ơn gọi của Người một cách trọn vẹn nhất. Qua đó, Chúa được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi việc Chúa bị treo lên. Treo lên để được tôn vinh. Kể từ giờ Con Người bị treo lên thì mọi gối đều phải quì xuống bái lậy mà tôn vinh Người. Cả cuộc đời của Người, bao gồm mọi khoảnh khắc trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giê-su luôn hướng về giờ mà Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. 

Và hôm nay trong giây phút thân tình với các môn đệ, Người đã tâm sự cho các ông biết ý nghĩa về việc được tôn vinh trong vâng phục của Người. Đức Giê-su cảm thấy bị xúc động khi Người phải từ giã các ông. Người trăn trối cho các môn đệ những điều mà Người đã ưu tư, ôm ấp và khát khao thực hiện. Chúa phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” Điều Thầy ban cho các môn đệ đêm nay vô cùng quan trọng.

Trước tiên, Thầy không chỉ truyền lịnh. Nhưng Thầy đã trao cho những người bạn thiết nghĩa của Thầy chính cử chỉ và hành động mà Thầy đã thực hiện trong một bữa ăn, Những lời tâm sự của Thầy nằm trong bối cảnh của bữa tiệc ly, trong bữa ăn đó “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.” (Gio-an 13: 4-5) Hành động của Thầy khiến cho họ ngạc nhiên, nên Người đã giải thích “nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Gio-an 13: 13-14)

Kế đến, đó là lịnh truyền, giới răn, mệnh lệnh của Thầy yêu cầu. Điều Thầy truyền hôm nay vô cùng mới mẻ. Nó khác với cách hành xử mà con người dành cho nhau. Vẫn biết rằng, đạo nào cũng dậy con người làm lành tránh dữ và yêu thương nhau. Nhưng, điều đặc sắc và mới mẻ mà Đức Giê-su tỏ bầy hôm nay, đó là yêu người như Chúa yêu. Đức Giê-su gọi việc làm đó là giới răn, điều luật để trở nên thành viên cho một nhóm; có nghĩa là từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, bằng chứng, bản chất và danh xưng của những người thuộc về nhóm mà người ta gọi là nhóm môn đệ được Chúa yêu thương.

Như vậy, yêu thương là bổn phận và là dấu chỉ chính thức của người môn đệ Chúa. Yêu thương theo mẫu mực của Chúa. Yêu thương như Chúa đã làm là quì xuống rửa chân cho kẻ kém hơn mình, rửa những vết thương hôi thối, rửa những lỗi lầm, xóa bỏ những hận thù ghen ghét đã tạo nên sự nghi kỵ và chia rẽ trong cộng đồng. Rửa chân không nhằm nói đến việc tự hạ cho bằng đó là dịp để Chúa sống trọn vẹn ơn gọi mà Người đã lãnh nhận từ Cha; và trao ban cho các môn đệ. Những việc làm này là bổn phận của mỗi Kitô hữu, môn đệ của Chúa.

Thật vậy, đạo mà chúng ta đang theo là con đường mà Chúa đã đi. Đó không chỉ bao gồm những điều phải tin, và cũng không chỉ gồm tóm những điều khoản phải giữ; nhưng là con đường yêu thương. Vì thế, cách sống đạo đích thật mà chúng ta cần thực hiện là hãy trao ban và đón nhận tình yêu như cách thức của Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần biết mục tiêu và đối tượng để giãi bầy tình yêu; bởi vì không ai trong chúng ta có thể nói rằng mình đang yêu nếu đối tượng mình yêu không thật sự hiện hữu. Sự hiện hữu của đối tượng cũng mang nhiều mức độ và nằm trong nhiều cảnh huống khác nhau. Nhưng, tất cả đều có một mẫu số chung, đó là nếu muốn thể hiện tình yêu thì chúng ta cần từ bỏ tháp ngà, ý riêng của chính bản thân, ra đi để gặp gỡ họ.

Họ là ai? Họ là anh, là chị hoặc tôi, những người thân quen trong gia đình, xóm giáo, các nhóm cầu nguyện và đặc biệt hơn nữa, Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bị bỏ rơi ở ngoài đường hay gầm cầu, phố chợ, v.v… Thiên Chúa và tha nhân đang chờ đợi bàn tay yêu thương, vỗ về, săn sóc và an ủi của chúng ta. Qua việc làm trong yêu thương, chúng ta sẽ xoa dịu một phần những vết hằn mà người khác đang phải gánh chịu. Yêu thương là thế đấy. 

Trong tình yêu không còn phân biệt giữa tôi và anh, giữa tôi và chị hay giữa tôi và kẻ khác nữa. Tất cả đều được hoà hợp trong một tổng thể duy nhất của lòng yêu thương, nơi đó không còn biên giới, không còn hận thù, tỵ hiềm hay chia rẽ; chỉ còn hiệp thông, tha thứ và bình an.

Nhưng trong thực tế, chúng ta vẫn sống theo tiêu chuẩn lấy lòng mình làm thước đo. Ai tốt với mình thì mình tốt lại. Chúng ta chưa dám dấn thân, cho đi trọn vẹn! Thật ra, việc dấn thân ra đi phục vụ trong yêu thương như mẫu mực của Chúa có tính cách của một sự tái sinh, trở về với Chúa và đổi mới cuộc đời. Và qua việc yêu thương nhau như Chúa yêu, chúng ta dễ dàng gặp Chúa hơn, một cuộc gặp gỡ thân mật để ta được tham gia vào sự sống của Chúa, được trở nên thành viên của cộng đoàn môn đệ mà Chúa yêu mến. Amen!




Thursday, 9 May 2019

MẸ LÀ NGUỒN SUỐI TÌNH YÊU



Chúa nhật thứ tư trong mùa Phục sinh hay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Đây là một hình ảnh vô cùng độc đáo mà Hội Thánh dùng để mời gọi con cái mình nhận ra lòng yêu thương, sự bao bọc và bảo vệ của Thiên Chúa như người mục tử nhân hậu sẵn sàng làm mọi sự, ngay cả hy sinh mạng sống, để bảo vệ đoàn chiên. Cũng trong ngày hôm nay, Hội Thánh cổ võ và cầu nguyện cho
ơn gọi; đặc biệt trong ngày của các người mẹ năm nay, chúng ta cùng san sẻ cho nhau vài nét suy tư về phẩm chất vô cùng cao quí mà tất cả các ơn gọi cần có, đó là bản năng hay lòng của mẹ.

Trước tiên, chúng ta hãy coi lại cách nhìn và sự hiểu biết của chúng ta về vai trò của người mục tử. Chúng ta thường hay gọi Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, và đôi khi các Linh Mục là các nhà mục tử. Đây là kiểu nói quá hạn hẹp vì cho rằng chỉ có các Đấng bản quyền mới có trách nhiệm chăn dắt con chiên, bổn đạo.

Ngày xưa, người ta nói rằng việc mở mang Nước Chúa được thực hiện bởi hàng Giáo Phẩm. Công đồng Vatican II đã giúp cho chúng ta có được cái nhìn đúng đắn hơn. Trách nhiệm đó được trao ban cho tất cả mọi tín hữu, ai ai cũng có bổn phận loan báo Tin mừng cho người khác.

Chính vì thế, danh từ ‘mục tử’ được dùng để nói đến trách nhiệm của chúng ta là những kẻ được đặt để chăm sóc, quan tâm và nhất là để trao ban tình yêu cho người khác tùy theo ơn gọi mà Chúa đã mời. Thật ra, chính Chúa Giêsu mới là Đấng chăn chiên nhân hậu, còn chúng ta tuy được ban tặng cho danh hiệu đó; nhưng chúng ta vẫn là người thừa hành tác vụ từ Chúa. Căn bản, mỗi người chúng ta luôn là những con chiên trong ràn chiên của Chúa.

Hình ảnh ‘người chăn chiên’ đã được các ngôn sứ của thời cựu ước dùng để ám chỉ đến các vị lãnh đạo của dân Do Thái. Ngôn sứ Ezekiel xuất hiện trong thời dân bị lưu đầy bên Babylon. Trong bối cảnh lịch sử như thế, khi mà dân Do thái đã mất tất cả: văn hóa, quê hương, đền thờ,... thì ngôn sứ đã khơi lên niềm hy vọng cho dân bằng cách trình bầy Thiên Chúa là Người chăn chiên tốt lành, là Mục tử nhân hậu, là Đấng dẫn đường để dẫn dắt đoàn chiên, tìm chỗ cho chiên ăn, dẫn lại về ràn các con chiên lạc đường và cứu chiên thoát khỏi các cạm bẫy, các hiểm nguy của các thợ săn và thú dữ. (Ed 34: 11 – 16)

Trong thời Chúa Giêsu, mỗi ràn chiên khoảng chừng vài ngàn con; vì thế nhiệm vụ của người chăn chiên thì vô cùng vất vả. Vào mùa nắng, ông phải dẫn chiên đi đến những đồng cỏ tốt; và khi mùa đông đến ông phải tìm chỗ cho chiên trú ẩn; ông còn phải học để săn sóc cho các con chiên bị thương tích. Vì chức năng của công việc, nên người chăn chiên thường có nhiều đụng chạm với chủ của các đồng cỏ; và đôi khi còn bị lên án như là kẻ trộm hoa mầu của họ. Thực tế, người chăn chiên thường được mướn để làm việc này; chiên không thuộc về tài sản của họ. Tuy vậy, cũng còn một số rất ít người vừa là chủ vừa là người chăn chiên. Hơn nữa, vì nhiệm vụ nên người chăn chiên thường không thể tham dự các nghi lễ theo luật của người Do thái. Họ thường bị liệt vào ‘hạng công dân thứ hai’ của Do thái giáo. Giống như các nhân viên thu thuế, những ai làm nghề chăn chiên thường không được làm nhân chứng của tòa án và cũng chẳng được trao một nhiệm vụ công quyền nào.
Dựa vào những suy tư của dân Do thái, hoàn cảnh thực tế của nghề chăn chiên và nhất là các kinh nghiệm về sự sống mà Chúa Giêsu đã trao ban cho các tín hữu thời giáo hội sơ khai, tác giả của Tin mừng thứ tư đã trình bầy Chúa Giêsu không chỉ là người chăn chiên; nhưng là Đấng chăn chiên tốt lành, đã hy sinh mạng sống để đem tất cả con chiên, dù lạc ràn hay không, về lại ràn và ban cho chúng sự sống đời đời và không một ai có quyền tước mất sự sống này được. Và ai ở trong ràn chiên của Ngài thì không bao giờ bị diệt vong. (Kinh nghiệm về vị mục tử nhân hậu hiến mạng sống vì đoàn chiên hoàn toàn mới mẻ và vượt xa kinh nghiệm mà ngôn sứ Ezekiel đã loan báo).

Qua ý nghĩa của bài Tin mừng về người chăn chiên tốt lành mà Phụng vụ dùng vào các Chúa Nhật thứ tư trong Mùa Phục Sinh, và cũng là ngày mà chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi. Và theo tôi, một trong những ơn gọi cao quí nhất đó là ơn gọi làm mẹ. Mẹ ở đây không phải là nhiệm vụ dành riêng cho các phụ nữ mà thôi. Nhưng trong vai trò lãnh đạo, hình ảnh của Đấng Chăn Chiên được thể hiện qua cách cư xử của các bà mẹ. Vì thế tinh thần, phẩm chất và bản năng của người mẹ cần thiết vô cùng cho những ai được gọi trong vai trò lãnh đạo để phục vụ.

Giờ đây chúng ta dành vài phút chia sẻ vài cảm nghĩ, đôi dòng suy tư về ơn gọi của những người mẹ Việt Nam cũng như tất cả các bà mẹ trên toàn thế giới.

Người ta thường nói mẹ là hình ảnh của tình yêu. Nhưng theo thiển ý của tôi thì mẹ chính là tình yêu, là sức sống, là hạnh phúc và là nơi nương tựa của đoàn con. Mẹ đã không vì mẹ mà sống, nhưng cuộc sống của các ngài là vì chồng và cho con cái. Chúng ta ít nghe thấy mẹ nói về những ngày nghỉ, trái lại mẹ thường dùng những ngày đó như là các cơ hội để phục vụ chồng và tụ họp con cái quây quần bên bàn cơm do mẹ dọn sẵn. Mẹ tần tảo trong công việc. Mẹ hy sinh và chấp nhận mọi khó khăn để bầy tỏ tình yêu của mẹ.

Tình yêu của mẹ như dòng suối chảy một chiều: cho đi mà không đòi lấy lại. Chúng ta thường được nghe rằng: “nước mắt chảy xuôi ...” Thật vậy, cho dù con cái đã khôn lớn, cho dù vì vô tình hay cố ý mà một số người con đã không cư xử tốt với mẹ, thì mẹ vẫn yêu thương các con; vì đó là lẽ sống của mẹ.

Như người chăn chiên tốt, biết từng sở thích, từng nhu cầu của mỗi con chiên; thì mẹ của chúng ta cũng lần mò từng bước để học và biết từng sở thích, từng nhu cầu của mỗi người con. Trên tiến trình này, mẹ nhận biết rằng mỗi người con của mẹ đều là quà tặng thật cá biệt mà Thiên Chúa đã ban cho mẹ, đó chính là những khu vườn mà Thiên Chúa muốn mẹ gieo trồng, chăm bón và thu hoạch một hạt giống quí giá nhất mà mẹ đã lãnh nhận: Tình yêu và sự sống.
Khi nói mẹ là sự sống thì tôi nhớ lại đoản truyện ngắn vô cùng thương tâm mà tôi đã đọc được trong nguyệt san ‘Reader’s digest’. Đó là một sự kiện có thật đã xẩy ra tại Việt Nam vào đầu thập niên 1970. Trong cuộc di tản dân chúng khỏi vùng hỏa tuyến tại miền Trung, phái đoàn y tế Hoa kỳ đã chứng kiến cảnh một cháu bé khoảng chừng 9 tháng đang cố gắng nuốt những giọt sữa hòa chung với dòng máu trên thân xác tuy đã chết nhưng vẫn còn hơi ấm của mẹ em.
Và mới đây, vào năm 1995, sau vụ động đất tại Thành Phố Kô-bê, bên Nhật, người ta đào bới và khám phá dưới đống gạch vụn của một tòa nhà đã đổ nát là hai mẹ con. Người mẹ, tuy còn sống nhưng đã bất tỉnh; còn đứa cháu gái đang cố gắng ngậm chặt ngón tay của người mẹ và cố hút nguồn sống bằng máu phát xuất từ thân thể của mẹ cháu.

Sau khi phục hồi sức khỏe cho hai mẹ con. Người ta nghe bà mẹ kể lại rằng. Tuy bị chôn vùi ở dưới đống gạch đổ nát của tòa cao ốc. Nhưng hai mẹ con chúng tôi quả thật đã gặp vận may. Có một cái đà thay vì đổ suống đập vào chúng tôi thì lại bị ngăn lại bởi bức tường vụn và trở thành vật chắn giúp hai mẹ con chúng tôi không bị đè chết. Sau đó, đứa con vài tháng tuổi của chị đói quá khóc thét lên. Bà mẹ không biết phải làm gì! Dòng sữa thì khô quặn vì đã mất mấy ngày họ đâu có gì để ăn và để uống. Bà mẹ mò mẫm trong bóng tối và tay bà đã chạm vào một vật sắc và nhọn. Với bản năng yêu thương của một người mẹ, bà không kịp suy nghĩ, lập tức dùng ngay vật nhọn đó cắt vào ngón tay của mình và đặt vào miệng cháu. Cứ thế mỗi lần con của bà khóc thét lên là một vết cắt của yêu thương được xuất phát từ thân thể của bà. Cứ thế cho đến khi bà ngất đi vì bất tỉnh và không hề biết những chuyện xẩy ra sau này.

Người ta hỏi bà là khi cắt da thịt mình để lấy máu thay sữa cho con, bà không sợ chết sao? Bà trả lời rằng với bản năng của người mẹ, tôi không có thời gian để suy nghĩ. Sự sống còn của con tôi là tất cả những gì mà tôi có thể làm được; cho dù giờ này biết làm thế rồi chết, tôi vẫn làm.

Và để minh họa cho nhiệm vụ của người chăn chiên qua hình ảnh của người mẹ, xin mời anh chị em cùng theo dõi câu chuyện sau đây:  

Người ta nói rằng: Nếu Chúa Kitô còn sống bằng xương bằng thịt ở trên đời ngày hôm nay, chúng ta tự hỏi không biết Chúa còn dùng hình ảnh con chiên và người mục tử không? Có lẽ Chúa sẽ dùng hình ảnh ‘mẹ và con’ hơn.

Thật êm đềm và đầm ấm khi chúng ta được chứng kiến cảnh hai mẹ con sánh bước bên nhau, tay trong tay. Rồi thì em bé chợt buông tay mẹ ra và bị bỏ rơi đằng sau, đang chăm chú nhìn vào gian hang đồ chơi, nhìn cái nầy sang cái khác mãi mà không biết chán. Người mẹ dừng lại và chờ đợi. Mẹ ra hiệu cho con chạy tới trước. Em bé chạy tới và hai mẹ con lại sánh bước bên nhau nhưng chẳng bao lâu, em bé lại buông tay ra và lần nầy chạy tuôn về phía trước. Mẹ gọi em hãy đợi, coi chừng nguy hiểm. Đến ngã tư đường, đèn xanh đèn đỏ, xe cộ chạy qua chạy lại. Em bé nghe tiếng mẹ gọi, đứng dừng lại đợi. Mẹ nắm tay em, ngó trước ngó sau rồi băng qua đường an toàn và tiếp tục cuộc hành trình. Chẳng bao lâu em bé trở nên mệt nhọc, rã rời và gục xuống. Người mẹ đỡ và bế con trong tay trên đoạn đường còn lại để đi về nhà.

Đó đúng là một sự mô tả đầy thi vị cuộc hành trình của Kitô hữu. Giống như một người mẹ âu yếm con, Chúa Giêsu - người Mục Tử Nhân Lành và Từ Bi- luôn để mắt đến chúng ta. Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Ngài không bao giờ rời mắt khỏi chúng ta. Niềm tin thâm sâu của chúng ta là, nhờ vào sự hiện diện âu yếm của Ngài, chúng ta sẽ bình an đạt tới đích trong sự bao bọc của Thiên Chúa.

Như vậy, bản năng và ơn gọi mà Thiên Chúa đã mời mẹ chúng ta lãnh nhận thật cao quí. Vì thế, để hoàn thành sứ mạng này, mẹ chúng ta có một cuộc sống tuy giản dị và âm thầm nhưng lại vô cùng kiên trung. Mẹ đặt trọn niềm tin và sự cậy trông nơi Đấng đã mời gọi mẹ. Mẹ đáp nhận bằng cả con tim yêu thương của mẹ để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ thật đáng tôn vinh như những vị anh hùng vô danh mà chúng ta thường tưởng nhớ, hoặc như những vị thánh âm thầm mà không cần tuyên phong. Cuộc sống của các Ngài như những lời mời gọi, như những động lực giúp chúng ta tiếp tục sứ mạng làm chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa.

Vậy, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một người mẹ, đã ban cho nhân loại ‘ơn gọi làm mẹ’. Ước gì những ai được mời gọi thừa kế quyền lãnh đạo của Chúa Giê-su, hãy có con tim của người mẹ, luôn yêu thương và sống trọn vẹn cho những ai mà Chúa ban cho họ chăm sóc. Amen

Happy mother’s day!


Thursday, 2 May 2019

HÃY CHĂN DẮT VÀ YÊU THƯƠNG NHAU



Hôm nay, trong bài Tin Mừng, Thánh Gio-an đã tường thuật cuộc hiện ra lần thứ ba của Chúa, sau khi đã sống lại từ cõi chết, cho các môn đệ. Tuần trước, chúng ta đã được nghe Thánh sử ghi lại 2 lần hiện ra, lần thứ nhất không có Tô-Ma, lần thứ hai có mặt Tô-ma. Nếu không tính việc hiện ra cho cá nhân bà Ma-ri-a Mác-đa-la, thì đúng thật đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với các môn đệ.

Với lối tính này, chúng ta đoán được chủ ý của Thánh sử là muốn trình bầy những lần hiện ra cho cộng đoàn hơn là cho từng cá nhân. Cho dù Tô-Ma và Ma-ri-a Mác-đa-la đã nói và tuyên xưng rằng Thầy mình đã sống lại; nhưng dù sao chăng nữa thì các lời tuyên xưng của họ vẫn mang tính cá nhân. Các lời tuyên tín của cộng đoàn bao giờ cũng có giá trị hơn. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh không dựa vào các lời tuyên tín của từng cá nhân; đây là quà tặng của Chúa Cha và đó cũng là niềm tin chung của cộng đoàn dân Chúa, Hội Thánh của Người.

Sau khi Đức Giê-su bị giết! Thế giới mà các môn đệ mong chờ để được chia chác chỗ đứng đã bị sụp đổ. Cho dù các ông đã hai lần được nhìn thấy Chúa, nhưng tiến trình đổi mới để thay đổi nhất là niềm vui và ơn bình an của Chúa Phục sinh không có hiệu quả ngay tức khắc; nó không được xẩy ra một sớm một chiều. Các ông vẫn còn buồn chán và với tâm trạng thất vọng, các ông trở về nghề chài lưới tại Biển Hồ Ti-bê-ri-a, nơi mà các ông đã làm trước khi đi theo Chúa. Có bẩy môn đệ có mặt trong lần hiện ra này, đó là “ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.”

Giống như mọi lần, hôm nay Phê-rô mau mắn lên tiếng đề xuất “tôi đi đánh cá đây.” Phê-rô chỉ nói lên ý định của mình, không có ý truyền lịnh hay yêu cầu điều gì nơi các bạn đồng nghiệp. Như một vị lãnh đạo tài giỏi và nhiệt thành, ông chỉ gợi ý mời gọi việc cộng tác của các bạn và tự nguyện đi bước trước. Ông tôn trọng ý kiến hay việc đóng góp của các bạn. Các bạn của ông thấy được trách nhiệm và tinh thần cùng chia sẻ nên đã đồng thanh xin đi cùng. Tinh thần hiệp nhất trong công tác chung đã được nói đến, nhưng kết quả của việc ra khơi trong đêm hôm ấy vẫn không bắt được con cá nào hết! Có lẽ, chúng ta cũng đoán được lý do tại sao. Câu trả lời sẽ tìm thấy trong phần kế tiếp của trình thuật. Theo kinh nghiệm của những ngư phủ, cá thường đi ăn vào ban đêm; thế mà các môn đệ đã vất vả cả đêm mà vẫn không lưới được con cá nào cả!

Khi màn đêm đã trôi qua để nhường chỗ cho bình minh xuất hiện thì các môn đệ đã mệt nhoài nên các ông chuẩn bị đi về. Ngay thời điểm ‘khi trời đã sáng’, Chúa Ki-tô không chỉ hiện đến mà Người đang đứng trên bãi biển mà các môn đệ không nhận ra Người. Điều này có nghĩa là Người hiện diện và đang đứng ở đó, lúc ánh sáng của thái dương bắt đầu xuất hiện. Người không biến mất rồi hiện ra, Người đang đứng ở đó; nhưng các môn đệ và chúng ta (vẫn đang ở trong đêm tối) không nhận ra Người.

Cho dù các môn đệ không nhận ra Người, nhưng các ông vẫn vâng lời mà làm theo điều Người dậy bảo mà thả lưới ở bên phải mạn thuyền và kết quả là các ông thu đuợc một mẻ cá lớn mà nhiều người gọi là mẻ lưới kỳ diệu bao gồm 153 con thuộc đủ mọi loại cá khác nhau. Trước kết quả này, người môn đệ được Chúa yêu, có thể là nhân vật đại diện cho tất cả mỗi người chúng ta, bởi vì ai trong chúng ta lại không được Chúa yêu sao. Ông môn đệ được Chúa yêu nhận ra Chúa và lên tiếng cho Phê-rô biết là “Chúa đó”. Còn phản ứng của Phê-rô lại khác, vẫn bộc trực, thẳng thắn và mau mắn. Vừa nghe bạn mình nói “Chúa đó” là ông lập tức nhẩy ngay xuống biển bơi vào bờ đến với Chúa. Lời nói và hành động của người được Chúa thương yêu và Phê-rô đã để lại cho chúng ta bài học vô cùng cao quí là sự nhận biết Chúa của chúng ta không dừng lại ở mặt cảm xúc; nhưng cần được thể hiện bằng hành động mà tiếp cận với Chúa.

Chúa Giê-su mời các ông cùng ăn sáng đã được dọn sẵn cho các ông. Thầy trò cùng ăn với nhau. Một bữa ăn sáng đơn sơ, thanh đạm nhưng đầy tình thân. Lương thực của buối sáng hôm đó chỉ vỏn vẹn có mấy con cá và vài khúc bánh thế mà đã để lại trong tâm tư của họ một điều thật kỳ diệu đến nỗi không một ai trong nhóm họ dám hỏi về thân thế của Người, vì tất cả đều biết Người chính là Đức Chúa của họ, là chính Đức Giê-su, bằng xuơng bằng thịt mà các ông đã theo Người trên con đường sứ vụ. Người không phải là bóng ma, mà là Đấng đã chỗi dậy từ cõi chết.

Việc ra khơi của các môn đệ hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại điều mà Đức Giê-su đã tuyên bố khi kêu gọi các ông trở thành môn đệ của Người, đó là  “hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mác-cô 1,17) Dù trong hành trình thi hành sứ vụ, Đức Giê-su đã gọi, chọn và huấn luyện các ông từ những người đánh cá chuyên nghiệp trở thành những kẻ lưới người; nhưng hiệu quả của việc tuyển chọn và huấn luyện chỉ có hữu hiệu sau khi Đức Giê-su sống lại. Chúa Ki-tô Phục Sinh, trao ban Thần Khí, năng quyền và sức mạnh để các ông ra khơi chài lưới người về với gia đình Hội Thánh.

Như vậy, kết quả việc lưới cá hôm nay cho chúng ta hiểu rằng cho dù con người có nhiệt tình và hăng say đến đâu trong công việc truyền giáo mà thiếu yêú tố căn bản và quan trọng nhất, đó là sự hiện diện của Chúa, thì dù chúng ta có đạt thành quả, nhưng đó chỉ là thành quả dựa vào sức mình; đến khi gặp phong ba bão táp, những gì chúng ta xây dựng có thể sẽ bị sụp đổ tan tành. Việc làm như thế có thể được ví như người xây nhà trên cát vậy. Việc đầu tiên trước khi ra khơi để rao giảng là nhận ra sư hiện diện của Chúa Phục Sinh, Đấng cùng đi với mình rồi sau đó mới thả lưới.

Sau khi dùng bữa sáng xong. Chúa Giê-su biết rằng đã đến lúc Người cần ủy thác cho một môn đệ trong nhóm đứng ra đảm nhận vai trò lãnh đạo, thừa hành trách vụ của người Mục Tử nhân lành mà Chúa Cha đã ủy thác. Người đã hy sinh mạng sống mình để yêu thương và bảo vệ đoàn chiên mà Chúa Cha đã ủy thác cho Người thế nào thì giờ đây người kế thừa trách vụ này cũng phải có tấm lòng hy sinh và yêu thương đoàn chiên như thế. Nên trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã ba lần hỏi Phê-rô “Anh có yêu mến Thầy không?” Và Phê-rô đã ba lần đáp trả “Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Cho dù trước đây, trong hành trình Thương Khó của Đức Giê-su, Phê-rô đã ba lần chối là ông không hề biết Chúa. Nhưng hôm nay, với năng lực và ân huệ của Chúa Phục Sinh, Phê-rô nhớ lại việc Thầy làm và Lời Thầy dậy trong bữa tiệc ly: “Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!”

Đây chính là khuôn vàng thước ngọc để lượng định và đánh giá vị trí và ơn gọi của người lãnh đạo. Người lãnh đạo không dựa vào khả năng hay sự khôn ngoan của bản thân; nhưng hoàn tòan được phát xuất từ sự đáp trả về câu hỏi “anh hay chị, ông hay bà có yêu mến Chúa không?” Yêu mến thì ra khơi múc nước mà rửa chân cho nhau. Làm to là như thế, là quì xuống mà phục vụ theo gương của Thầy, Đấng yêu thương mình và ngược lại mình cũng hết lòng yêu thương Chúa và tha nhân nữa.

Như vậy, sau khi cùng nhau suy niệm bài Tin Mừng về việc Chúa đến với các môn đệ hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại rằng giống như các môn đệ, chúng ta đã nhiều lần để cho đêm tối lấn át nên đã không nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục sinh, Đấng đang đứng chờ đợi ta trên con đường mà chúng ta đang đi. Người hiện diện trong những lúc chúng ta gặp khó khăn. Người có mặt khi chúng ta vui cũng như lúc buồn phiền. Người hiện diện khi chúng ta cô đơn và bí lối. Người ở đó và chuẩn bị bữa cơm tình thương rồi mời chúng ta cùng ăn với Người. Người biết rõ các nỗi yếu đuối, các cơn hoạn nạn, những lần chúng ta ngã gục, những giây phút chán nản, khiến chúng ta thất vọng…

Tóm lại, trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời Người vẫn có mặt. Người đứng đó chờ đợi lời đáp trả của chúng ta trước câu hỏi “anh chị em có yêu mến Chúa không?” Người hiện diện và biết chúng ta yêu mến Chúa nên Người đã cho phép chúng ta thừa hành nhiệm vụ của Người trong vai trò của người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì yêu.

Vì thế, dựa vào hoàn cảnh cá biệt của từng cá nhân, Chúa đã bộc lộ tình thương và sự chăn dắt của Người dành cho chúng ta. Giờ đây, theo gương Người, chúng ta cũng được mời gọi ra đi, đến với anh chị em trong hoàn cảnh của họ mà thể hiện tình yêu thương và sự chăm nom của chúng ta dành cho họ; nhất là những người nghèo đói yếu đuối, đau khổ, lạc lối hoặc đang gặp rắc rối.

Hãy chăm sóc nhau như Chúa đã từng chăm sóc cho chúng ta. Amen! Alleluia.