Anh chị em
thân mến,
Bài Tin Mừng
chúng ta suy niệm hôm nay là phần đầu của diễn từ ‘Chúa Chiên Lành’ trong Tin Mừng
theo Thánh Gio-an. Trong phần này, Đức Giê-su đã dựa vào một thực tại mà những
người Do Thái đều có kinh nghiệm, đó là nghề chăn chiên và công bố Người là cửa
ràn chiên và con chiên nào ở trong ràn chiên của Người thì có sự sống, và cuộc
sống của chúng thì thật phong phú và dồi dào.
Nhưng mỗi khi
nói đến chiên thì bản thân tôi gặp nhiều khó khăn. Tôi chưa hề chăn chiên, cho
nên cũng chẳng biết sinh hoạt của chiên như thế nào. Chiên vẫn là những con vật
rất xa lạ. Ít ai trong chúng ta có kinh nghiệm về việc chăm sóc và nuôi dưỡng
chúng. Vì thế, để hiểu rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này, chúng ta cùng nhau đặt
mình trong bối cảnh và nền văn hoá mà trình thuật này được viết ra, đó là cùng
nhau quay lại nền văn hóa của những người sống cùng thời với Đức Giê-su để tìm
hiểu cách thức chăn chiên của họ.
Căn cứ vào chức
năng và nhiệm vụ: những người chăn chiên thường xuyên ở với ràn chiên. Nhiệm vụ
của họ vô cùng vất vả. Vào mùa nắng, họ phải dẫn chiên đi đến những đồng cỏ tốt;
và khi mùa đông đến ông phải tìm chỗ cho chiên trú ẩn; ông còn phải học để săn
sóc cho các con chiên bị thương tích.
Hàng ngày họ
chia sẻ sinh hoạt và cuộc sống với nhau tại các nơi hoang vắng, ít người qua lại.
Họ chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh, và chính nhờ vào yếu tố riêng biệt
và lối sống chung này nên những người chăn chiên thường có một mối giây tương
quan mật thiết với từng con chiên trong ràn. Do đó, ngày qua ngày, họ học để biết
rõ từng con chiên, và các con chiên trong cùng một ràn cũng nhận biết tiếng nói
của người chăn, và dễ dàng phân biệt tiếng của họ với tiếng của người khác.
Mỗi ngày, chiên
được dẫn đến các sườn đồi để gặm cỏ, dưới sự giám sát của những người chăn
chiên. Khi màn đêm buông xuống, các con chiên theo ràn được dẫn về đồng cỏ, được
rào cẩn thận để canh giữ chiên; và thông thường chỉ cần để lại một người gác cổng
để trông chừng. Đến sáng hôm sau, các người chăn chiên đến triệu tập chiên thuộc
ràn của mình và dẫn chúng đi. Chiên nào theo ràn ấy. Chúng không phải là những
con vậy ù lỳ và ngu ngốc như chúng ta tưởng, chúng học và nhận ra tiếng người lạ
để trốn chạy, trái lại chúng nghe và làm theo tiếng gọi của người chăn nuôi
chúng. Như vậy, có một mối quan hệ tin cậy giữa người mục tử và từng con chiên
trong ràn mà người đó có trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ.
Và trong bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã dựa vào kinh nghiệm thực tế trong việc chăn
chiên để loan báo rằng Người không chỉ là người chăn chiên mà còn là cánh cửa để
chiên ra vào nữa. Người chính là cửa, là đường để chiên đi vào đồng cỏ. Tại nơi
đó, từng con chiên và cả ràn chiên sẽ có một cuộc sống thật phong phú.
Sứ điệp của Đức
Giê-su công bố quả rõ ràng. Ngày nay ai trong chúng ta lại không hiểu ngay ý của
Người; thế mà những người Do Thái đang nói chuyện với Đức Giê-su trong trình
thuật hôm nay lại không hiểu. Họ không hiểu ý của Người, bởi vì họ không muốn
đón nhận Người.
Còn Đức
Giê-su, khi loan báo như thế, Người có ý cho chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa
người chăn chiên và kẻ trộm cướp. Người chăn chiên chăm sóc, bảo vệ và quan tâm
đến sự sống của chiên, còn kẻ trộm cướp thì hủy diệt. Người chăn chiên dắt
chiên từ cửa để ra và vào ràn, còn kẻ trộm cướp thì không làm như thế, chúng vượt
rào để ăn cắp chiên.
Trong nhiệm vụ
của người chăn chiên, Đức Giêsu chỉ có một mối bận tâm duy nhất, đó là làm cho
các con chiên sống bằng sự sống của Thiên Chúa, cuộc sống của các con chiên
trong ràn thuộc về Người càng ngày càng dồi dào và phong phú hơn. Cuộc sống
phong phú của các con chiên không lệ thuộc vào số lượng, sự giầu có, thành công
hay được người khác tán thưởng và công nhận; nhưng cuộc sống phong phú mà chúng
ta nói ở đây là một cuộc sống có chất lượng như Đức Giê-su đã làm gương. Điều
mà Đức Giê-su đã sống và muốn dậy chúng ta theo gương Người là: quan tâm, yêu
thương, ban phát, lo lắng, bảo vệ, săn sóc cho những người thuộc về Người, cho
những ai mà Chúa Cha đã ban cho Người.
Thưa anh chị
em,
Khi suy niệm về bài tin mừng hôm nay, tôi nhớ đến Thánh vịnh
23. Qua đó tác giả đã ngợi ca sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và ông ta
không còn thấy thiếu gì nữa. Một cuộc sống thật dồi dào được tặng ban cho những
ai thuộc về ràn chiên của Ngài. Và những ai thuộc về ràn chiên của Người thì chẳng
thiếu thốn gì. Có Chúa làm gia nghiệp thì quá đủ cho chúng ta rồi.
Hơn thế nữa, mối tương quan giữa Chúa là mục tử trong Thánh vịnh
còn làm nổi bật giá trị của các mối quan hệ giữa con người với nhau. Vì thế,
danh hiệu mục tử cũng được dùng để gọi tất cả những ai noi gương và bắt chước sự
tận tụy, hy sinh, bao bọc của Thiên Chúa; Đấng luôn quan tâm và lo lắng cho dân
của Ngài được an vui và hạnh phúc.
Vì thế, các nhà lãnh đạo trong dân về đời cũng như đạo đều được
gọi là mục tử. Mục tử tốt lo cho đoàn chiên. Mục tử xấu lợi dụng chức vụ để thu
lợi cho mình thì có ai nghe theo bao giờ! Nếu có người hùa theo thì cũng vì lợi
nhuận; đến khi tan đàn thì lại cấu xé nhau. Tuy nhiên, chỉ có mình Chúa Giê-su
phục sinh là vị mục tử nhân hậu. Tất cả chúng ta là cộng sự của Người. Muốn
hoàn tất sứ mạng được trao phó, trong vị trí riêng của từng người, chúng ta được
mời gọi kết hợp với Chúa là đấng chủ chăn duy nhất, là mục tử nhân hậu. Còn
chúng ta tuy được ban tặng cho danh hiệu đó; nhưng chúng ta vẫn còn và luôn
luôn là những con chiên trong ràn chiên của Chúa.
Hẳn anh chị
em còn nhớ khi trao quyền cho Thánh Phê-rô, Chúa Phục Sinh đã 3 lần hỏi Phê-rô
có yêu mến Người không. Và cũng 3 lần Người nói hãy chăn dắt các chiên của Thầy.
Chiên thuộc về Chúa còn Phê-rô chỉ là người cộng tác. Ý thức và biết rõ nhiệm vụ
cũng như vị trí của mình, nên Thánh Phê-rô đã chia sẻ như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên
Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng
hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn,
nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những
người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.”
(1Pet 5:2-4)
Dựa vào các
điểm nói trên, chúng ta nhận ra rằng người chăn chiên nhận công tác chăm sóc
ràn chiên từ ông chủ. Và ông ta cần chu toàn tốt công việc mà chủ đã trao phó.
Vì thế, người chăn chiên tốt là người biết bảo vệ ràn chiên cho chủ. Ông vẫn chỉ
là người chăn thuê. Chiên không thuộc về tài sản của ông.
Tóm lại, chỉ
mình Đức Giê-su là Đấng chăn chiên tốt lành, nhân ái và thiện hảo. Cả thế giới
và mọi người sống trong đó là ràn chiên thuộc về tay Người. Người đã chết để bảo
vệ và trao ban cho ràn chiên sự sống, một cuộc sống phong phú và dồi dào; và
không ai có thể lấy mất được.
Còn chúng ta,
mỗi người đều là những người chăn dắt ràn chiên, nhỏ hay lớn, trong gia đình,
ngoài xã hội, hay trong bất kỳ một cơ cấu hay tổ chức nào mà Thiên Chúa trao
phó. Nói cách khác, khi chúng ta được mời gọi chăm sóc, hướng dẫn, nuôi sống và
bảo vệ cuộc sống của người khác là lúc chúng ta thực hiện nhiệm vụ mục tử. Các
công việc đó không chỉ là hành động mà còn được phát xuất từ mối quan hệ yêu
thương và quan tâm của chúng ta dành cho nhau. Cao cả và khó khăn.
Chúng ta
không thể nào chu toàn trọn nhiệm vụ cao cả của mình, nếu không sống theo gương
mẫu của Người Chăn Chiên duy nhất là Đức Ki-tô, Đấng đã chấp nhận mọi đau khổ,
và sẵn sàng hy sinh thân mình để mở cánh cửa và ban cho các con chiên trong ràn
được một cuộc sống phong phú và tràn đầy. Còn chúng ta, ngày hôm nay, trong nhiệm
vụ đã được trao phó, cũng phải sống sao cho vơi đi những đau khổ mà thế gian
đang phải gánh chịu mà làm cho cuộc sống của người khác được thăng hoa hơn.
Cầu chúc anh
chị em chúng mình có thể chu toàn ơn gọi đã được kêu mời, tiếp tục ra đi và làm
như Chúa Chiên Lành đã làm. Amen!
No comments:
Post a Comment